Lời Nguyền Lâu Lan

Chương 36

Sau khi lửa soi hồng những khuôn mặt đẫm mồ hôi.

Sau khi sương lạnh bao trùm vườn hoa tĩnh mịch.

Sau khi mang đau thương qua những ngọn núi đá.

Lại là những tiếng gào thét, lại là những tiếng kêu la.

Cung điện tù ngục và tiếng sấm xuân

Vang vọng làm chấn động núi xa

Ngày ấy anh ta đang sống, còn bây giờ đã chết

Chúng ta đã từng sống và bây giờ đang sắp chết

Chỉ cần kiên nhẫn một chút thôi.

La Chu ngồi trên ghế, lặng lẽ nghe đoạn thơ trên trong bài thơ “Đất hoang”. Trong chớp mắt, anh cũng cảm thấy giống như lời trong bài thơ, bản thân anh đã từng sống, còn bây giờ thì đang sắp chết. Anh thong thả hít thở không khí, ngắm Lam Nguyệt đang ngồi trước mặt. Còn Lam Nguyệt thì đang nhìn thẳng vào mắt La Chu, đọc “Đất hoang” bằng chất giọng giàu sức cuốn hút của mình. Ánh sáng trong phòng đã được cô điều chỉnh xuống mức thấp nhất, vừa đủ để La Chu có thể nhìn rõ khuôn mặt và đôi mắt mơ màng của cô. Cô ngồi cách La Chu khoảng một mét, La Chu cảm thấy đây là khoảng cách có thể mộng tưởng hão huyền nhưng không thể với tay tới. La Chu không rõ bây giờ là mấy giờ đêm, chỉ nhớ những con sóng cả trên sông Tô Châu đã sớm bị bóng tối bao trùm. Anh giống như một ngư dân, bỗng nhiên đánh được một con cá tuyệt đẹp ở dưới sông. Miệng Lam Nguyệt tiếp tục mấp máy dưới ánh điện, những câu thơ trong “Đất hoang” giống như khe suối chầm chậm tuôn chảy:

Ở đây không có nước chỉ có núi đá,

Núi đá không có nước chỉ có con đường cát,

Con đường cát chạy vòng quanh núi

Núi là do đá chồng lên nên không có nước

Nếu có nước chúng ta đã dừng lại để uống

Giữa núi đá con người không thể dừng lại hoặc suy nghĩ

Bàn chân cạn mồ hôi chìm trong đất cát

Chỉ cần trong núi đá có nước

Núi đã chết miệng đầy răng sâu, không khạc ra được một giọt nước

Người ở đây không thể đứng, cũng không thể nằm, cũng không thể ngồi

Trên núi đến cả sự tĩnh lặng cũng không có.

Chỉ có tiếng sấm cạn, không có mưa

Trên núi đến cả sự cô đơn lạnh lẽo cũng không có

Chỉ có những bộ mặt trầm uất gầm thét trong nụ cười lạnh lẽo

Hiện ra trên cửa căn nhà bùn khô nứt nẻ.

La Chu rất thuộc đoạn thơ này, anh đã từng kinh hãi cái thế giới mà T.S Eliot miêu tả, nhưng nghĩ kỹ, kỳ thực bản chất của thế giới không phải mang dáng dấp như thế sao? Con người đã giấu giếm, che đậy, không phải bản chất thật của bộ mặt thế giới là thế này ư? Cho dù là như thế thì có gì đáng sợ đâu, chỉ có đôi môi hồng của người đọc thơ, dường như cùng lúc tuôn ra những vần thơ cũng hút luôn cả anh vào đó. Thực ra bài thơ mà anh thích nhất không phải “Đất hoang” mà là bài “Bốn khúc tứ tấu”[26], cũng là bài thơ được giải Nobel văn học. La Chu trước kia thậm chí còn viết một cuốn tiểu thuyết có liên quan đến Eliot, đại thể là mô phỏng theo Jorge Luis Borges, nội dung kể về Eliot đi trong mê cung, nhưng mãi không đi được đến đoạn cuối. Bắt đầu từ đất hoang, cuối cùng lại kết thúc ở đất hoang. Trong khi La Chu đang suy nghĩ lan man về Eliot thì Lam Nguyệt vẫn vẫn tiếp tục đọc “Đất hoang”.

Chỉ cần có nước

Mà không cần núi đá

Nếu có núi đá

Cũng có nước

Có nước

Có nguồn

Trong núi đá có đầm nước nhỏ

Nhưng chỉ có tiếng nước chảy

Không phải là thật

Cùng đồng ca với cỏ khô

Còn tiếng nước chảy trên núi đá

Ở đó chim họa mi thành đàn hót trên những cây tùng

Tí tách, tí tách, tách tách tách

Nhưng không có nước.

- Đủ rồi! - La Chu đột ngột cắt đứt giọng đọc của Lam Nguyệt. Anh lẩm bẩm câu “Nhưng không có nước”. Cho dù dưới căn hộ của anh là một con sông đầy nước, nhưng anh vẫn cảm thấy khát, anh cảm thấy trong cổ họng bỗng nhiên nóng ran lên như có ngọn lửa thiêu đốt ở bên trong.

- Nhưng vẫn chưa đọc xong. - Lam Nguyệt dịu dàng nói.

- Anh biết!

La Chu ngẩng đầu lên, ghé sát vào cô nói:

- Xin lỗi đã cắt lời em, nhưng đến đấy với anh là đủ lắm rồi, không cần phải đọc hết! Nếu không anh sẽ không chịu nổi. Vả lại, em đọc cũng đã lâu rồi, nhất định khát nước, phải uống một chút gì chứ!

Anh đứng dậy mang đến cho Lam Nguyệt mấy lon nước ngọt.

- Cảm ơn anh, em không khát, em sinh ra vốn đã không sợ khát rồi!

Nhưng cô vẫn uống một ngụm, có lẽ là vì lịch sự, cũng có thể cô khát thật.

- Em biết vì sao anh chịu không nổi không? Vì từ cái đoạn “Chỉ cần có nước” đến cái đoạn “Nhưng không có nước” đó là quá trình đi từ hy vọng đến tuyệt vọng hoàn toàn. Có nước và không có nước, đọc nên chỉ thiếu một chữ nhưng là ranh giới giữa sinh tồn và chết chóc. Anh bỗng nhiên nhớ đến “Đoạn hồn Lâu Lan” của chúng ta. Thành cổ Lâu Lan chẳng phải vì mất nguồn nước mà bị diệt vong sao?

- Trong kịch bản của chúng ta, Thành cổ Lâu Lan mất nguồn nước là do lời nguyền.

- Đúng, nhưng theo anh thì như nhau cả thôi, đều là một dạng tuyệt vọng! Anh nghĩ Amanda Eliot có lẽ biết Thành cổ Lâu Lan, thậm chí khả năng còn có cảm hứng với Thành cổ Lâu Lan. “Đất hoang” viết năm 1922, khi đó những báo cáo và thư tịch của Sven Ahders Hedin và Marc Aurel Stein đã lưu truyền trong dân gian mười mấy năm rồi! Rất nhiều người phương Tây có cảm tình với nền văn minh cổ đại của Tân Cương. Eliot có khả năng cũng là một trong số người đó. Ông cũng có khát vọng được đi du lịch Tân Cương, thậm chí còn nuôi hy vọng được đến thăm Thành cổ Lâu Lan? Do có khát vọng đó cho nên ông mới viết “Đất hoang”, có vẻ như trong “Đất hoang” đều là những hoàn cảnh ông ta đã sống hoặc là thấy nó trong ảo giác, nhưng anh cảm thấy những ý cảnh đó đều hướng về một nơi: Thành cổ Lâu Lan. Cảnh tượng hoang lạnh và chết chóc là Thành cổ Lâu Lan bây giờ, nhưng hoàn cảnh sống và nhân vật ông ta miêu tả là Thành cổ Lâu Lan của ngày xưa, chính là thời đại phồn vinh của con người Thành cổ Lâu Lan. Mà Thành cổ Lâu Lan đi từ tiêu vong đến biến thành đất hoang, cũng chính là hình tượng phù hợp đi từ cái chết đến sự hủy diệt.

Khóe môi Lam Nguyệt khẽ nhếch lên, khiến khuôn mặt trông tròn trịa hơn, cô nói:

- Anh thật là có đầu óc tưởng tượng, có lẽ anh nói đúng!

- Thôi mà, anh chỉ suy đoán lung tung thôi mà, có lẽ Eliot căn bản không biết đến sự tồn tại của Thành cổ Lâu Lan! - La Chu cười tự chế nhạo mình.

- Em vẫn cứ muốn tin rằng những ý cảnh trong “Đất hoang” là nói về Thành cổ Lâu Lan.

Lam Nguyệt đứng lên, cô đi về phía cửa sổ, nhìn về phía những toà nhà trùng điệp bên kia sông đang phát ra những ánh đèn lấp lánh, bỗng nhiên cô mở toang cửa sổ, một cơn gió thổi vào, làm tóc cô tung bay.

- Sao lại mở cửa sổ ra? - La Chu bị gió thổi làm cho ớn lạnh.

- Cảnh đêm đẹp lắm! - Lam Nguyệt khẽ nói, - Giống như Thành cổ Lâu Lan, cảnh đêm ở Thành cổ Lâu Lan 2000 năm trước nhất định cũng đẹp như thế này, còn Thành cổ Lâu Lan của 2000 năm sau lại hoang lạnh làm sao! Cảnh sắc đêm nay của thành phố này thật đẹp, 2000 năm nữa, nơi đây sẽ biến đổi như thế nào đây? Lịch sử nên công bằng!

La Chu cảm thấy trong giọng nói của cô có niềm tâm sự, nhưng anh vẫn lạnh lùng nói:

- 2000 năm sau chúng ta đều không tồn tại nữa, đối với sự việc lúc ấy chúng ta chẳng cần quan tâm làm gì!

- Nhưng có lẽ người Thành cổ Lâu Lan 2000 năm trước đã dự cảm thấy ngày hôm nay. Còn chúng ta hôm nay, vẫn có thể cảm nhận được sự tồn tại và ảnh hưởng của Thành cổ Lâu Lan.

- Ai mà biết được? Anh chỉ quan tâm đến vở kịch của anh thôi!

Lam Nguyệt rời khỏi cửa sổ, đi về phía cửa phòng, nói nhỏ:

- Em về đây!

Nhìn Lam Nguyệt bước ra từ phía sau, La Chu bỗng cảm thấy phấn khích, anh kéo tay Lam Nguyệt lại, nói:

- Hãy ở lại đây, Lam Nguyệt, đêm nay anh cần em!

Lam Nguyệt dừng bước, cô từ từ quay đầu lại, nhìn La Chu bằng ánh mắt lạ lẫm. Ánh mắt đó như ánh mắt của chủ nhân nhìn nô ɭệ, cửa sổ vẫn mở, gió vẫn thổi tung bay làn tóc, cô nói xa xôi: - La Chu, có thật anh muốn em ở lại đêm nay?

La Chu gật đầu thật mạnh:

- Ở lại đi, chỉ cần em tự nguyện!

- La Chu, anh có thể sẽ ân hận về phấn khích chốc lát của anh đêm nay đấy!

- Không, cho dù kết cục như thế nào, anh cũng không ân hận!

Anh càng nắm chặt bàn tay cô hơn.

Lam Nguyệt bất đắc dĩ cười, một nụ cười đau khổ, nói:

- Có lẽ đây là số mệnh!

- Đúng, đây là số mệnh!

Người Lam Nguyệt phút chốc mềm oặt, cô không phản ứng gì. La Chu nhẹ nhàng ôm cô vào lòng, giống như ôm lớp thịt của con trai tươi rói, đẹp đẽ và mịn màng bị bóc mất lớp vỏ cứng. Gió tiếp tục thổi qua cửa sổ, thổi bay tất cả những gì trên người họ. Dưới ánh đèn mờ mờ, trong phòng chỉ có hai linh hồn cô đơn đang thở hổn hển.

Trong cái đêm gió thu phóng đãng ấy, La Chu bắt đầu bước vào một vùng đất hoang mới mẻ.