Mê Tông Chi Quốc

Chương 152: Hồi 4: âm nguồn

Lớp mây điện từ dưới lòng đất đã khiến các thiết bị cơ học như đồng hồ đều mất tác dụng, tốc độ rơi đã nhanh đến chóng mặt, mà vẫn ngày một nhanh hơn, thời gian trôi qua dường như dài đằng đẵng, mọi người quay cuồng trong không gian kín mít, ngũ quan cũng mất hết công dụng cần có, chỉ cảm thấy mình đang không ngừng rơi mãi; nếu đây không phải là vực sâu không đáy, thì cũng không thể biết nó sâu bao nhiêu.

Lúc trước, họ chỉ biết hòn đảo cổ đại nằm dưới lòng đất Đại Thần Nông Giá, cách rừng rậm nguyên sinh theo chiều thẳng đứng tầm hai trăm mét. Hố tế lễ còn sót lại từ thời Xuân Thu Chiến Quốc đã lún sâu xuống phần đáy của hòn đảo, còn bên dưới tượng thần thú “tải” lại giống như cửa khổng lồ, có lẽ còn có một huyệt động sâu hơn, thông thẳng xuống mạch núi Âm Sơn.

Lúc này, tượng thú vẫn không ngừng rơi xuống, có cảm giác như hòn đảo cổ đại dường như đang lún vào khu vực giáp ranh mảng địa tầng, nếu không sẽ không thể sâu đến vậy, có lẽ đây chính là “khe sâu” được ghi chú trong bích họa vu Sở. Tư Mã Khôi thấy đầu đau muốn nổ tung, màng nhĩ cũng đau nhức nhối, dưới ánh đèn quặng, anh thấy những người còn lại cũng nổi đầy mạch máu trên mặt.

Anh cũng biết, nếu tiếp tục rơi xuống với tốc độ thế này, thì khi chưa kịp rơi tới đáy, huyết dịch sẽ sôi sục như bị đun trong ấm, rồi thành huyết quản không chịu nổi áp lực sẽ đột ngột vỡ ra. Anh định nói, nhưng không mở miệng ra được, bởi hai hàm răng không ngừng va vào nhau lập cập, ngoài tiếng “vù vù” của dòng khí đối lưu ra, thì không nghe thấy bất kì âm thanh nào khác nữa, anh cũng đành mặc kệ sự sống chết.

Lúc này, mọi người đột nhiên thấy cơ thể như bị hất tung lên, lục phủ ngũ tạng cũng suýt chút nữa trôi vọt ra khỏi miệng. Đèn đồng tắt ngóm, xung quanh tối đen như mực, mọi người chưa kịp điều hòa hơi thở, thì dòng nước ngầm lạnh lẽo đã cùng lúc ùa vào qua bốn vách tường, mặt nước dâng cao thần tốc, rồi trong thoáng chốc đã tới đầu gối, hình như “tải” bị rơi xuống nước, nghiêng ngả chìm vào dòng nước sâu.

Hội Tư Mã Khôi chưa kịp hoàn hồn, thấy tình thế trước mắt nguy cấp, vội vàng bò lên động đạo phía trên, thấy bốn phía không còn mây từ bao phủ, nhưng trong phạm vi đèn quặng chiếu sáng, chỉ thấy xung quanh mặt nước cuộn sóng dữ dội, ở sâu hơn, không gian đen quánh, chỉ thấy tiếng gió lốc gầm rít, tứ bề âm u mờ mịt, không ai biết mình đang ở đâu.

Lúc này, “tải” không còn chìm xuống nữa, nhưng mọi người cũng không thể dừng chân ở trong này mãi được. Tư Mã Khôi thấy trên vách tường có mấy đoạn thân cây khô của thực vật tiền sử còn bám lại, trong đó có đoạn dài tầm năm mét, to bằng một vòng tay, anh lấy dao chặt hết cành lá còn bám trên vách khám, những người còn lại đều hiểu ý đồ của Tư Mã Khôi, nên hăng hái chạy lại giúp sức.

Một lát sau, “tải” đã bị dòng nước xoáy nuốt chửng hoàn toàn, mọi người may mắn kịp thoát chết trong gang tấc, nhưng ai nấy đều xước xát, rách rưới thảm hại, họ gắng gượng bò lên thân cây khô, thở hổn hà hổn hển, sắc mặt khó coi như người chết. Tư Mã Khôi bảo Thắng Hương Lân đốt sáng một cây nến phát tín hiệu, ánh sáng lập tức bừng lên như ban ngày.

Mọi người nằm rạp trên thân cây như chiếc bè gỗ, thất thần nhìn bốn phía, chỉ thấy nơi cao che kín mây đen dày đặc, còn bốn phía chỗ nào tầm mắt có thể nhìn đến, đều thấy sóng nước vỗ ầm ầm, sương khí hòa quyện vào nhau, sương mù vây kín không gian. Pho tượng thần thú khổng lồ như trái núi chìm nghỉm dưới biển nước sâu hút, tuyệt không sủi bọt, thân cây khô rỗng ruột, bị sóng đánh trôi nổi trên mặt nước, chấp chới tiến về phía trước, ngày càng cách xa vị trí “tải” rơi xuống khi nãy.

Lúc này, Tư Mã Khôi mới nhớ ra, cỗ di hài cũng chìm theo pho tượng thần thú dưới biển sâu, tình hình này có lẽ không còn hi vọng vớt nó lên được nữa. Cao Tư Dương đột nhiên giơ tay chỉ về phía trước, khẽ gọi hội Tư Mã Khôi: “Mọi người nhìn kìa, hình như phía trước có người!” Cả hội nghe nói lập tức quay ngóắt lại, nhờ ánh sáng chói lòa của pháo tín hiệu, thấy ở mặt nước phía xa thấp thoáng một cánh tay, mọi người chợt chột dạ.

Những người rơi theo “tải” xuống đây, ngoài hội Tư Mã Khôi, thì chỉ còn gã thổ tặc Lão Xà, bây giờ dẫu có nhìn thấy xác gã nổi trên mặt nước cũng không có gì là kì lạ, nhưng cánh tay người thò ra khỏi mặt nước lại chỉ xòe năm ngón cừng đờ, nó cứ thẳng đơ như thế trôi theo sóng nước, khoảng cách giữa cánh tay và thân cây khô càng lúc càng gần.

Hội Tư Mã Khôi thấy cánh tay nổi bập bềnh đến gần, liền giơ nến tín hiệu về phía mặt nước quan sát. Cảnh tượng đập vào mắt khiến mọi người không khỏi giật mình, thì ra đó là một con quái ngư với đôi vây dài, hình như đó là loài cá khổng lồ thường sinh sống ở vùng nước sâu tăm tối.

Hội Tư Mã Khôi chỉ nhìn thấy đầu, không nhìn thấy đuôi nó, nên cũng không thể phân biệt nó là loại cá gì. Con thủy quái đã nuốt già nửa thân người Lão Xà, chỉ còn mắc lại mỗi một cánh tay và cái đầu vẫn đang thò ra ngoài miệng. Xem ra, gã thổ tặc trước lúc bị thủy quái nuốt vào bụng, thì đã tắt thở và chết cứng trong sương mù từ bao giờ.

Tư Mã Khôi biết rõ gã là tay dị thuật cao cường, chẳng ngờ gã lại có kết cục chôn thây trong bụng cá, biến mất khỏi cõi đời như khói tan cỏ lụi, và cảnh tượng đó khiến anh không khỏi ớn lạnh. Anh chỉ sợ ánh sáng của pháo tín hiệu sáng quá sẽ dẫn dụ bọn thủy tộc kéo đến lật đổ bè gỗ, nên vội vàng vứt nó xuống nước; bọn thủy quái quả nhiên đuổi theo ánh sáng, trong phút chốc đã mất dạng.

Trong bóng tối chỉ còn sóng dữ cuộn trào, thân cây khô bị cuốn phăng theo dòng nước xiết, không thể kiểm soát nổi. Mọi người tắt đèn quặng, chỉ để một ngọn đèn cácbua chiếu sáng, đầu óc mơ màng giật giật từng hồi, cơ sự đã đến nước này sống chết chỉ còn tùy thuộc vào mệnh trời.

Nhân lúc đầu óc còn chút tỉnh táo, Tư Mã Khôi bảo mọi người lấy dây thừng buộc thân mình vào bè gỗ, đề phòng bị dòng nước hất xuống biển, sau đó ôm súng nằm cuộn tròn người tránh rét. Tự anh cũng không biết mình thϊếp đi lúc nào, vì dù mở mắt hay nhắm, trước mắt cũng chỉ một màu đen.

Trong đầu anh không còn chút tư duy hay ý thức nào, thậm chí ngay cả ác mộng cũng không mơ thấy, vì có lẽ giờ đây hiện thực và ác mộng cũng không có gì khác biệt. Không biết thời gian trôi qua bao lâu, anh mới dần dần phục hồi tri giác. Những người khác cũng lần lượt tỉnh dậy, chủ yếu là do mấy ngày nay chưa được hạt cơm nào dính bụng, giờ họ đói đến mức ngực dính sát vào lưng, toàn thân run lẩy bẩy, muốn ngủ cũng không ngủ tiếp được.

Thắng Hương Lân lấy lương khô chia cho mọi người lót dạ. Dạ dày có chút “thực”, nên đầu óc quả cũng mới “vực được đạo”, nhưng nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt, ai nấy đều cảm thấy không thể lạc quan. Nhị Học Sinh say sóng đến mềm nhũn cả người, anh chàng nôn hết sạch số lương khô vừa mới ăn.

Bây giờ anh chàng mới thấy thế giới dưới lòng đất hoàn toàn vượt xa những gì mình tưởng tượng được. Nhị Học Sinh gắng gượng nói với Tư Mã Khôi: “Tuy tên thổ tặc đã toi mạng, nhưng lòng đất vẫn bị mây từ che phủ dày đặc, còn đến bây giờ vẫn không biết bọn ma nữ được mô tả trong bích họa vu Sở là thứ gì.

Cỗ di hài cũng bị nước xiết nhấn chìm rồi, giờ không thể tìm được núi Âm Sơn thông với mạch đất nữa. Chúng ta cũng không hiểu vì sao núi Bối m trong truyền thuyết vu Sở lại lúc ẩn lúc hiện? Chẳng lẽ nó đang ở dưới nước? Mức nước lên xuống sẽ khiến nó bị lộ ra ngoài? Tôi thấy, ẩn số xuất hiện càng lúc càng nhiều, nhưng ngay cả phương hướng bây giờ chúng ta cũng không thể xác định chính xác, thậm chí còn không biết mình đang ở chỗ nào.

Điều đáng mừng duy nhất là vẫn còn chiếc bè gỗ, nếu không, cả hội bây giờ đã nằm gọn trong bụng cá rồi.” Tư Mã Khôi nói: “Tuy đoạn gỗ này đã cứu sống chúng ta, nhưng nó chỉ nổi lềnh bềnh trên đại dương tối tăm vô bờ bến. Tôi thấy nơi quỷ quái này không phải điểm đầu cũng chẳng là điểm cuối, nhưng lại giống với nơi tận cùng của thế giới.

Tôi từng nghe người ta nói, thời xưa có tòa ‘phù sai’, đó là chiếc bè gỗ dùng để di chuyển giữa đại dương và thiên hà; bè gỗ mà chúng ta đang ngồi bây giờ xem ra cũng chẳng khác gì ‘phù sai’, có điều chúng ta không lên thiên đàng mà xuống cõi u minh dưới lòng đất, nơi đó chính là hoàng tuyền, là nơi người chết đều phải đi xuống.” Tuy mọi người biết Tư Mã Khôi nói vậy chỉ là một cách tự trào, nhưng ai nấy đều cảm thấy tuyệt vọng cùng cực, chỉ có Hải ngọng vẫn cố tỏ ra vẻ anh hùng hảo hán: Chết nhanh cho sướиɠ, càng đỡ phải sống chịu tội.

Đây là tin vui duy nhất tôi nghe được sau khi nôn sạch bữa trưa ra đấy!” Tư Mã Khôi lại tưng tửng nói: “Tớ còn phải nói với cậu một tin, đảm bảo cậu nghe xong sẽ nôn nốt cả suất bữa tối ra luôn”. Hải ngọng hết hồn: “Tớ biết là vẫn còn chuyện đen đủi hơn mà, vì đen đủi là không thể tránh khỏi, mà đen đủi, bà nội nó chứ, đúng là đầy sức sáng tạo.

Tớ chịu không nghĩ ra nổi sẽ còn xảy ra chuyện đen đủi gì nữa. Cậu nói mau đi, Hải ngọng tớ vẫn còn chống đỡ được”. Tư Mã Khôi móc mấy tút thuốc lá trong ba lô ra, khi nãy rớt xuống nước, chưa kịp bọc chống ẩm, giờ ướt nhũn như cháo. Hải ngọng há hốc mồm, lòng đau như cắt, miệng lẩm bẩm: “Thế là toi, cả đống lương thực hi sinh hết sạch, bận này bọn mình có chết cũng yên lòng, vấn đề là giờ vẫn chưa chết được, mà rơi xuống chỗ chính mình cũng chẳng biết là chỗ nào, mà không có thuốc lá thì làm sao mà kiên trì chiến đấu đến cùng được?

Tớ thấy bọn mình chắc không ngáp nổi qua đêm nay để đợi đến bình minh ngày mai đâu….” Cao Tư Dương thấy hai người buồn rầu vì mất mấy tút thuốc lá, cô không thể hiểu rốt cuộc trong đầu họ đang nghĩ gì, cảm giác vừa bực mình vừa bất lực trào lên, cô quay sang hỏi Thắng Hương Lân: “Cô làm việc trong đội trắc họa, chắc rất rành kết cấu địa chất, thế có phán đoán đựợc bây giờ chúng ta đang ở đâu không?” Nhị Học Sinh chen ngang: “Chỗ này sóng vỗ dữ dội, mặt biển mênh mông, dưới lòng đất làm gì có sông ngầm hay biển hồ nào rộng lớn từng ấy? Chắc chúng ta rơi xuống biển rồi, nghe nói dưới lòng đất có vực sâu gọi là “nhược thủy”, còn có núi lửa đốt cháy xinh xịch suốt ngày đêm, hai nơi này gọi là vực Nhược Thủy và núi Diêm Hỏa.

Vực Nhược Thủy thực ra là chỉ vùng biển dưới lòng đất từ thuở hỗn độn hư vô, rồi tận cùng của nó toàn là dung nham nóng bỏng dị thường, người trần mắt thịt như chúng ta còn chưa kịp đến gần ngọn núi lửa đó thì đã bị dòng nhiệt lưu cao hàng ngàn độ chưng thành sương khí rồi”.

Thắng Hương Lân chăm chú nhìn la bàn trong tay, nghe vậy liền nói: “Tôi phát hiện, bè gỗ hút một số loài thực vật dạng tảo vĩ mô, nhưng đây không phải biển. Ngoài ra, dòng nước luôn chảy xiết không ngớt, sóng lại dữ dội, mặt nước bao la, nên cũng không giống biển hồ hay sông ngầm dưới lòng đất.

” Nhị Học Sinh không hiểu liền hỏi lại: “Nếu xét theo địa hình quy mô thủy hệ dưới lòng đất, thì sông ngòi, biển hồ đều không phải, cái gì cũng không phải, nên rốt cuộc đây là chỗ nào?” Thắng Hương Lân nói: “Hình dung một cách đơn giản, cội nguồn của nó rất có khả năng là thủy thể, tức là một vùng chứa nước nguyên thủy.

Nó là tiền thân của tất cả thủy hệ ở tầng địa biểu, là vùng giao hòa giữa nước mặn và nước ngọt. Thời tiền sử, Biển Âm Dụ ở Đại Thần Nông Giá mênh mông nước, chính là bắt nguồn từ nơi đây.” Tư Mã Khôi nói: “Này Nhị Học Sinh! Anh cứ tưởng chú đọc nhiều sách, nên thiên văn địa lý cái gì cũng am hiểu, nhưng thực ra chú biết mỗi cái vỏ ngoài, những kẻ bi quan chỉ nhìn thấy khó khăn trong cơ hội, trong khi những người lạc quan thì lại nhìn thấy cơ hội trong khó khăn.

Anh ngờ rằng, chỗ này chẳng phải ‘thủy thể’ quái gì dưới lòng đất, mà nó rộng lớn thế nào đi nữa cũng không thể vô bờ vô bến, chỉ cần bè gỗ trôi theo dòng nước, thì sớm muộn gì cũng đến bờ thôi”. Mọi người không có niềm tin vào điều này lắm, nhưng giờ chơi vơi trên bè gỗ thì cũng không thể nghĩ ra cách gì, nên chỉ đành mặc cho dòng nước không ngừng đẩy bè về phía trước.

Kim đồng hồ khựng lại bất động, nên không rõ cả hội lênh đênh trôi theo dòng nước, giống như biển u minh này, bao ngày bao đêm. Hết lương khô thì họ bắt cá biển ăn bù, hết nước thì hứng nước ngầm nhỏ xuống uống cho đỡ khát. Chiếc bè gỗ rơi xuống vực sâu không đáy như chiếc lá khô giữa cơn lốc tố, mưa to gió lớn do ma sát mây từ mang đến xuất hiện bất thường, trải qua vô số lần suýt chút bị lật, phía trước họ vẫn là bóng tối mênh mang không thấy điểm tận cùng, còn thứ dịch chuyển trong bóng tối giữa cõi hồng hoang tựa hồ chỉ có thời gian và gió.

Tư Mã Khôi bàng hoàng cảm thấy bất lực, lần trước khi bước chân vào biển cát khô nóng mênh mông dưới kính viễn vọng Lopnor, ít ra anh còn cảm thấy bàn chân chạm đất, còn biết rằng chỉ cần kiên trì bước từng bước, thì cuối cùng cũng sẽ phải ra đến rìa sa mạc, nhưng lần này thì quả thật ngay cả Werner Heisenger cũng không dám xác định.

Lúc này, bè gỗ vẫn liền ngày nối đêm liên tục trôi về hướng Tây, có trời mới biết họ đã cách Biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá bao xa. Nghĩ mãi vẫn không ra, Tự Mã Khôi liền hỏi Thắng Hương Lân: “Có thật nó là thủy thể không hả? Chẳng lẽ không còn khả năng nào khác sao?” Thắng Hương Lân sớm có dự cảm không lành, cô trầm ngâm giây lát rồi mới nói: “Tôi nghĩ đây có lẽ chính là thủy thể dưới lòng đất, nhưng còn một khả năng xấu hơn, chúng ta đã rơi vào vòng tròn ma quái mà bích họa vu Sở đã mô tả.