Ngày thứ nhất : Niệm Phật, ăn chay là căn bản để hộ quốc tức tai Ấn Quang vốn là một ông Tăng tầm thường, vô tri, vô thức, chỉ biết đến cơm cháo, chỉ biết niệm Phật dăm câu, tuy sống uổng thời gian hơn bảy mươi năm, nhưng tuyệt chẳng hề triệt để nghiên cứu Phật pháp. Pháp hội Hộ Quốc Tức Tai lần này, các vị kèo nài tham gia, vì tình nghĩa chẳng từ khước được. Vả lại, đây là chuyện quan hệ đến phước lợi quốc gia mà cũng là trách nhiệm tôi phải tận lực nên tôi chẳng nề mình hiểu biết sơ sài vụng về đến dự pháp hội này. Ðiều tôi giảng hôm nay trọn chẳng phải là lý luận cao sâu gì, chỉ là thuật lại phương pháp căn bản để “hộ quốc tức tai”. Còn về ý nghĩa quan trọng của pháp hội lần này, ngày mai sẽ bàn đến.
Mục đích của pháp hội lần này là hộ quốc tức tai10 . Làm sao mới đạt được mục đích này? Tôi cho rằng phương pháp căn bản là Niệm Phật vì sát kiếp và hết thảy tai nạn đều do ác nghiệp của chúng sanh chiêu cảm. Nếu tất cả mọi người đều niệm Phật thì nghiệp này sẽ xoay chuyển được. Nếu chỉ có một ít người niệm Phật thì nghiệp ấy cũng có thể giảm nhẹ. Pháp môn Niệm Phật tuy là vì cầu sanh Tịnh Ðộ, liễu thoát sanh tử mà lập ra, nhưng sức tiêu trừ nghiệp chướng của nó quả thật cũng cực kỳ lớn lao. Người chân chánh niệm Phật trước hết ắt phải giữ vẹn đạo nghĩa, tận hết bổn phận, ngăn dứt lòng tà, giữ lòng thành11 , đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện. Cần nhất là phải hiểu rõ nhân quả, tự hành, dạy người hành. Hiện tại không thánh, không hiếu, khinh miệt đạo, phế luân thường, gϊếŧ cha, chung vợ v.v… bao tà thuyết đều là do bọn Tống Nho bài bác nhân quả - luân hồi đến nỗi sanh ra ác quả này. Nếu như ai cũng hiểu rõ đạo lý nhân quả thì chẳng một ai dám xướng lên những thuyết sai lầm ấy cả. Trong thế gian, người tốt hoàn toàn chẳng biến đổi rất ít, kẻ xấu hoàn toàn chẳng biến đổi cũng rất ít; đa số là kẻ lúc thượng, lúc hạ, khi tốt, khi xấu, cho nên giáo hóa là điều khẩn yếu nhất vậy. Khổng Tử nói: “Duy hạ trí dữ hạ ngu bất di” (Chỉ bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là chẳng thay đổi). Chỉ cần ra sức giáo hóa thì không một ai là chẳng thể khiến họ đổi ác theo lành, buông dao đồ tể, ngay lập tức thành Phật. Chỉ là do nơi con người tin tưởng, nghĩ nhớ, tận lực mà hành thôi. Ngày nay xã hội Trung Quốc sở dĩ loạn lạc rối ren đến như thế này chính là do không được giáo hóa; nhưng giáo hóa phải bắt đầu từ lúc còn nhỏ, như hay nói: “Giáo phụ sơ lai, giáo nhi anh hài” (Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở ban sơ mới về). Nếu lúc nhỏ chẳng dạy, đến lúc lớn khó lòng lay chuyển. Vì sao? Tập tánh (thói quen) đã thành, không cách chi thay đổi được. Vì thế, người niệm Phật cần phải chú ý giáo dục con cái mình trở thành người tốt, giữ tấm lòng tốt, nói lời tốt, làm việc tốt. Nếu ai cũng làm được như thế thì tai nạn tự tiêu, quốc gia cũng giữ được hưởng phước bình trị dài lâu .
Chân lý mầu nhiệm căn bản của pháp môn Niệm Phật nằm trong ba kinh Tịnh Ðộ. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm đã dạy: [Niệm Phật] chính là hạnh nguyện căn bản chẳng thể thiếu khuyết. Vì Thiện Tài đã viên mãn tâm Thập Tín13 , tham học với tỳ-kheo Ðức Vân, được Ngài dạy cho pháp môn Niệm Phật, liền nhập vào Sơ Trụ14 , phần chứng Pháp Thân. Từ đấy, ông tham học với hơn năm mươi vị thiện tri thức, hễ nghe xong liền chứng, từ Nhị Trụ đạt đến Thập Ðịa là bốn mươi địa vị. Tối hậu, ở chỗ Phổ Hiền Bồ Tát, được nghe Ngài khai thị, được sức oai thần gia bị, sở chứng ngang với ngài Phổ Hiền, ngang với chư Phật, liền thành Ðẳng Giác Bồ Tát. Sau đó, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn dắt quy hướng Cực Lạc, khuyến khích, cổ vũ Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng nhất trí tinh tấn hành trì, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới hầu mong viên mãn Phật Quả. Vì thế, biết rằng: Pháp môn Niệm Phật, tự phàm phu thuở ban đầu cũng có thể chứng nhập được, mà rốt cục đến bậc Ðẳng Giác cũng chẳng thể vượt ra ngoài nổi. Thật là pháp môn Tổng Trì trên thành Phật đạo, dưới giáo hóa chúng sanh, thành thỉ, thành chung15 của mười phương tam thế hết thảy chư Phật. Vì thế, pháp môn này được chín giới cùng hướng về, mười phương chung tán thán, ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận đều tuyên thuyết.
Phàm là người học Phật thì có một việc nên chú ý là rất cần kiêng ăn mặn vì ăn mặn sẽ tăng trưởng cơ duyên gϊếŧ hại. Con người cùng hết thảy động vật cùng sanh trong vòng trời đất, tâm tánh vốn là bình đẳng, chỉ vì nhân duyên ác nghiệp đến nỗi hình thể sai khác quá xa. Nếu đời này quý vị ăn thịt chúng nó, đời mai sau chúng nó sẽ ăn thịt quý vị. Oan oan tương báo (oán hờn báo đền mãi), cơ duyên gϊếŧ chóc đời đời chẳng có lúc nào kết thúc. Nếu như ai ai cũng ăn chay được thì sẽ vun bồi tâm từ bi của chính mình, tránh khỏi cơ duyên gϊếŧ hại. Nếu không, dù cho niệm Phật, nhưng chỉ lo sướиɠ miệng, vui bụng, ăn đẫy thức tanh hôi, có được lợi ích thật sự nhờ học Phật đâu16!
Hơn nữa, người đời nay ưa nói Thiền Tịnh Song Tu. Xét đến cùng cái gọi là Song Tu đó chỉ là khán câu “người niệm Phật là ai?” Ðấy là chú trọng tham cứu, chẳng ăn nhập gì đến việc sanh Tín phát nguyện cầu vãng sanh của Tịnh Ðộ cả, rõ ràng là hai chuyện [khác biệt]! Thêm nữa, Thiền Tông nói: “Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” là nói đến đương nhân đích thân thấy được chính nơi tâm vốn sẵn đủ Phật tánh. Mật Tông nói: “Ngay thân này thành Phật” (tức thân thành Phật) tức là ngay thân này được giải thoát sanh tử thì đó là “thành Phật”. Nếu vội hiểu những lời đó có nghĩa là [ngay chính nơi thân này] có thể thành tựu được vị Phật vạn đức đầy đủ, phước huệ viên mãn thì lầm to, lầm to mất rồi!
Bởi lẽ, “kiến tánh thành Phật” của Thiền Gia là [sở chứng] của địa vị đại triệt, đại ngộ. Nếu đoạn được Kiến Hoặc và Tư Hoặc17 trong tam giới mới có thể liễu sanh thoát tử. “Tức thân thành Phật” của Mật Tông chẳng qua là nói về địa vị mới liễu thoát sanh tử. Ðịa vị đó là bậc A La Hán trong Tiểu Thừa đã liễu sanh tử, bậc Sơ Tín trong Viên Giáo đã đoạn Kiến Hoặc, bậc Thất Tín đoạn Tư Hoặc rồi mới giải quyết xong sanh tử. Bậc Thất Tín và A La Hán tuy cùng liễu sanh tử nhưng thần thông, đạo lực khác xa nhau vời vợi. Bát Tín, Cửu Tín, Thập Tín phá được Trần Sa Hoặc18, cho đến Thập Tín Hậu Tâm phá một phẩm Vô Minh, chứng một phẩm Tam Ðức bí tạng19 , nhập vào Sơ Trụ, thành bậc Pháp Thân Ðại Sĩ. Trải qua Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Ðịa, Ðẳng Giác là bốn mươi mốt địa vị rồi mới chứng nhập địa vị Phật. Lịch trình còn lâu xa như thế đó, làm sao mà một bước vọt đến nơi ngay cho được? Người tu Tịnh Ðộ đã sanh về Tây Phương liền liễu sanh tử thì cũng là “tức thân thành Phật”, nhưng Tịnh Tông chẳng nêu cái thuyết tiếm phận20 ấy. Ðem so với việc thuần cậy vào tự lực của nhà Thiền thì sự khó - dễ thật là sai khác một trời một vực. Kính mong các vị dự hội suy nghĩ chín chắn điều này