Báo Ứng Hiện Đời

Chương 103: 20. Không Nên Ham Cầu Thần Thông

Reng…reng…reng! Tiếng chuông điện thoại dồn dập vang lên, âm thanh cậu Du (vị cư sĩ trẻ tuổi) có vẻ khẩn trương, hỏi:

– Em hiện tại ngồi thiền tụng kinh, mấy ngày nay suốt 24 giờ bên tai luôn nghe tiếng nói xưng tên họ, hơn nữa còn biết chuyện xảy ra trong tương lai, không ngừng mách với em…

– Ngàn vạn lần bạn không nên chấp vô đó, đừng có ham nghe âm thanh này, bạn cần đọc kỹ “Năm Mươi Loại Ngũ ấm Ma trong Kinh Lăng Nghiêm” mà Phật miêu tả; hơn nữa cần có định lực, chánh niệm, chánh tri, chánh kiến. Đừng quên trong Kinh Kim Cang từng nói: “Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người ấy hành đạo tà, không thể thấy Như Lai”. Lúc tĩnh tọa nếu thấy cảnh lạ, gặp đủ cảnh giới thì chớ nên tham đắm mê luyến, phải giữ tâm bình thản như như bất động, không để cho Năm Mươi Loại Ngũ ấm Ma thừa cơ nhập vào…

– Em biết rồi…

Được một tháng sau, lúc 2 giờ khuya, điện thoại lại dồn dập reo vang:

– Chị Quả Hồng, em là Du đây, chị cứu em với! Có nhiều âm thanh liên tục quấy nhiễu, em sợ lắm, e khó sống đến ngày mai…

Nghe cậu ta nói thế, tôi hiểu ngay: bởi do quá mê cầu thần thông, Du cư sĩ đã đi lạc. Vì tình hình khẩn cấp, qua điện thoại tôi hướng dẫn cậu tụng từng chữ từng câu chú Lăng Nghiêm và chú Đại Bi để giúp cho tâm an định lại trước đã.

Sáng ra, tôi rủ các pháp hữu chánh tri chánh kiến, đến thăm cậu Du. Trong lúc mọi người hiệp lực trợ giúp, cậu Du tạm có chuyển biến tốt. Du cư sĩ mặc dù ăn chay, tĩnh tọa, tụng kinh, trì chú… nhưng lòng hay chấp trước, rất hẹp hòi.

Sau khi bước vào đường học Phật rồi tuy thói quen tự thỏa dục cậu đã khổng chế, nhưng khởi tâm động niệm thường không thanh tịnh, hơn nữa lại chưa chân chánh sinh tâm đại sám hối phát thệ sửa lỗi, đổi mới bản thân. Đã không có thực tu thực chứng, hành sự toàn là tư lợi, không biết tu sửa tâm tánh mà chỉ biết chấp trước vào hình tướng, lại quá ham mê thần thông, nên cậu dễ lạc vào tà kiến, ngũ ấm ma mới thừa cơ chen vào.

Tu hành chiêu vời quỷ ma, thường là do khơi tâm ham cầu thần thông, ham cảm ứng, ham khai ngộ v.v…

Thế nên người tu hành học Phật, trước cần nhận rõ đường đi, phải có đủ tri kiến chơn chánh. Đầu tiên phải có trí tuệ, minh tâm kiến tánh. Khi thật sự kiến tánh rồi, nhờ khéo nhận biết được “chủ nhân ông” thì dù có gặp cảnh lạ cũng chẳng mê, khó bị ma quấy nhiễu. Thứ nữa, cho dù không dụng công tu từ căn bản, thì cũng phải hiểu rõ gì là “học Phật, tu hành”.

Mặc dù hằng ngày học Phật tu hành thì mục đích chính lả: phải hiểu rõ nghĩa lý trong kinh. Khai mở trí huệ rồi, thì chiếu theo những gì trong kinh thuyết giảng mà hành trì, đồng thời phải luôn bồi dưỡng định lực khiến tâm thanh tịnh (giống như dùi cây tạo lửa, luyện binh để ra chiến trường vậy).

Nhờ tụng kinh, tĩnh tọa mà định huệ phát lực. Còn phải áp dụng Phật pháp vào trong sinh hoạt thường nhật. Nếu khéo vận dụng sức định huệ để tu, sửa đổi các thói quen xấu, không ích kỷ tham lam tư lợi, lo trau giồi đức hạnh để ngày càng đạt đến cành giới cao tột như chư Phật Bồ-tát. chuyển tâm phàm thành tâm Phật, chỗ chỗ đều lảm lợi chúng sinh, được vậy mới gọi là “chân chánh học Phật”.

Trong Kinh Lăng Nghiêm gọi ngũ ấm, (còn có tên “ngũ uẩn”) tức là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mỗi thứ có mười loại ma, hợp lại thành “Năm Mươi Ngũ ấm Ma”. Kinh Lăng Nghiêm nói: – Phá rối hay thành tựu là do “ngũ ấm” trong tâm ngươi – Chủ nhân nếu mê, thì khách được thể tung hoành… Từ đây mà suy thì Phật tính vốn có sẵn của chúng ta và ngũ ấm ma là mối quan hệ “chủ-khách”. Nếu chủ mê thì dễ bị dụ, khách sẽ được thuận lợi. Chủ nếu thường tỉnh giác, ắt khách phải tôn kính, lãng xa… Người tu hành chân chánh đối với thần thông tuyệt chẳng nên tham cầu, chẳng muốn vọng cuồng bàn luận, chẳng chấp chẳng xua, luôn giữ trung đạo…

Ngài Tuyên Hóa thường giảng: Lục Thông là cảnh giới trí tuệ hiển hiện (trong quá trình tu hành vô nhiễm, khai ngộ vả chứng quả của hành giả), điều này không có gì là phi thường. Quan trọng là cái nhìn của hành giả có chân chánh hay không? Hành giả phải trì giới thanh tịnh và ngăn ngừa tham dục, để khỏi đi sai đường, không lạc vào tà đạo.

Thẩn thông không thể luyện tập hay do truyền thọ mà có. Thần thông xảy ra tự nhiên khi hành giả tu đến mức độ nào đó. Nhưng thần thông không thể giúp chấm dứt sanh tử, cũng không phải là mục tiêu cứu cánh mà Phật giáo nhắm đến.

Thật ra, thần thông chỉ là sự thông suốt của tự tánh (tự tánh thông), mọi người ai cũng đều có sẵn đầy đủ (Phật tánh lẫn thần thông), nhưng tất cả bị ngăn che bởi vô minh, phiền não.

Dĩ nhiên khi Phật còn tại thế, Ngài đã cấm đoán mọi người không được biểu diễn thần thông của mình, nhưng Ngài cũng không cấm đoán con người hiển lộ thần thông. Nếu Bồ tát có thần thông mà không hiển lộ để phương tiện giáo hóa chúng sinh, thì thần thông để làm gì? Đức Phật chỉ sợ rằng người ta “tùy tiện” biểu diễn thần thông hoặc dùng thần thông để lừa dối kẻ khác và đưa họ vào cảnh giới tà ma (đã được mô tả rõ ràng trong Chương “Năm Mươi Ấm Ma” của Kinh Lăng Nghiêm), trong đây có nói:

“Nếu hành giả không nghĩ mình chứng Thánh, thì đó là cảnh giới tốt. Còn nếu tự cho mình chứng Thánh, thì sẽ bị lạc vào đường tà”.

Phật dạy: Có bốn tâm thường nên phát khởi:

Tâm bình đẳng

Tâm khiêm nhu

Tâm không giải đãi

Tâm vô độc

Đệ tử Phật cần lấy giới làm thầy, nghiêm trì giới luật, tin sâu nhân quả, thân cận người có chánh kiến, lả thiện tri thức thực tu (khéo dùng pháp tu thích hợp với mình nhất để nhϊếp tâm giữ niệm). Trong sinh hoạt thực tế hằng ngày, phải phát tâm Bồ-đề, hành Bồ-tát đạo, làm nhiều việc lợi ích chúng sinh. Kiên nhẫn cấy cày không nôn mau thu hoạch, lúc nào cũng dọn tâm sạch sẽ, không ngừng phá trừ ngã tướng, ngã chấp… đạt đến vô sở cầu, nhận ra bản lai diện mục.

Nếu tín đồ Phật Giáo chỉ quan tâm đến thần thông mà không lo tu dưỡng phát triển bi trí, giác ngộ độ sinh… thì xem như đã nhầm lẫn mục tiêu và không phải là đệ tử chân thật của Phật.