Ngày hôm sau, Ôn Thế sai người đưa Tả Thương Lang đến Ôn phủ ở Hoạt Đài. Người nhà Ôn Thế đều ở trong gia tộc tại Hoạt Đài, Hoạt Đài chỉ cách Phương Thành một cái huyện Đường, chẳng hề xa xôi. Tả Thương Lang hoàn toàn không đứng nổi, Tàng Thiên Tề sai người đập gãy hai chân nàng không hề có nửa điểm lưu tình.
Nàng hiện tại không nói khỏi hẳn, chỉ sợ nếu như được chữa, cũng không thể khôi phục như xưa. Làm một người trên chiến trường sát phạt, như thế này chính là phế nhân.
Ôn phủ ở Hoạt Đài cũng không tráng lệ như trong tưởng tượng. Cổng đồng tường đỏ, trước cửa có một đôi sư tử bằng đá, phía trên treo một tấm biển sơn thϊếp vàng. Tả Thương Lang được người ta nâng vào trong phủ, vốn là thϊếp thất nhập môn cũng có một bộ lễ nghi, nhưng tựa hồ như ở Ôn gia không có ai quan tâm đến chuyện này.
Tả Thương Lang được mang tới một tòa lầu nhỏ, trong sân nhỏ phía trước lầu, trồng đầy dưa leo dây bò khắp nơi. Tả Thương Lang nghiêng đầu nhìn xung quanh, chỉ thấy có hai đứa bé trai, một trái một phải, đứng ở trước cổng vòm hình bán nguyệt.
Tả Thương Lang đã từng nghe thấy Ôn Thế nhắc tới hai đứa con trai của mình, lúc này không ai bảo đã gọi: "Ôn Dĩ Hiên, Ôn Dĩ Nhung."
Hai đứa bé từ phía sau cửa đi ra, Ôn Dĩ Nhung tò mò hỏi: "Làm sao ngươi biết tên của ta và ca ca?"
Tả Thương Lang nói: "Từng nghe cha ngươi nói."
Ôn Dĩ Nhung đang muốn nói chuyện, bên ngoài đột nhiên có tiếng một người phụ nữ nói: "Dĩ Hiên, Dĩ Nhung! Đi ra, không được phép quấy rầy di nương nghỉ ngơi."
Hai đứa bé làm mặt quỷ, vội vã chạy ra ngoài tiểu viện. Tả Thương Lang bị đầy tớ trực tiếp nâng đến trên giường, lúc di chuyển chỉ cảm thấy xương vỡ trong hai chân đâm thẳng vào trong thịt. Chỉ chốc lát sau, bên ngoài có một người phụ nữ đi vào. Nàng đã ngoài ba mươi tuổi, khóe mắt hơi xuất hiện một chút nếp vân mảnh nhưng nhìn vẫn xinh đẹp tuyệt trần.
Nàng ấy đi đến phía trước giường Tả Thương Lang, cúi đầu nhìn thoáng qua chân nàng. Có lẽ tình huống của Tả Thương Lang Ôn Thế đã giải thích rõ ràng với nàng. Nàng nói: "Về sau ngươi ở lại chỗ này, nếu như thiếu cái gì, sai người đến nói với ta một tiếng là được."
Tả Thương Lang nói: "Ôn phu nhân?"
Nàng ừ một tiếng, nói: "Ta họ Dư, khuê danh Thu Thục." Nói xong, xoay người ra khỏi tiểu lâu. Chỉ chốc lát sau, lại có hai thị nữ đi vào, giúp nàng rửa mặt. Hai người cũng không có đặc biệt quan tâm tới vết thương ở hai chân nàng, lúc tắm rửa, Tả Thương Lang thậm chí có thể nghe thấy tiếng xương vỡ rời ra.
Thái dương nàng mồ hôi rịn ra dày đặc, nhưng nàng không kêu lên một tiếng nào. Ôn Thế không hi vọng nàng bình phục, mấy người này đương nhiên cũng sẽ không bận tâm.
Dư Thu Thục phái hai nha hoàn làm việc nặng tới chăm sóc nàng. Tả Thương Lang không thể xuống giường, đi nhà vệ sinh cũng phải có người nâng đỡ. Hai thô sử nha hoàn mặc dù không đủ tỉ mỉ, nhưng thật ra cũng không tệ, dù sao mỗi ngày ăn uống ngủ nghỉ tất cả đều hầu hạ chu đáo, những việc vặt khác lại cũng không để ý.
Tả Thương Lang mỗi ngày ở trên giường bứt rứt, cũng chỉ có thể nhìn về ô cửa sổ phía nam giải sầu.
Có một hôm, Ôn Hành Dã – Ôn lão gia tử ở trong sân luyện quyền. Ông cụ vốn cũng là lão tướng sa trường, bởi vì bị thương nên mới về nhà dưỡng lão, nên hơi khó tính. Thỉnh thoảng nổi giận, hết sức là dọa người. Nói chuyện với mọi người đều là lớn giọng.
Tả Thương Lang không có việc gì, chỉ có thể nhìn qua cửa sổ xem ông cụ luyện quyền, một lúc sau, không khỏi phì cười một tiếng. Ôn Hành Dã quay đầu, lập tức liền lườm nàng một cái: "Ngươi cười cái gì?"
Tả Thương Lang lập tức vẻ mặt nghiêm túc, nói: "Không có gì, các người không cho ta đi, cũng không cho ta được phép cười nữa sao?"
Ôn Hành Dã bước vào, hỏi: "Nói, ngươi cười cái gì!"
Tả Thương Lang nói: "Ta nói nhưng ông không được tức giận nhé." Ôn Hành Dã trợn mắt, nàng nói: "Ôn lão gia tử, ngài năm đó chính là dựa vào mấy cái khoa chân múa tay này mà ra trận gϊếŧ địch sao?"
Ôn Hành Dã lập tức nổi giận: "Hỗn trướng! Ngươi nói cái gì?!"
Tả Thương Lang nói: "Nói thật thôi mà, nếu ông không thích nghe thì ta không nói nữa."
Ôn Hành Dã lông mày đều dựng đứng lên: "Ngươi đứng lên! Lão phu muốn nhìn một chút xem ngươi có bản lãnh gì!"
Tả Thương Lang nói: "Nói nhảm, ông không nhìn thấy ta dậy không nổi sao!"
Ôn Hành Dã tiến lên, lỗ mãng xách nàng ngồi dậy: "Tay ngươi thì vẫn có thể sử dụng được chứ?"
Hai người vì vậy bắt đầu liều mạng đấu quyền, Tả Thương Lang vừa động liền mồ hôi đầm đìa, Ôn Hành Dã vì không muốn bị hiểu lầm là sàm sỡ nàng, cũng đứng đến thẳng tắp, chân không nhúc nhích.
Hai người ngươi tới ta đi đấu qua mấy chiêu, Ôn Hành Dã dần dần thấy có chút hứng thú – – con nhóc này cũng không tệ đâu! Thế nhi nói hai chân nó đã phế, không phải là giả chứ?
Ông cụ trong lòng tò mò muốn kiểm tra, nhưng dù sao trên danh nghĩa vẫn là cha chồng. Nào có cha chồng lại đi xem chân con dâu! Liền không nhiều lời, hai người đánh cho tới trưa, ai cũng mồ hôi ướt áo. Cuối cùng vẫn là Ôn lão phu nhân cảm thấy không ra thể thống gì, mới đến khiển trách lôi ông cụ đi.
Nhưng Ôn lão gia tử dù sao cũng ngứa nghề, buổi chiều lại đến, cầm sa bàn muốn cùng nàng đàm luận. Tả Thương Lang chưa từng có trưởng bối bao giờ, nên cũng không có gì cố kỵ, nói: "Trong phòng vừa ướt vừa lạnh, nâng ta ra sân rồi nói."
Ôn lão gia tử trừng nàng: "Ngươi dám nói chuyện với trưởng bối như thế này sao? Không biết lớn nhỏ!"
Tả Thương Lang nói: "Vậy ngài có còn muốn chơi nữa không?!"
Ôn Hành Dã suy nghĩ một chút, muốn đưa tay ra đỡ nàng, nhưng cuối cùng cũng không làm. Đành gọi nha hoàn chạy lại đỡ, ông cụ tự mình ra ngoài, ở trong sân trải nệm gấm lên ghế trúc. Tả Thương Lang ngồi ở trên ghế trúc, ánh mặt trời mùa đông ấm áp chiếu lên người, còn cảm thán: "Ai, hai người chúng ta, thế mà chỉ còn một chân có thể dùng."
Ôn Hành Dã nổi cáu lấy thước gõ đầu nàng, hai người mỗi người cầm một lá cờ nhỏ, tiếp tục ở trên sa bàn phân chia phạm vi thế lực.
Tả Thương Lang ngồi lâu, muốn xoay người một chút, vất vả một lúc lâu cuối cùng tay cũng túm được hai cái chân bị thương đặt lên mặt ghế đá bên cạnh. Vừa quay đầu lại bài binh bố trận, Ôn Hành Dã đã càng ngày càng hoài nghi chân nàng bị thương là giả.
Ông cụ vươn tay, nhấn một cái lên đầu gối nàng, trong lòng cả kinh – – chỗ tiếp xúc toàn bộ xương đầu gối đã vỡ nát, chỉ có thể sờ đến những mảnh xương lẫn dưới da. Nếu không phải do dùng vật nặng đập vào, vết thương sẽ không thành dạng này.
Ông cụ âm thầm giật mình, bên cạnh Ôn Dĩ Nhung mở to đôi mắt tròn xoe, hỏi: "Gia gia, tại sao ông lại sờ chân di nương?"
Ôn Hành Dã liền bạt tai nó một cái. Ôn Dĩ Nhung oa một tiếng khóc rống lên, Dư Thu Thục cùng Ôn lão phu nhân đều chạy tới, vội hỏi: "Chuyện gì thế? Sao vậy?"
Ôn Dĩ Nhung vừa khóc vừa nói: "Gia gia sờ chân di nương! Sau đó còn đánh con..."
Ôn Hành Dã: ...
Tả Thương Lang: ...
Ôn Hành Dã tuy lâu không ra chiến trường, lại vô cùng thích nói chuyện đánh trận, trong phủ phu nhân và con dâu đều là tiểu thư khuê các, không có người đàm đạo mấy loại chuyện này với ông cụ. Bây giờ có Tả Thương Lang ở đây, ngược lại có thể giải cái khó chịu, thế là ông cụ liền thường xuyên đến chơi.
Tả Thương Lang dù sao đi lại bất tiện, trong phủ không có người chữa trị cho nàng, thương thế căn bản không có chuyển biến tốt đẹp. Có người thường xuyên lại chơi, so ra với khó chịu trên giường một mình tốt hơn nhiều.
Vì thế nên đối với Ôn lão gia tử mỗi ngày lại đây nói chuyện suông cũng rất hoan nghênh. Hai người đầu tiên là đánh cuộc bằng củ lạc, về sau cảm thấy mất mặt, liền bắt đầu đánh cược bằng bạc. Không biết làm thế nào nàng lại là đứa không biết nhường trưởng bối, thường xuyên làm Ôn Hành Dã tức giận đến nổi trận lôi đình.
Ôn phủ mặc dù cách xa Yến đô, nhưng quy củ vẫn hết sức nghiêm. Ôn Dĩ Nhung cùng Ôn Dĩ Hiên mỗi ngày đều lại đây thỉnh an, sáng chiều phụng dưỡng, một ngày cũng không lơi lỏng. Tả Thương Lang thắng Ôn lão gia tử không ít bạc, ra tay ngược lại hào phóng, mỗi lần đều cho hai huynh đệ rất nhiều tiền tiêu vặt. Dù sao cũng là của nhà họ, nàng cũng không đau lòng.
Ôn Dĩ Hiên biết rõ chi tiêu phải tiết kiệm, Ôn Dĩ Nhung còn nhỏ, đã cảm thấy nàng có tốt hay không.
Trong lúc nàng ở Ôn phủ sống những ngày chán chường ăn xong lại nằm của một di nương không có việc gì làm, tại Tấn Dương Thành, Mộ Dung Viêm nhận được tin tức hai người thành hôn. Thám tử thậm chí còn mang đến cho y một tấm thiệp mời của Ôn Thế.
Mộ Dung Viêm nắm ở trong tay, năm ngón tay dùng sức, thiệp mời tan thành tro. Y cúi đầu nhìn, trông thấy bột đỏ bay tứ tán, Cam Hiếu Nho, Phong Bình cùng Chu Tín mấy người đứng hầu ở bên cạnh, tất cả đều không dám nói một lời nào. Mộ Dung Viêm nói: "Nếu Ôn Thế đã đến Phương Thành, Túc Nghiệp Thành hẳn là giao cho Viên Hí?"
Chu Tín nói: "Hồi bẩm bệ hạ, chắc là thế. Nhưng nếu Ôn Thế đã dám rời đi, vi thần nghĩ, Túc Nghiệp chắc chắn bố trí nghiêm mật."
Mộ Dung Viêm nói: "Viên Hí là người hữu dũng vô mưu, nếu Túc Nghiệp do hắn trấn thủ, lại nghiêm mật cũng vô ích."
Chu Tín nhìn y, không dám đáp lời. Dù sao Ôn Thế bố trí phòng thủ, đến cả người Tây Tĩnh cũng không thán phục không được.
Mộ Dung Viêm nói: "Gọi Hứa Lang lại đây, cô muốn thân chinh."
Cam Hiếu Nho cũng nói: "Bệ hạ! Ôn Soái đi đến Phương Thành, không thể nào hoàn toàn không có chuẩn bị. Huống chi Túc Nghiệp Thành hiện thời vừa mới đánh lui Tây Tĩnh, dân chúng đều rất ủng hộ. Đường đột tiến công, chỉ sợ mất dân tâm!"
Nếu như luận trong các gia thần, kẻ hy vọng Mộ Dung Viêm chiến thắng nhất chắc chắn là ông ta.
Mộ Dung Viêm nói: "Ôn Thế cho rằng bắt một Tả Thương Lang, cô liền bất lực không thể chinh phạt khắp nơi được nữa sao. Hừ. Hứa Lang đâu, triệu hắn lại đây."
Vào lúc canh ba, Mộ Dung Viêm đem công việc nội bộ tại Tấn Dương giao cho Cam Hiếu Nho, cấm quân giao cho Phong Bình. Tự mình điểm binh từ Tấn Dương xuất phát, gióng trống khua chiêng tấn công Phương Thành.
Viên Hí phụng mệnh đóng ở Túc Nghiệp Thành, nghe được tin này xong, đương nhiên lo lắng cho Ôn Thế. Nhưng đồng thời, cũng nhìn ra cơ hội. Hiện thời Mộ Dung Viêm dẫn quân tinh nhuệ vây công Phương Thành, Tiểu Kế Thành, Đại Kế Thành tất nhiên binh lực suy giảm.
Phương Thành cách Tiểu Kế Thành rất xa, nếu hắn nhân cơ hội tấn công Tiểu Kế Thành, y có muốn cứu cũng không kịp.
Biết trong lòng hắn có ý đó, Gia Cát Cẩm cùng Trịnh Chử lại không yên tâm, dù sao Ôn Thế đã ra quân lệnh, trước khi hắn trở về, vô luận có xảy ra tình huống gì cũng không được phép tự ý xuất binh. Mấy người tranh luận không xong, Viên Hí nói: "Không bằng như thế này đi, ta tự mang người tấn công thẳng vào Tiểu Kế Thành, hai người các ngươi ở lại thủ thành. Cho dù xảy ra chuyện gì, cũng không trở thành nguy hiểm cho Túc Nghiệp."
Gia Cát Cẩm cùng Trịnh Chử mặc dù vẫn không đồng ý, nhưng cũng nghĩ không ra lý do phản bác. Viên Hí nói: "Cứ như vậy đi."
Tối đó, hắn dẫn đầu một nhánh quân cả đêm tấn công Tiểu Kế Thành. Chiến thế đang giằng co, lại chợt thấy một người đứng trên đầu thành. Người kia rõ ràng là nữ, trên người mặc chiến giáp, trong ánh đèn đuốc mơ hồ, không phải Tả Thương Lang thì là ai. Viên Hí thầm giật mình, binh sĩ phía dưới đã có người thấp giọng kêu: "Là Tả Thương Lang!"
Tả Thương Lang không phải bị bắt ở Phương Thành sao? Làm sao lại xuất hiện ở nơi này?
Trong khoảng thời gian ngắn, quân tâm đại loạn.
Lãnh Phi Nhan mặc chiến giáp của Tả Thương Lang, đứng ở trên cổng thành không hề động. Mộ Dung Viêm không cho nàng xuống, lúc này ánh sáng mờ tối, không có ai thấy rõ mặt nàng. Nhưng một khi giao chiến, nhất định sẽ có người nhận ra thực hư. Mà lúc này, Chu Tín sai người thay y phục quân bên phía Ôn Thế – – tám ngàn quân tinh nhuệ dưới tay Hứa Lang trước đây vốn chính là quân của Ôn Thế.
Hiện thời tám ngàn người này lại mang theo cờ hiệu của Viên Hí, không hề ở trong đoàn quân tấn công Phương Thành mà đã đến Túc Nghiệp.
Đúng lúc nửa đêm, Gia Cát Cẩm, Trịnh Chử nhìn thấy tướng sĩ mặc trang phục bên mình, lại thấy đại kỳ của Viên Hí, không hề nghi ngờ liền mở cổng thành ra.
Chu Tín nhân cơ hội dẫn quân tiến vào, ngay lập tức Túc Nghiệp tiếng hô gϊếŧ bốn phía nổi dậy. Vốn lúc này binh lực của Túc Nghiệp Thành vẫn có ưu thế, dù sao quân của Ôn Thế vô luận chiến lực vẫn là binh giới đều rất hoàn mỹ, nhưng mà cũng đúng lúc này, Viên Hí thấy Tả Thương Lang tự mình trấn thủ Tiểu Kế Thành, lại không công mà lui.
Vừa quay về trong thành, lại thấy Chu Tín đánh vào Túc Nghiệp!
Viên Hí kinh hãi, lập tức sai người xông lên.
Nhưng gặp phải đúng lúc trời tối, song phương trang phục đều giống nhau, trong khoảng thời gian ngắn khó có thể phân biệt rõ đành chỉ có thể chém gϊếŧ lung tung. Mà quân Chu Tín dẫn vào Túc Nghiệp Thành kỳ thật không đến sáu ngàn người. Trong thành lại có hơn bảy vạn binh lực.
Gia Cát Cẩm cùng Trịnh Chử chẳng hề biết Viên Hí đã quay trở về thành, hai nhánh quân bên trong thành không nhận ra đối phương là đồng bọn, cùng đồng thời bắn tên, chém gϊếŧ lẫn nhau đến thiên hôn địa ám.
Đúng lúc này, Lãnh Phi Nhan cùng Luyên Đê Điêu Đào Phúng Cao dẫn viện binh đến, lại tiếp tục đánh vào Túc Nghiệp. Viên Hí hai mặt thụ địch, nhất thời thảm bại, bị Lãnh Phi Nhan bắt được.
Cùng lúc, Trịnh Chử, Gia Cát Cẩm đã phát hiện ra mình bị lừa, vội ban lệnh ngừng công kích. Lãnh Phi Nhan hội hợp cùng Chu Tín, Chu Tín dẫn quân, lấy binh phù của Viên Hí lừa Gia Cát Cẩm tín nhiệm, tiến vào doanh trại. Song phương lại tiếp tục một trận ác chiến.
Đợi đến sắc trời nhá nhem sáng, chiến sự kết thúc, Gia Cát Cẩm, Trịnh Chử bị bắt. Túc Nghiệp đã bị chiếm.
Cùng thời điểm đó, tại Phương Thành, Ôn Thế đã đánh bại Mộ Dung Viêm, Mộ Dung Viêm bị bại liền dứt khoát rút lui. Sau thất bại này y bị tổn thất hơn một ngàn người, lập tức triệt binh trở về Tấn Dương Thành.
Ôn Thế ngay lập tức phát giác ra mình bị lừa, định suốt đêm vội vã chạy về Túc Nghiệp Thành. Mộ Dung Uyên vẫn còn không hiểu được: "Túc Nghiệp Thành có sáu vạn quân coi giữ, tất cả đều là quân tinh nhuệ của ta, Mộ Dung Viêm tên nghịch tử này cho dù có mưu kế gì đi nữa, sao có thể lung lay được?"
Ôn Thế nói: "Ta sai rồi."
Mộ Dung Uyên hỏi: "Ôn khanh cớ gì lại nói như vậy?"
Ôn Thế nói: "Chúng ta đều cho rằng y sẽ phái người tới cứu Tả Thương Lang, nên chúng ta đều sai rồi." Hắn không nói gì nữa, suốt đêm bí mật chạy về Tấn Dương Thành. Đám người Tàng Tiêu hộ tống hắn, xuyên qua Nam Sơn núi non trùng điệp, vòng qua Tấn Dương, vượt sông Ích Thủy, qua Hôi Diệp Nguyên, thẳng đến Túc Nghiệp.
Nhưng mà dưới chân thành Túc Nghiệp, hắn trông thấy Mộ Dung Viêm đã chờ sẵn ở dưới cổng thành.
Ôn Thế đứng lại, Mộ Dung Viêm nhẹ nói: "Ôn Thế, đã lâu không gặp?"
Ôn Thế chỉ cảm thấy toàn thân rét lạnh, trong Túc Nghiệp Thành có hơn sáu vạn tướng sĩ, tất cả đều là quân tinh nhuệ. Quân của Mộ Dung Viêm tổng cộng tất cả cũng không quá bảy vạn, y tấn công Phương Thành, ít nhất phải dẫn theo hai vạn quân, hơn nữa đều phải là quân tinh nhuệ. Phòng thủ Tấn Dương sẽ không dưới hai vạn, binh lực còn thừa lại dốc toàn bộ lực lượng, cũng không quá ba vạn quân. Hơn nữa ba vạn quân này, lại là tạp quân trong dân gian thu thập tạm thời.
Nếu như không phải tận mắt nhìn thấy, hắn quả thực không thể tin nổi người này lại thật sự có thể phá được Túc Nghiệp Thành.
Mộ Dung Viêm sai người ở dưới thành bố trí một cái lọng che, bên trong đã bày biện một bàn rượu và thức ăn, nói: "Ta chờ đã lâu, Ôn Soái quả nhiên chưa từng thất ước."
Ôn Thế chậm rãi đến gần, bên cạnh Tàng Tiêu tay cầm chuôi kiếm, hắn khoát tay ngăn lại. Khi đó chính là lễ trừ tịch cuối năm. Hắn ngồi xuống đối diện với Mộ Dung Viêm, Mộ Dung Viêm chính mình đứng dậy, rót rượu cho hắn. Lãnh Phi Nhan mang mặt nạ màu bạc, chưa bỏ giáp, hộ vệ phía sau lưng y.
Ôn Thế rũ mắt, nhìn chén rượu, rất lâu mới hỏi: "Ngươi làm cách nào mà có thể phá thành?"
Mộ Dung Viêm nói: "Ta không hề phá thành, là quý bộ tự gϊếŧ lẫn nhau, thành tự bị phá."
Ôn Thế lúc này mới một lần nữa quan sát y, từ trước tới giờ vị hoàng tử này, như ngọc thô chưa mài dũa còn bám bụi. Hiện thời bụi đã lau sạch, mài giũa tinh xảo, lộ ra ánh sáng lộng lẫy kinh thế. Ôn Thế nói: "Ta cho rằng, ngươi sẽ đi cứu Tả Thương Lang."
Mộ Dung Viêm nói: "Ôn Soái không nên nghĩ như thế."
Ôn Thế nói: "Đúng, từ trước đến nay ngươi đối với nàng sủng tín cùng nể trọng, làm lẫn lộn phán đoán của ta. Tất cả mọi người đều cho rằng ngươi là vì Khương Bích Lan mà khởi binh, tất cả mọi người đều cho rằng ngươi sủng nhất tín nhất là Tả Thương Lang, tất cả mọi người đều cho rằng ngươi kỳ thật vô tình không muốn tranh ngôi vị hoàng đế. Mà ngươi, vì một cái ngôi vị hoàng đế, bao nhiêu năm qua đã phải dùng đến trăm phương ngàn kế!"
Mộ Dung Viêm uống hết rượu trong chén, nói: "Ôn Soái nặng lời, thực không dám đấu diếm, hôm nay ta ở đây chờ ngài, thứ nhất là vì muốn cùng Ôn Soái ôn chuyện, thứ hai cũng là muốn bàn một giao dịch. Nhưng chắc chắn không phải vì muốn biện bạch hay tranh cãi cùng Ôn Soái."
Ôn Thế từ từ nắm chặt bình rượu: "Ngươi còn muốn nói điều gì?"
Mộ Dung Viêm nói: "Ôn Soái vì dân vì nước nhiều năm như thế, trong lòng ta luôn luôn kính nể ngưỡng mộ."
Ôn Thế cười lạnh: "Ngươi muốn bảo ta đầu hàng gia nhập vào đội ngũ của ngươi sao?"
Mộ Dung Viêm lắc đầu: "Lòng trung nghĩa của Ôn Soái đối với phụ vương cũng là điểm khiến ta kính nể. Nếu như Ôn Soái tìm ta nương tựa, vô luận thật lòng hay giả ý, ta cũng không thể tin tưởng. Hơn nữa, cũng làm nhục thanh danh của Ôn Soái. Muôn ngàn đời sau, hậu nhân đề cập đến Ôn Soái, vô luận như thế nào cũng khó tránh khỏi thêm một cái tiếng xấu một thần hầu hai chủ. Ta không muốn bởi vì bản thân mình, mà tổn hại danh dự của lương thần."
Ôn Thế dần dần hiểu, Mộ Dung Viêm lại nói tiếp: "Hiện thời ta đã lấy được Túc Nghiệp, nhưng thực không dám đấu diếm, còn có mấy ngàn tàn quân đang lẩn trốn. Mà Túc Nghiệp chính là biên thành, bắc trước kia là Du Quốc cũ, tây giáp Tây Tĩnh. Hướng duy nhất bọn họ có thể trốn, chính là Hôi Diệp Nguyên. Ta không thể nào tha để mặc cho bọn họ cùng phụ vương hội hợp, cũng không muốn người Yến gà nhà bôi mặt đá nhau. Càng không muốn để người Tây Tĩnh làm hại Yến quốc tướng sĩ ta. Cho nên, ta muốn thỉnh Ôn Soái giúp ta chiêu hàng bọn họ."
Ôn Thế phảng phất như nghe được chuyện cười, hỏi: "Ngươi cảm thấy ta sẽ đồng ý?"
Mộ Dung Viêm lại rót rượu cho hắn, nói: "Sẽ, dù sao bọn họ là những người thật sự trung thành với ngươi. Mà Ôn Thế thương xót đại nghĩa, nghĩ đến sẽ không nhẫn tâm để bọn họ thân chôn nơi tha hương, cô hồn khó trở lại."
Ôn Thế trầm mặc, Mộ Dung Viêm cũng không vội, thật lâu sau, hắn nói: "Giao dịch mà ngươi nói, chính là cái này?"
Mộ Dung Viêm nói: "Không, cái này chỉ là thỉnh cầu. Giao dịch mà ta nói, cũng là chỗ mà ta quả thực khó xử. Hiện thời Đại Yến có thể nói là đại cục đã định, nhưng Ôn Soái chính là quốc lương trụ, ta lưu không thể, gϊếŧ cũng không muốn. Dù vậy vô luận như thế nào, cuối cùng cũng vẫn phải giải quyết vấn đề này. Nếu như tay ta dính máu Ôn Soái, ta nhất định bị người khác oán hận. Vì tiêu trừ chút ít oán hận này, chỉ có thể diệt trừ thân bằng cố hữu của Ôn Thế, lại là máu chảy thành sông."
Ngón trỏ của y nhẹ đặt lên chiếc kỷ trà, ưu nhã tôn quý: "Nếu như cái chết của Ôn Soái chẳng quan hệ gì tới ta, không người oán hận, đương nhiên cũng không có người báo thù. Mà ta, tự nhiên cũng bình chân như vại, không cần nghi thần nghi quỷ. Cho nên nội dung cuộc giao dịch này chính là chỉ cần máu Ôn Soái không bắn tới trên người cô vương, cô vương hứa hẹn, chỉ cần ta còn tại vị, vĩnh viễn không nhổ cỏ tận gốc bất cứ kẻ nào."
Ôn Thế nói: "Mộ Dung Viêm, ngươi quả thực là vô liêm sỉ."
Mộ Dung Viêm mỉm cười, nói: "Ôn Soái quá khen." Nói xong lại rót rượu, "Mời uống cạn chén này."
Ôn Thế nâng chén, uống một hơi cạn sạch. Lập tức đứng dậy muốn đi, Mộ Dung Viêm cũng đứng dậy, nhẹ phủi bụi trên áo, nói: "Giữ vị Tàng đại hiệp này lưu lại."
Lãnh Phi Nhan nói: "Vâng."
Dứt lời, đoản kiếm của nàng đã bay ra như cầu vồng, lao thẳng đến Tàng Tiêu. Tàng Tiêu rút kiếm ra đón, nhưng mà hắn quả thực không thể tin được, sẽ gặp phải một đối thủ như thế này ở đây! Lãnh Phi Nhan chỉ mới xuất năm mươi chiêu, đã khiến hắn rơi vào thế hạ phong. Trong vòng trăm chiêu đã hạ được kiếm của hắn.
Tàng Tiêu trơ mắt nhìn kiếm của mình bị đánh bay ra hơn trượng, cắm trên mặt đất. Người này... Người này thật đáng sợ...
Lãnh Phi Nhan không hề cho hắn cơ hội mở miệng, đánh bay binh khí của hắn xong, liền một kiếm phong hầu.
Lúc Tàng Tiêu ngã xuống vào bụi bặm trần ai cũng là lúc Mộ Dung Viêm vừa vặn vào thành.
Ôn Thế đi đến Hôi Diệp Nguyên, tìm tới tàn quân của chính mình. Khi đó lãnh binh là Nghiêm Hách, mọi người chạy trốn mấy ngày, áo cơm đều không có, bùn đất đầy mặt. Nhìn thấy Ôn Thế, không thể nghi ngờ như nhìn thấy hy vọng. Ôn Thế đem tất cả binh sĩ tụ tập lại cùng một chỗ, nói: "Mộ Dung Viêm mặc dù bức vua thoái vị, nhưng người này tài trí phi phàm, cũng coi như một cái... Thánh quân minh chủ. Các ngươi tòng quân, chính là vì bảo vệ quốc gia. Hiện thời quân chủ mặc dù thay đổi, nhưng Đại Yến vẫn còn đây. Chư vị... hãy bỏ xuống binh khí, đi đến bờ Ích Thủy..."
Hắn cắn răng, chậm rãi nói: "Đầu hàng đi."
"Ôn Soái!" Mấy ngàn binh sĩ quỳ trong vũng bùn, Ôn Thế nói: "Bao nhiêu năm qua, cảm ơn chư vị."
Nói xong, hướng về phía tất cả binh sĩ, khom người bái thật sâu.
Ngày kế, tàn quân của Ôn Thế đầu hàng.
Mộ Dung Viêm không cho bọn họ vào thành, chỉ cho an trí tại bờ sông Bạch Lang. Phát ra chút cháo cơm cùng với một ít quần áo. Tối đó, Yến quốc Đại nguyên soái Ôn Thế một người một ngựa, ra khỏi Túc Nghiệp Thành, phóng tới Mã Ấp Thành.
Mã Ấp Thành là thành trì của Tây Tĩnh, quân trấn thành không rõ chuyện gì, trong đêm tối loạn tiễn cùng phát. Ôn Thế thân trúng hơn bốn mươi mũi tên, tử trận.
Tin tức truyền về Tấn Dương Thành, tam quân buồn bã thảm thiết. Tướng lĩnh Tây Tĩnh là Nhậm Toàn kính Ôn Thế là người trung nghĩa, không đành lòng hủy thi thể, bèn lấy một bộ quan tài đơn giản bỏ xác vào, đưa trả về Đại Yến. Khi đó Túc Nghiệp Thành vết cháy như mới, từng cơn gió xoáy trận trận cuồn cuộn chiến kỳ.
Lúc tin tức truyền về Hoạt Đài, Ôn phủ giống như bị thiên tháp địa hãm. Mộ Dung Uyên liền hạ lệnh gϊếŧ chết Tả Thương Lang, nhưng Mộ Dung Viêm sớm biết kết quả, tốc độ đương nhiên nhanh hơn bọn họ. Lãnh Phi Nhan chém chết Tàng Tiêu xong, lợi dụng đêm tối chạy thẳng một mạch tới Hoạt Đài.
Tả Thương Lang trông thấy nàng, vẫn còn có chút ngoài ý muốn: "Sao ngươi lại tới đây? Không đúng! Ngươi làm sao lại đến được?!"
Lãnh Phi Nhan cúi người, nhẹ nhàng đè lên hai chân nàng, Tả Thương Lang nhíu mày, ngăn tay nàng. Nàng cúi đầu xuống, nói: "Chủ thượng bảo ta đón ngươi trở về."
Tả Thương Lang nói: "Ta hiện tại... Không thể đi được, sao có thể rời đi?"
Lãnh Phi Nhan nói: "Một khi ta đã đến, đương nhiên là có biện pháp."
Nàng đem Tả Thương Lang từ trên giường ôm dậy, trói ở trên lưng mình. Mộ Dung Uyên nếu đã đem Tả Thương Lang đến đây, đương nhiên cũng phái người thủ vệ. Nhưng mấy kẻ thủ vệ này ngăn không được người của Yến Lâu, trong tối đó, Lãnh Phi Nhan mang Tả Thương Lang rời khỏi Ôn phủ.
Mộ Dung Uyên vốn sai người mai phục tại cổng thành, nhưng tối đó, tin Ôn Thế chết truyền đến làm phía đông Phương Thành đại loạn.
Mộ Dung Uyên cũng chẳng quan tâm nổi một cái Tả Thương Lang nữa, tất cả mọi người đều biết rõ, đại thế của ông ta đã mất.
Ban đầu Tả Thương Lang cũng không biết nguyên nhân hỗn loạn, đợi đến khi ra khỏi Phương Thành, nàng mới hỏi: "Chuyện gì xảy ra thế?"
Lãnh Phi Nhan nói: "Chắc do Ôn Thế chết?"
Tả Thương Lang ngẩn ra, chậm rãi hỏi: "Cái gì?"
Lãnh Phi Nhan nói: "Ôn Thế chết á."
Tả Thương Lang run lên nhè nhẹ, cuối cùng nhắm mắt lại, nằm ở trên lưng nàng.
Khi linh cữu của Ôn Thế được đưa về đến Tấn Dương Thành, Mộ Dung Viêm hạ lệnh, vì thân nhân Ôn phủ mở cửa thành Ngư Dương, cho phép người Ôn gia vào thành chịu tang. Mặc dù Mộ Dung Uyên mọi cách ngăn cản, nhưng vợ chồng Ôn Hành Dã vẫn dẫn theo con dâu cùng hai đứa cháu trai ngày đêm thần tốc, chạy tới Tấn Dương Thành.
Người Ôn gia đến Tấn Dương Thành đúng vào lúc mặt trời lặn.
Bộ hạ cũ của Ôn Thế khoác áo tang, đem linh cữu của Ôn Thế trở về đi qua Tây Hoa Môn. Tả Thương Lang không có cách nào đi lại, Lãnh Phi Nhan nửa ôm nửa đỡ nàng, đứng ở dưới mãi hiêm cũ nát từ phía xa nhìn lại, nhưng không đi qua, chỉ nói là: "Chân ngươi bị thương không nhẹ, ta đưa ngươi trở về trước, sau đó tìm Dương Liên Đình tới xem một chút."
Tả Thương Lang nói: "Đừng đi vội, chờ một chút."
Lãnh Phi Nhan liền dừng lại, linh cữu màu đen nhánh của Ôn Thế được rước qua trên đường lớn, dân chúng ào ào nhường đường, tất cả đều lặng im. Lãnh Phi Nhan thúc giục: "Đi thôi. Lúc này Ôn gia đang cực kỳ bi ai, ngươi còn muốn đi qua tế linh hồn người chết hay sao? Không nhìn xem chân ngươi!" Tả Thương Lang bị nàng nửa nâng nửa ôm, lôi đi khỏi đường lớn kia.
Chuyện cũ như thủy triều, cuồn cuộn dâng lên. Nguyên soái ở Túc Nghiệp Thành cười nói "Chẳng qua là học một chút bàn luận trên trời dưới biển, để tỏ ra Nguyên soái ta cũng có chút học vấn mà thôi", con người ấy, cuối cùng cũng vẫn phải vĩnh viễn ngã xuống trong ánh trăng nơi biên thành hoang lạnh.
Linh cữu được đưa về Yến Vương Cung, quan tài mở ra, Ôn phu nhân rửa mặt thay quần áo cho trượng phu. Mặc dù thời tiết rét lạnh, nhưng thời gian đã quá lâu, thi thể đã sưng lên, nhìn không rõ mặt mũi, thế nhưng khắp người thi thể trúng tên, thương tích đầy mình.
Thu Thục giúp trượng phu thay liễm phục, mắt nàng ửng đỏ, duỗi bàn tay trắng nõn phủ lên khuôn mặt hắn: "Phu quân, chàng cuối cùng cũng trở về. Sau này mỗi ngày mỗi đêm, thϊếp đều biết rõ chàng ở nơi nào." Nàng dán sát mặt vào, dựa sát vào trán hắn, mặc dù khuôn mặt người thương đã hoàn toàn thay đổi, nàng vẫn dịu dàng, "Chúng ta cuối cùng cũng được ở chung một chỗ, thϊếp phải vui vẻ lên, đúng không? Thϊếp phải vui..."
Từ đây non sông ánh trăng liền một dải, phu quân xong viễn chinh. Nàng nằm tựa trên ngực hắn, bỗng nhiên òa khóc nức nở.
Tấn Dương cử hành lễ tang, Mộ Dung Viêm xây tướng quân lăng cho Ôn Thế tại Quảng Cừ Sơn. Ngày đưa tang, mưa thu rơi không dứt. Tất cả quan lại đều đến đưa tiễn, Ôn lão gia tử đỡ thê tử, phảng phất đột nhiên, liền già đi mấy chục tuổi.
Hứa Lang dẫn đầu bộ hạ cũ của Ôn Thế, mặc áo tang nâng quan đưa linh. Tiền giấy bay đầy Tấn Dương, người trên đường đứt ruột đứt gan.
Trước lăng, Mộ Dung Viêm đổ rượu tế tướng, trang nghiêm buồn bã hô to: "An đắc xả la võng, phất y từ thế huyên. Du nhiên sách lê trượng, quy hướng đào hoa nguyên(*). Ôn Soái chưa mất, hắn chỉ đi về cõi đào nguyên mà thôi. Từ khi Đại Yến kiến quốc tới nay, thường bị Tây Tĩnh ức hϊếp, Sơn Nhung, Cô Trúc, Đồ Hà xâm phạm biên giới, nội loạn chưa bao giờ ngừng nghỉ. Ôn tướng quân chống lại Tây Tĩnh, bình định nội loạn, hắn chính là trụ cột của Đại Yến ta.
Hắn cả đời lập chí tây chinh (chinh phạt về các vùng đất phía tây), nhưng thực lực của nước nhà chưa đủ, không thể tận chí nguyện anh hùng. Cô quyết định Đại Yến từ đây thoát ly Tây Tĩnh, cự tuyệt xưng thần. Cô ở đây thề, sẽ bắt Tây Tĩnh nợ máu phải trả bằng máu, tiếp tục di chí của tướng quân, không quên nghiệp lớn tây chinh. Nguyện để anh linh tướng quân ở nơi không xa kia, nhìn thấy Đại Yến ta tứ hải thái bình, vạn người đồng tâm." Y lấy rượu tưới, dân chúng nghe những lời ấy, tiếng hoan hô như sấm động.
Gió rét thổi cuốn lá khô, mưa nhỏ tí tách dính áo.
Thừa tướng Tiết Thành Cảnh tiến lên kính một nén hương, quay đầu, trông thấy Mộ Dung Viêm đứng nghiêng đón gió trong mưa phùn. Dân chúng bốn phía hô vang, không khí vui mừng sùng bái không cần nói.
Ông khẽ thở dài một hơi, lại nhìn về phía bia lăng một lần nữa. Thân nhân vẫn còn rơi lệ, người khác cũng đã ca. Nhiều năm sau, rồi sử sách sẽ bình luận như thế nào đây?
(*)安得舍罗网,拂衣辞世喧。
悠然策藜杖,归向桃花源。
Đây là hai câu thơ trong bài Bồ đề tự cấm khẩu hào hựu kỳ Bùi Địch《菩提寺禁口號又示裴迪》của nhà thơ đời Đường. Mình không biết dịch thơ, và bài này có nhiều từ cổ quá nên cũng chẳng biết hiểu có đúng và hết không nhưng mình hiểu nôm na nghĩa là từ bỏ hồng trần phất tay từ giã cõi đời, rũ bỏ sách vở chống gậy về với chốn đào nguyên. Bạn nào biết rõ và hiểu về hai câu trên nếu thấy có sai thì dịch lại hộ Đậu nhé. Cảm ơn.