Cô Gái Trong Lồng

Chương 39

Vụ kẹt xe trên đường E20 tồi tệ hơn bình thường rất nhiều. Mặc dù tiếng còi hụ khiến Carl muốn phát điên, những người ngồi trong những chiếc xe hơi còn lại dường như chẳng nghe thấy gì. Bọn họ còn

đang chìm trong những suy nghĩ của mình, nghe radio với âm lượng cực đại, hoặc ao ước mình đang ở một chỗ khác.

Ngồi trên ghế hành khách, Assad sốt ruột gõ gõ bảng điều khiển. Họ lái xe dọc theo mép đường vài cây số để đến được ngã rẽ, trong khi các phương tiện phía trước họ buộc phải nép sát vào nhau để nhường đường.

Khi rốt cuộc họ cũng dừng lại ở phía trước nhà, Assad chỉ tay sang bên kia đường và hỏi:

- Chiếc xe kia lúc nãy có ở đó không vậy?

Carl chỉ nhìn nó sau khi đã quan sát một lượt con đường rải sỏi dẫn vào khu nhà hoang vắng. Chiếc xe nép mình sau một bụi cây thấp cách đó khoảng một trăm mét. Căn cứ theo phần mui xe thì có lẽ nó là một chiếc 4x4 màu xám ánh thép.

- Tôi không chắc. - Anh đáp, cố gắng phớt lờ cái điện thoại di động đang rung lên trong túi áo khoác. Anh rút điện thoại ra và nhìn số gọi đến. Trụ sở gọi.

- Mørck nghe đây. - Anh nói trong lúc đưa mắt nhìn các tòa nhà. Mọi thứ vẫn như vậy. Không có dấu hiệu gì của sự tháo chạy.

Lis là người gọi điện, và cô tỏ ra rất hài lòng.

- Nó chạy lại rồi, Carl. Tất cả các kho dữ liệu đều đã được khôi phục. Chính là bà vợ của ông bộ trưởng Bộ Nội vụ. Rốt cuộc bà ta đã khai ra chìa khóa cho những rắc rối mà bà ta gây ra. Sørensen đã nhập tất cả các tổ hợp số định danh cá nhân khả dĩ của Lars Henrik Jensen, như yêu cầu của Assad. Theo tôi đó là một việc không dễ dàng, nên anh nợ Sørensen một bó hoa đấy. Nhưng Sørensen đã tìm được hắn. Hai con số đã bị thay đổi, đúng như suy đoán của Assad. Hắn ta đăng ký thường trú tại Strøhusvej, Greve.

Nói đoạn cô đọc cho anh nghe số nhà.

Carl nhìn những con số bằng sắt uốn gắn trên một trong các tòa nhà. Đúng là đây rồi.

- Cảm ơn cô, Lis. Cô cảm ơn bà Sørensen hộ tôi. - Anh nói, cố gắng tỏ ra nhiệt tình. - Bà ấy đã làm rất tốt.

- Khoan đã nào, Carl. Còn nữa.

Carl hít một hơi trong khi nhìn đôi mắt đen của Assad rà soát khu nhà trước mặt họ. Có gì đó rất lạ lùng trong cách thu xếp chỗ ở của bọn họ. Không bình thường một chút nào.

- Lars Henrik Jensen không có tiền án, và làm phục vụ trên tàu.

- Anh nghe thấy Lis nói tiếp. - Hắn ta làm việc cho hãng tàu Merconi và chủ yếu đi biển Baltic. Tôi vừa mới nói chuyện với ông chủ của hắn ta. Lars Henrik Jensen phụ trách ăn uống trên hầu hết các con tàu của họ. Họ nói hắn ta là người rất có năng lực. À mà này, tất cả đều gọi hắn là Lasse.

Carl rời mắt khỏi khu nhà.

- Cô có số di động của Lasse không?

- Chỉ có số cố định thôi. - Lis bắt đầu đọc, nhưng Carl không buồn ghi. Để làm gì chứ? Để gọi thông báo là họ sẽ đến sau vài phút nữa à?

- Không có số di động sao?

- Địa chỉ này chỉ có số di động của một tay Hans Jensen nào đấy. OK. Vậy là số của người em. Carl ghi lại số điện thoại và cảm ơn Lis.

- Cô ấy nói gì vậy? - Assad hỏi.

Carl nhún vai và lấy giấy tờ xe ra từ trong cốp phụ.

- Toàn những chuyện chúng ta đã biết rồi. Ta đi chứ?

Người thanh niên cao gầy mở cửa ngay khi họ gõ. Cậu ta không nói tiếng nào mà chỉ để cho họ vào nhà, như thể mọi người đang đợi họ.

Có vẻ như mọi thứ được thu xếp để tạo ấn tượng giống như hai mẹ con đang ngồi ăn một cách bình thản và lặng lẽ tại một cái bàn phủ vải dầu in hoa nằm cách cửa ra vào mười mét. Món hoành thánh Ý đóng hộp. Nhưng Carl dám chắc nếu anh kiểm tra thì món ăn đó đang lạnh ngắt. Bọn họ không thể bịp anh được. Cái trò này chỉ dành cho những gã tay mơ mà thôi.

- Chúng tôi đã xin lệnh khám xét. - Anh vừa nói vừa lấy giấy tờ xe ra khỏi túi và giơ nhanh cho họ thấy.

Người thanh niên giật mình.

- Chúng tôi xin phép được kiểm tra quanh nhà được không ạ? - Với một cái phẩy tay, Carl cử Assad đi xem mấy cái màn hình.

- Các anh đâu có chờ tôi cho phép! - Người đàn bà đáp.

Bà ta đang cầm trong tay một cốc nước và có vẻ mệt mỏi. Sự cứng cỏi trong đôi mắt bà ta đã biến mất, nhưng bà ta không tỏ ra sợ hãi, mà cam chịu thì đúng hơn.

- Bà sử dụng những màn hình đó vào việc gì? - Carl hỏi sau khi Assad đã kiểm tra phòng vệ sinh. Anh chỉ tay về phía chỗ ánh sáng xanh phát ra từ các màn hình bị phủ vải che.

- À, đó là thiết bị được Hans lắp đặt. Chúng tôi sống ngoài này, giữa vùng thôn quê, và nghe đủ thứ chuyện đáng sự xảy ra hiện nay. Chúng tôi muốn lắp vài cái camera để giám sát khu vực quanh nhà.

Carl thấy Assad kéo tấm vải phủ rồi lắc đầu.

- Màn hình trống trơn. - Anh chàng nói. - Cả ba cái.

- Hans này, tôi xin phép hỏi cậu, màn hình bật làm gì nếu chúng không được nối với camera? Cậu ta nhìn sang phía mẹ mình.

- Chúng luôn được bật. - Bà ta giải thích. - Điện được cấp từ hộp đầu nối.

- Hộp đầu nối? Tôi hiểu rồi! Vậy nó ở đâu?

- Tôi không biết. Chỉ có Lasse mới biết.

Bà mẹ nhìn Carl với ánh mắt đắc thắng. Bà ta đã đưa anh vào ngõ cụt. Anh đang đứng trước một bức tường không thể vượt qua. Ít nhất là theo suy nghĩ của bà ta.

- Hãng tàu cho chúng tôi biết Lasse hiện không đi biển. Anh ta đang ở đâu? Bà ta mỉm cười đáp:

- Khi Lasse không đi biển thì nó đi cưa gái. Những chuyện như thế nó chẳng bao giờ kể với tôi. Bình thường thôi mà.

Nụ cười của bà ta mở rộng hơn. Những chiếc răng vàng ệch trông như chỉ chực cắn Carl.

- Đi thôi, Assad. - Anh nói. - Chúng ta không còn gì để làm trong này nữa. Ta đi xem những tòa nhà khác.

Anh liếc nhìn bà mẹ khi đi ra cửa. Bà ta đã lại với tay lấy thuốc lá. Bà ta không cười nữa. Vậy là họ đang đi đúng đường.

- Quan sát kỹ mọi thứ nhé, Assad. Chúng ta sẽ xem tòa nhà đó trước. - Carl chỉ tay về phía tòa nhà cao nhất. - Anh cứ ở đây và báo cho tôi nếu các tòa nhà khác có động tĩnh gì. OK chứ?

Assad gật đầu.

Khi Carl quay đi, anh nghe thấy một tiếng tách khẽ nhưng rất quen thuộc vang lên phía sau lưng. Anh quay người và thấy Assad đang cầm trong tay một con dao bấm sáng loáng dài chừng mười xen-ti-mét. Nếu biết dùng thì nó sẽ là mối đe dọa nghiêm trọng với bất kỳ địch thủ nào. Nhưng nếu không biết sử dụng, mọi người sẽ gặp họa.

- Anh đang làm cái quái gì vậy, Assad? Ở đâu ra cái này? Assad nhún vai.

- Ảo thuật ấy mà, Carl. Sau đó tôi sẽ hô biến nó. Tôi hứa.

- Hứa với hẹn cái gì. Khỉ gió.

Với Assad, anh bị hết bất ngờ này tới bất ngờ khác. Sử dụng một loại vũ khí bất hợp pháp? Làm thế quái nào anh ta nghĩ ra một ý tưởng xuẩn ngốc đến thế?

- Chúng ta đang trên đường thì hành công vụ, Assad. Anh có hiểu không hả? Chuyện này đã sai lắm rồi.

Đưa tôi con dao.

Sự lành nghề của Assad thu lưỡi dao về khiến Carl không an tâm. Anh ướm thử sức nặng của con dao trước khi cho nó vào trong túi áo khoác dưới ánh mắt bất bình của Assad. Ngay cả con dao đi cắm trại trước đây của anh cũng không nặng bằng con này.

Tòa nhà lớn được xây trên nến bê tông đã nứt nẻ vì sương gió. Những cái lỗ trống hoác thay cho cửa sổ có rìa lởm chởm và tối om, mấy thanh dầm đỡ trần nhà cũng bị ảnh hưởng nặng nề của thời tiết. Cả một không gian rộng lớn. Ngoài vài đống rác và khoảng mười lăm đến hai mươi cái xô giống như những cái Carl từng thấy, gian phòng hoàn toàn trống trải.

Anh đá vào một cái xô khiến nó lăn lông lốc, bốc mùi thối hoắc. Khi dừng lại, nó vẽ nên một vòng nước thải. Carl cúi người nhìn. Kia có phải là giấy vệ sinh không nhỉ? Anh lắc đầu. Mấy cái xô có lẽ đã bị nước mưa rơi vào và qua thời gian, bất cứ cái gì củng sẽ bốc mùi và trông như thế.

Anh nhìn đáy xô và nhận ra logo của hãng tàu Merconi được dập trên lớp nhựa. Có lẽ những cái xô này được dùng để đem thức ăn thừa từ tàu về nhà.

Anh vớ lấy một thanh sắt cứng từ trong đống rác và quay lại chỗ Assad. Họ cùng nhau đi về phía tòa nhà xa nhất của dãy ba tòa nhà phía sau.

- Đứng đây nhé. - Carl nói trong khi xem xét ổ khóa gắn trên cửa mà chỉ có Lasse giữ chìa khóa, có lẽ vậy. - Anh chạy vào với tôi nếu thấy có bất cứ điều gì lạ.

Nói đoạn anh luổn thanh sắt vào ổ khóa. Trong chiếc xe công vụ cũ của mình, anh có nguyên một hộp dụng cụ cho phép phá bung những thứ như thế này trong nháy mắt. Còn giờ thì anh đành nghiến răng và dùng sức.

Carl loay hoay mất nửa phút, trước khi Assad tiến đến và im lặng giằng lấy thanh sắt trong tay anh. OK, nếu anh thích, Carl nghĩ bụng.

Chỉ mất một giây ổ khóa gãy đã nằm dưới nền sỏi, cạnh chân Assad.

Giây lát sau, Carl bước vào trong tòa nhà, vừa cảm thấy thua cuộc, vừa cảnh giác cao độ.

Không gian bên trong cũng giống như ở tòa nhà được bà Jensen dùng làm nơi ở, nhưng thay cho đồ đạc là một hàng các bình khí nén bằng kim loại hình trụ đủ màu sắc nằm giữa nhà, cùng với hàng trăm mét kệ trống rỗng. Ở trong góc cuối phòng, những tấm thép không gỉ được xếp thành chồng bên cạnh một cánh cửa. Carl quan sát cái cửa kỹ hơn. Nó không thể dẫn ra khỏi tòa nhà, nếu không thì anh đã ghi nhận.

Anh tiến đến gần và thử mở nó. Tay nắm cửa bằng đồng bóng loáng, và nó đang bị khóa. Anh nhìn ổ khóa hiệu Ruko. Nó cũng bóng loáng, chứng tỏ mới được sử dụng gần đây.

- Assad, anh vào đây. - Carl gọi to. - Mang theo cả thanh sắt nữa.

- Tôi tưởng anh bảo tôi đợi ở ngoài. - Assad nói sau khi nhập bọn với Carl. Anh trở vào thanh sắt rồi chỉ cánh cửa.

- Cho tôi xem tài nghệ của anh đi.

Căn phòng mà họ bước nào nồng nặc mùi nước hoa. Một cái giường, bàn giấy, máy tính, gương lớn, thảm Wiltax đỏ, một tủ đồ cất com-lê và vài ba bộ đồng phục màu xanh, một cái lavabo kèm theo kệ bằng kính, trên có nhiều chai nước thơm dùng sau cạo râu. Giường đã được dọn, giấy tờ được xếp chồng gọn ghẽ. Không có gì cho thấy kẻ sống ở đây là một người bất thường.

- Theo sếp thì tại sao hắn khóa cửa? - Assad hỏi, tay nhấc tấm lót bàn để xem phía dưới. Sau đó anh quỳ xuống nhìn gầm giường.

Carl kiểm tra phần còn lại của cân phòng. Assad nói đúng. Dường như chẳng có gì cần giấu, thế thì tại sao lại khóa cửa?

- Có cái gì đó, sếp à. Nếu không thì cửa đã không lắp khóa.

Carl gật đầu và bắt đầu xem xét bên trong tủ đồ. Mùi nước hoa càng nồng nặc hơn. Dường như nó đã ngấm cả vào quần áo. Anh gõ vào vách hậu, nhưng không phát hiện được điều gì bất thường. Cùng lúc đó Assad nhấc tấm thảm lên. Không có cửa sập bên dưới.

Họ cùng xem xét trần nhà và các vách tường, sau đó cả hai cùng nhìn tấm gương nằm khá lạc lõng. Bức tường quanh nó được sơn màu trắng tinh.

Carl gõ gõ vào tường. Nó có vẻ chắc chắn.

Hay là gỡ cái gương xuống nhỉ, anh nghĩ bụng. Nhưng nó được gắn rất chắc. Assad bèn áp má vào tường và hé mắt nhìn phía sau tấm gương.

- Tôi nghĩ là nó được gắn vào một cái bản lề ở phía bên kia. Có một thứ giống như cái chốt ở đây.

Anh chàng lách ngón tay vào sau tấm gương và mở chốt. Sau đó, anh nắm lấy mép của tấm gương và kéo. Toàn bộ căn phòng trôi qua trong gương khi nó mở ra, để lộ một cái lỗ đen ngòm trên tường, cao cỡ một người đàn ông.

Lần sau mình phải chuẩn bị kỹ hơn, Carl tự nhủ. Anh hình dung ra cây đèn pin có kích thước chỉ bằng chiếc bút chì nằm trên đống giấy tờ cất trong ngăn kéo của mình. Anh cho tay qua cái lỗ, mò mẫm tìm công tắc đèn và nhớ đến khẩu súng công vụ. Ngay sau đó anh cảm thấy tức ngực.

Anh hít một hơi và cố gắng nghe. Không, không thể có ai trong này được. Làm sao họ có thể tự nhốt mình trong này khi tòa nhà bị khóa ngoài? Liệu có thể nào người em trai hoặc bà mẹ của Lasse Jensen đã được dặn là khóa nhốt hắn ta trong chỗ ẩn náu này trong trường hợp cảnh sát quay lại khám nhà hay không?

Carl tìm thấy công tắc đèn và bật lên, sẵn sàng lui lại nếu có ai đó ở bên trong đang rình sẵn. Phải một giây sau cảnh tượng trước mắt họ mới thôi chớp tắt khi các bóng đèn huỳnh quang ổn định ánh sáng.

Và mọi thứ bỗng rõ như ban ngày.

Họ đã tìm đúng người. Không còn nghi ngờ gì nữa.

Carl nhận thấy Assad yên lặng bước theo mình trong khi anh tiến lại gần những tấm bảng ghim và mấy cái bàn bằng sắt cũ kỹ kê dọc theo tường. Anh nhìn các tấm ảnh chụp Merete Lynggaard dưới mọi góc độ. Từ lần xuất hiện đầu tiên của cô trên bục diễn giả cho đến những tình huống riêng tư hơn, trên thảm cỏ ngập lá vàng tại ngôi nhà của cô ở Stevns. Những khoảnh khắc vô ưu được chụp lại bởi một kẻ chỉ muốn hãm hại cô.

Carl cụp mắt quan sát một cái bàn sắt và hiểu ra ngay lập tức cách thức mà Lasse, hay Lars Henrik Jensen, đã sử dụng để đạt được mục đích của mình.

Chồng đầu tiên là những giấy tờ của Godhavn. Carl mở một góc tài liệu và trông thấy bản gốc hồ sơ của Lars Henrik Jensen, thứ đã biến mất nhiều năm trước đây. Lasse đã viết nháp trên một vài tờ giấy, bôi sửa một cách vụng về số căn cước công dân của mình. Hắn dần dần thành thục hơn, và ở tài liệu trên cùng, hắn đã làm rất khéo. Phải, Lasse đã làm giả hồ sơ của mình tại Godhavn, và việc đó giúp hắn kéo thêm được một chút thời gian.

Assad chỉ vào chồng giấy tờ thứ hai, nơi cất thư từ liên lạc giữa Lasse và Daniel Hale. Có vẻ như bố của Lasse vẫn chưa thanh toán xong cho InterLab khoản tiền mua lại khu nhà xưởng này nhiều năm về trước. Hồi đầu năm 2002, Daniel Hale đã gửi một bản fax thông báo rằng anh ta sẽ kiện đòi hai triệu krone. Hale đã tự ký bản án tử cho mình, nhưng làm sao anh ta có thể biết được dã tâm của đối thủ? Có lẽ chính yêu cầu của Hale đã kích hoạt toàn bộ chuỗi sự kiện.

Carl cầm tờ giấy trên cùng lên. Đó là bản fax mà Lasse Jensen đã gửi ngay ngày Hale thiệt mạng. Một thông điệp kèm theo một hợp đồng không có chữ ký.

“Tôi đã có tiền. Chúng ta có thể ký giấy tờ tại nhà tôi ngày hôm nay. Luật sư của tôi sẽ mang theo các tài liệu cần thiết. Tôi fax kèm theo đây một bản hợp đồng nháp. Mọi ý kiến anh hãy chỉnh sửa thẳng vào hợp đồng và cầm theo”.

Đúng là mọi thứ đã được lên kế hoạch cẩn thận. Nếu như các thứ giấy tờ không cháy cùng với chiếc xe thì Lasse hoàn toàn có thể phi tang chúng trước khi cảnh sát và xe cứu thương đến nơi. Carl ghi nhận ngày giờ của cuộc hẹn. Tất cả đều khớp. Hale đã bị dẫn dụ vào chỗ chết. Dennis Knudsen đã đón lòng anh ta trên đường Kappelev, với bàn chân sẵn sàng đạp ga.

- Sếp nhìn này. - Assad giơ cao một tờ giấy ở chồng tài liệu kế tiếp.

Đó là một đoạn cắt ra từ tờ báo địa phương Fredriksborg Amts, có đề cập đến cái chết của Dennis Knudsen ở cuối trang. Dòng tít bài báo chỉ ghi cụt ngủn: “Chết do lạm dụng thuốc”.

Dennis thế là đã được đưa vào số liệu thống kê của cảnh sát.

Carl nhìn chồng giấy tờ kế tiếp. Không nghi ngờ gì nữa, Lasse đã hứa cho Dennis nhiều tiền để gây ra vụ tai nạn xe. Nhiều khả năng người em trai của Lasse đã bước ra trước đầu xe của Hale để buộc anh ta đánh lái ra giữa vạch phần cách. Mọi thứ diễn ra như kế hoạch, ngoại trừ việc Lasse không bao giờ trả tiền cho Dennis như đã hứa và làm cho Dennis giận dữ.

Một lá thư có lối diễn đạt trôi chảy bất ngờ đã được Dennis Knudsen gửi cho Lasse, đưa ra một tối hậu thư: hoặc hắn ta trả ba trăm ngàn krone, hoặc Dennis sẽ xử hắn trên một đoạn đường nào đó, đúng lúc hắn ít mong đợi nhất.

Carl nghĩ đến người chị của Dennis. Cô ta khóc than cho một thằng em trai quý hóa quá cơ.

Những tấm bảng ghim cung cấp một cái nhìn tổng quát về những thảm kịch trong cuộc đời của Lasse Jensen. Vụ tai nạn xe hơi, công ty bảo hiểm từ chối bồi thường. Đơn xin cứu xét bị quỹ Lynggaard gạt bỏ. Động cơ chất chồng và càng ngày càng rõ ràng hơn.

- Anh có nghĩ là hắn đã trở nên rồ dại sau tất cả những chuyện này hay không? - Assad hỏi, tay đưa cho Carl một vật.

Carl nhíu mày.

- Tôi không dám nghĩ tới chuyện đó nữa, Assad.

Anh xem xét món đồ mà Assad đưa cho mình. Đó là một chiếc điện thoại di động nhỏ gọn hiệu Nokia. Màu đỏ, còn mới và sáng bóng. Ở mặt sau của nó; anh trông thấy cái tên “Sanne Jonsson” được viết bằng những chữ cái cong queo bên dưới một trái tim nhỏ. Anh tự hỏi cô gái này sẽ nói gì khi biết chiếc điện thoại của mình vẫn còn tồn tại.

- Chúng ta đã có mọi thứ ở đây. - Anh nói với Assad và gật gù nhìn những tấm ảnh treo trên tường.

Đó là hình ảnh mẹ của Lasse ngồi khóc trên một chiếc giường bệnh viện; ảnh trại giáo dưỡng Godhavn và ảnh một người đàn ông với dòng chữ to viết bên dưới: “Cha nuôi quái vật”. Những mẩu báo cũ ca ngợi HJ Industries và bố của Lasse vì những thành tựu tiên phong trong lĩnh vực công nghệ cao của Đan Mạch. Có ít nhất hai mươi tấm ảnh chi tiết được chụp trên boong của tàu phà Schleswig-Holstein cùng với lịch chạy các thông số về khoảng cách từ boong ngắm cảnh xuống boong đậu xe và số lượng bậc thang. Ngoài ra còn có một lịch trình hành động chi tiết gồm hai cột. Một dành cho Lasse, một cho em trai hắn. Vậy là cả hai cùng tham gia vào vụ này.

- Cái này nghĩa là sao? - Assad chỉ vào những con số. Carl không dám chắc.

- Chắc là bọn chúng đã bắt cóc và sát hại cô ấy ở đâu đó. Tôi không thấy cách lý giải nào khác.

- Vậy thì cái này có nghĩa là gì? - Assad nói tiếp và chỉ tay vào cái bàn sắt cuối cùng; trên đó có nhiều bìa còng và một loạt sơ đồ kỹ thuật.

Carl cầm cái bìa còng đầu tiên lên. Nó được chia làm nhiều phần, phần đầu tiên có để “Cẩm nang lặn - Học viện Hải quân, 08-1985”. Anh lật xem vài trang và đọc các tiêu để: sinh lý người lặn, bảo dưỡng van, bảng giảm áp bề mặt, bảng xử trí bằng oxy, định luật Boyle, định luật Dalton.

Toàn những thứ anh mù tịt.

- Một đầu bếp thì có cần biết về lặn không sếp? - Assad hỏi. Carl lắc đầu.

- Chắc đó chỉ là một sở thích của hắn ta.

Anh lật một tập tài liệu khác và tìm thấy một bản viết tay nắn nót có tiêu đề “Hướng dẫn thử áp suất thiết bị chứa, Henrik Jensen, HJ Industries, 10-11-1986”.

- Anh có đọc cái này được không? - Assad hỏi, mắt dán vào các dòng chữ. Rõ ràng anh chàng không đọc được.

Ở trang đầu tiên có vài sơ đó đã được vẽ cùng với hệ thống các đường ống dẫn vào. Có vẻ như chúng thuyết minh cho những thay đổi trong một hệ thống đã có sẵn mà HJ Industries thừa hưởng từ InterLab khi khu nhà xưởng được đổi chủ.

Carl cố gắng đọc lướt qua những trang giấy viết tay. Anh bắt gặp những chữ như “phòng áp suất” và “khoang kín”.

Anh ngẩng đầu lên và quan sát một tấm ảnh chụp cận cảnh Merete Lynggaard được treo phía trên đống giấy tờ. Một lần nữa, cụm từ “phòng áp suất” bật lên trong đầu anh.

Ý nghĩ đó làm cho Carl lạnh sống lưng. Có thể nào đó là sự thật? Đó là một ý nghĩ kinh khủng và đáng sợ.

Đủ đáng sợ để làm anh toát mồ hôi.

- Có chuyện gì vậy sếp? - Assad hỏi.

- Anh đi ra ngoài và cảnh giới cho tôi. Làm ngay đi, Assad.

Tay trợ lý định lặp lại câu hỏi thì Carl đã quay sang xem chồng tài liệu cuối cùng.

- Đi ngay đi, Assad. Và cẩn thận đấy. Cầm cái này theo. - Anh đưa cho Assad thanh sắt dùng để bẻ khóa. Anh nhanh chóng xem xét các tài liệu. Có rất nhiều phép toán, hầu hết được viết bởi Henrikjensen,

nhưng cũng có khi được viết bởi những người khác. Chẳng có gì liên quan tới thứ anh đang tìm.

Một lần nữa, anh xem xét tấm ảnh sắc nét chụp Merete Lynggaard. Nó được chụp ở cự ly gần, nhưng có vẻ như cô không nhận ra mình bị chụp, vì mắt cô không nhìn thẳng vào ống kính. Có điều gì đó rất đặc biệt trong ánh mắt của cô. Một sự sinh động và hoạt bát không thể không tác động đến người xem. Nhưng Carl tin chắc Lasse Jensen không chọn treo tấm ảnh này để ngắm. Mà ngược lại. Các góc của nó có nhiều lỗ thủng. Dường như nó đã được lấy xuống và gắn lên nhiều lần.

Carl lần lượt gỡ bốn cái đinh ghim giữ cố định tấm ảnh trên bảng ghim. Anh lấy tấm ảnh xuống và lật xem mặt sau của nó. Thứ được viết trên đó là tác phẩm của một kẻ điên loạn. Anh đọc vài lần.

“Đôi mắt kinh tởm của ngươi sẽ lồi ra khỏi tròng. Nụ cười ngớ ngẩn của ngươi sẽ ngập ngụa trong máu. Mái tóc ngươi sẽ quéo lại, và những ý nghĩ của ngươi sẽ bốc hơi. Hàm răng của ngươi sẽ rã nát. Ngươi sẽ được mọi người nhớ đến bằng hình ảnh trung thực với bản chất của mình: một con điếm, con chó, con quỷ, một ả sát nhân khốn khϊếp. Ngươi sẽ chết như thế, Merete Lynggaard”.

Và bên dưới là những dòng chữ in hoa được viết thêm:

6/7 2002: 2 ATMOSPHERE

6/7 2003: 3 ATMOSPHERE

6/7 2004: 4 ATMOSPHERE

6/7 2005: 5 ATMOSPHERE

6/7 2006: 6 ATMOSPHERE

15/5 2007: 1 ATMOSPHERE

Carl quay đầu. Anh có cảm giác như các bức tường đang co lại quanh mình. Anh đặt tay lên trán và đứng yên, suy nghĩ thật kỹ. Bọn họ đang giữ cô ấy ở đây, anh chắc chắn như vậy. Cô ấy đang ở đâu đó rất gần. Theo những gì được viết phía sau tấm ảnh thì cô sẽ bị gϊếŧ sau năm tuần nữa, vào ngày 15 tháng Năm, nhưng nhiều khả năng bọn chúng đã ra tay rồi. Anh có cảm giác mình và Assad đã đẩy nhanh quá trình, và thảm kịch đã xảy ra ở đâu đây, chắc chắn là thế.

Mình phải làm gì? Ai là người nắm được thông tin đây? Carl tự hỏi trong lúc cố lục lọi trí nhớ.

Anh rút di động ra và bấm số của Kurt Hansen, người đồng nghiệp cũ hiện giờ là nghị sĩ quốc hội thuộc đảng Bảo thủ.

Carl rảo bước quanh phòng trong lúc nghe tín hiệu chờ. Thời gian đang cười nhạo tất cả bọn họ, anh có thể cảm thấy điều đó một cách rõ ràng.

Một giây trước khi anh cúp máy, tiếng tằng hắng đặc trưng của Kurt Hansen vang lên, rồi giọng nói của ông tiếp nối.

Carl bảo ông chỉ việc lắng nghe và suy nghĩ thật nhanh. Không đặt câu hỏi mà chỉ đưa ra câu trả lời.

- Anh muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra với một người sống với áp suất tăng dần đến sáu atmosphere trong năm năm rồi bị hạ áp đột ngột á? - Kurt lặp lại. - Một câu hỏi kỳ lạ. Đây là một tình huống giả định, đúng không?

- Ông chỉ cần trả lời tôi thôi, Kurt. Ông là người duy nhất mà tôi nghĩ có thể nắm được những chuyện như thế này. Tôi không biết người nào khác có chứng chỉ lặn biển chuyên nghiệp, nên ông phải cho tôi biết

chuyện gì sẽ xảy ra trong trường hợp đó.

- Ờ thì, người đó sẽ chết, tất nhiên rồi.

- Vâng, nhưng chết có nhanh không?

- Tôi không biết, nhưng nó sẽ rất kinh khủng.

- Theo kiểu nào?

- Mọi thứ sẽ nổ tung từ bên trong. Nitơ trong xương sẽ phá tan các mô. Các cơ quan và mọi thứ khác trong cơ thể sẽ phình ra vì chỗ nào cũng có oxy. Các cục máu đông, xuất huyết não, chảy máu ồ ạt,…

Carl ngắt lời ông ta:

- Ai có thể giúp được nạn nhân trong tình huống đó?

Kurt Hansen lại hắng giọng. Có lẽ ông không có câu trả lời.

- Đây là tình huống có thật hả, Carl? - Ông hỏi.

- Tôi e là vậy.

- Vậy thì anh phải gọi cho Căn cứ Hải quân tại Holmen. Họ có một buồng hạ áp di động. Một cái Duocom của Dräger.

Đoạn ông đọc số điện thoại cho Carl. Anh cảm ơn rồi cúp máy.

Anh không mất nhiều thời gian với việc giải thích tình hình cho viên sĩ quan trực ban của Căn cứ Hải quân.

- Các anh phải nhanh lên. Việc này rất khẩn cấp. - Carl nói. - Mang theo cả máy khoan khí nén và các thiết bị khác, vì tôi không rõ các anh sẽ gặp phải chướng ngại vật nào. Hãy báo luôn với sở cảnh sát. Tôi cần chi viện.

- Tôi nghĩ mình đã nắm được tình hình. - Giọng nói ở đầu dây bên kia quả quyết.