Cô Gái Trong Lồng

Chương 33

Carl đã giấu vài chai whisky và gin uống dở trên giá sách trong phòng khách, phía sau mấy cuốn sách. Chỗ rượu này jesper chưa đánh hơi ra được để hào phóng đem góp vào các bữa tiệc đột xuất của

Anh uống gần hết hai chai trước khi một cảm giác thư thái rốt cuộc cũng xầm chiếm cơ thể, và quãng thời gian dài vô tận của dịp cuối tuần trôi qua trong giấc ngủ sâu êm đềm. Trong hai ngày, anh chỉ thức giấc đúng ba lần để nuốt vội bất kỳ món đồ ăn nào có trong tủ lạnh. Jesper không có nhà, Morten thì về thăm bố mẹ ở Næstved, nên chẳng ai buồn quan tâm đến hạn sử dụng của thức ăn hay sự lệch lạc trong thực đơn.

Thứ Hai cuối cùng cũng tới, và Jesper là người đánh thức Carl dậy.

- Dượng Carl, dậy đi. Dượng bị sao vậy? Con cần tiền để mua đồ ăn. Trong tủ lạnh chẳng còn cái quái gì

cả.

Carl nhìn thẳng con riêng của vợ với đôi mắt từ chối tiếp nhận ánh sáng ban ngày.

- Mấy giờ rồi? - Anh lẩm bẩm, chưa kịp nhớ ra hôm nay là ngày gì.

Anh liếc nhìn cái đồng hồ báo thức mà Vigga đã hào phóng để lại. Dù sao thì cô ta cũng chẳng quan tâm

đến giờ giấc sinh hoạt trên giường.

Nhìn đồng hồ, anh bỗng tỉnh hẳn. Đã mười giờ mười phút. Trong chưa đầy mười lăm phút nữa anh sẽ phải ngồi trên một chiếc ghế và chịu đựng ánh mắt sắc sảo của nữ chuyên gia tâm lý Mona Ibsen.

- Vậy là mấy ngày nay anh gặp khó khăn trong việc rời khỏi giường? - Chị nhận xét, mắt liếc nhanh xuống đồng hồ đeo tay. - Tôi có thể thấy anh vẫn còn bị khó ngủ. - Chị nói tiếp như thể đã liên lạc được với cái gối của anh.

Carl cảm thấy bực bội. Có lẽ nếu anh kịp tắm trước khi ra khỏi nhà thì tình hình đã khá hơn. Hi vọng mình không bốc mùi, anh nghĩ bụng và hơi hướng mũi về phía nách.

Mona Ibsen bình thản nhìn Carl trong lúc ngồi đối diện với anh, tay đặt trong lòng, hai chân vắt chéo trong chiếc quần nhung đen. Mái tóc của chị được đánh rồi, ngắn hơn hôm trước, lông mày kẻ đen nhánh. Nhìn tổng thể nom chị khá đáng sợ.

Carl thuật lại việc mình bị lên cơn đau tim ở cánh đồng đang được rải phân, hi vọng một biểu hiện thông cảm nơi chị, có lẽ thế.

Nhưng thay vào đó, chị đi thẳng vào vấn để.

- Anh có cảm thấy mình đã phụ lòng các đồng nghiệp trong vụ nổ súng không?

Carl nuốt khan vài cái rồi kể lể một chút về việc đáng lẽ mình phải rút súng ra nhanh hơn, về bản năng có lẽ đã bị cùn nhụt đi sau những năm tháng làm việc với các thành phần tội phạm.

- Anh cảm thấy mình đã phụ lòng anh em. Đó là điều tôi thấy. Trong trường hợp đó, anh sẽ tiếp tục khổ sở trừ phi anh chấp nhận rằng mọi chuyện không thể xảy ra khác đi.

- Mọi chuyện luôn có thể xảy ra khác đi mà. - Carl đáp. Chị phớt lờ câu nói của anh.

- Anh nên biết là tôi cũng đang điều trị cho Hardy Henningsen. Có nghĩa là tôi đang nhìn vụ việc từ hai phía, và lẽ ra tôi phải rút lui. Nhưng do không có quy định nào bắt buộc tôi làm thế, nên tôi muốn hỏi xem bây giờ khi đã biết chuyện, anh có muốn tiếp tục tham vấn tôi nữa hay không. Anh phải biết là tôi không

được tiết lộ gì về những điều Hardy đã nói, cũng như những gì anh kể với tôi sẽ được giữ bí mật.

- Không sao đâu. - Carl nói, dù không thực sự nghĩ như vậy. Nếu không vì đôi má mịn màng và bờ môi đòi được hôn kia, chắc anh đã đứng phắt dậy và bảo chị ta biến đi cho khuất mắt. - Nhưng tôi sẽ hỏi Hardy về chuyện này. Hardy và tôi không giấu nhau chuyện gì cả. Không thể.

Chị gật đầu và ngồi thẳng lại.

- Anh có bao giờ bị rơi vào hoàn cảnh nào khác mà mình không thể làm chủ được hay không?

- Có.

- Khi nào?

- Ngay bây giờ. - Anh nhìn xoáy vào mắt chị.

Chị điềm nhiên như không. Người đâu mà lạnh lùng đến thế!

- Anh sẽ đánh đổi gì để có Anker và Hardy tiếp tục ở bên anh?

Sau câu hỏi đó, Mona Ibsen nhanh chóng bồi thêm bốn câu hỏi nữa. Chúng gợi lên một cảm giác đau buồn khó tả trong lòng Carl. Sau mỗi câu hỏi, chị đều nhìn vào mắt anh và ghi chép lại các câu trả lời. Có cảm giác như Mona Ibsen đang muốn đẩy anh tới miệng vực. Như thể anh sẽ phải rơi xuống trước khi chị vươn tay ra túm lấy anh.

Chị nhận thấy anh chảy nước mũi trước khi anh kịp nhận ra. Chị ngước mắt lên và ghi nhận mắt anh ươn ướt.

Đừng có chớp mắt, khỉ gió, nếu không mình sẽ rơi nước mắt, anh tự nhủ, không hiểu nổi chuyện gì đang diễn ra trong lòng mình. Anh không sợ khóc, anh không có gì phải ngăn cản việc chị thấy những giọt nước mắt của anh, chỉ có điều anh không biết tại sao nó lại xảy ra vào đúng thời điểm đặc biệt này.

- Anh cứ khóc đi. - Mona Ibsen nói với giọng điệu mà người ta vẫn dùng khi khuyến khích một đứa trẻ ợ hơi sau khi ăn no.

Khi họ kết thúc buổi trị liệu hai mươi phút sau, Carl đã ngán tận cổ việc bộc bạch nỗi lòng. Mona Ibsen thì ngược lại, chị tỏ ra hài lòng khi bắt tay anh và đặt hẹn cho lần tới. Chị cam đoan với anh một lần nữa rằng hậu quả của vụ nổ súng là do thiếu may mắn, và chắc chắn anh sẽ lấy lại được cảm giác cân bằng sau vài buổi trị liệu.

Carl gật đầu. Đúng là anh cảm thấy khá hơn, theo một cách nào đó. Có lẽ bởi vì mùi nước hoa của chị đã át đi mùi cơ thể của anh, và bởi vì cái bắt tay của chị thật nhẹ nhàng, mềm mại và ấm áp.

- Hãy gọi cho tôi nếu anh có bất kỳ chuyện gì muốn tâm sự với tôi, Carl. Bất luận nó là chuyện lớn hay nhỏ. Có thể nó sẽ giúp ta làm việc với nhau thuận lợi hơn, ai mà biết được?

- Vậy thì, tôi đang có một câu muốn hỏi chị đây. - Carl nói luôn, cố gắng lôi kéo sự chú ý của Mona Ibsen vào đôi bàn tay gân guốc và gợi cảm một cách không giấu giếm của mình.

Chị nhận ra động thái của anh và lần đầu tiên mỉm cười. Đằng sau cặp môi mềm của chị là những chiếc răng còn trắng hơn cả cô nàng Lis trên tầng hai. Một điều hiếm hoi ở thời đại này, khi mà rượu vang và cà phê làm xỉn màu răng của hầu hết mọi người.

- Vâng, anh định hỏi gì nào?

Carl cố trấn tĩnh. Bây giờ, hoặc không bao giờ. ;

- Chị có đang có quan hệ với ai đó hay không? - Anh hơi chưng hửng trước sự vụng về của câu hỏi, nhưng đã quá muộn để rút lại. - Tôi xin lỗi. - Anh lắc đầu, cảm thấy không biết phải nói tiếp như thế nào. - Tôi chỉ muốn hỏi xem chị có chấp nhận lời mời ăn tối cùng tôi hay không mà thôi.

Nụ cười của Mona Ibsen cứng lại. Những chiếc răng trắng và làn da mểm mại cũng biến mất theo.

- Tôi nghĩ anh nên trở lại là chính mình trước khi tiến hành tấn công theo kiểu đó, Carl. Và anh sẽ phải chọn nạn nhân một cách cẩn thận hơn.

Carl cảm thấy nỗi thất vọng tuôn tràn trong toàn bộ hệ thống nội tiết của mình khi chị quay lưng và mở cánh cửa dẫn ra hành lang. Khốn nạn thế chứ.

- Nếu chị nghĩ mình không phải là đối tượng nên được đàn ông lựa chọn, - anh làu bàu, - thì chị hoàn toàn không biết được sức ảnh hưởng của mình lên phái mạnh đáng kinh ngạc như thế nào rồi.

Mona Ibsen quay người lại, chìa bàn tay có đeo nhẫn ra.

- Ồ, có chứ. Cái đó thì tôi biết thừa. - chị nói trước khi rút lui khỏi mặt trận.

Bị bỏ lại, Carl đứng sững, hai vai xuôi xị. Trong con mắt của mình, anh là một trong những cảnh sát điều tra tốt nhất mà vương quốc Đan Mạch từng tạo ra, nên anh tự hỏi làm thế quái nào mình lại đánh giá sai một điều cơ bản đến như thế.

Một người nào đó ở trại trẻ Godhavn gọi điện thông báo cho Carl rằng họ đã liên lạc với ông giáo về hưu John Rasmussen, và ngày mai ông sẽ đi thăm em gái ở Copenhagen. Anh ta chuyển lời nhắn rằng ông ấy rất muốn đi ngó nghiêng sở cảnh sát, nên sẽ đến gặp Carl từ mười giờ đến mười hai giờ, nếu anh đồng ý. Carl không thể gọi lại cho ông giáo, vì quy định của trại trẻ không cho phép công khai số điện thoại riêng của nhân viên, nhưng anh có thể nhắn lại nếu không thể thu xếp để gặp Rasmussen được.

Chỉ đến khi gác máy, anh mới quay về với thực tại. Nỗ lực thất bại của anh với Mona Ibsen đã tắt nguồn một số vùng trong bộ não của anh, và việc kết nối chúng lại chỉ mới vừa được bắt đầu. Vậy là ông giáo già ở Godhavn sau khi quay về từ quần đảo Canary sẽ đến gặp anh ngày mai. Anh sẽ yên tâm hơn nếu ông ta còn nhớ được thằng bé đó có biệt danh Atomos trước khi anh đồng ý đóng vai hướng dẫn viên du lịch tại trụ sở cảnh sát. Nhưng đành kệ vậy.

Carl hít một hơi dài và cố gắng xua đuổi Mona Ibsen cùng đôi mắt mèo của chị ra khỏi tâm trí. Còn rất nhiều vấn đề trong vụ Lynggaard cần được giải quyết, tốt hơn anh nên bắt tay vào làm thay vì ngồi đó tự thương hại mình.

Một trong những nhiệm vụ đầu tiên là yêu cấu cô giúp việc Helle Andersen xem xét các tấm ảnh được anh mượn từ nhà của Dennis Knudsen. Biết đâu cô ta cũng thích thú với ý tưởng được thăm thú một vòng trụ sở dưới sự thuyết minh của một tay phó chánh thanh tra cảnh sát. Sao cũng được, miễn là anh không phải lái xe băng qua con sông Tryggevælde lần nữa.

Anh bấm số của Helle Andersen và gặp được chồng cô. Anh ta cho biết mình vẫn còn đang nghỉ ốm vì cái lưng đau không tin nổi, nhưng ngoài ra thì tất cả đều ổn. Anh ta nói “chào Carl”, cứ như thể họ sấp đi cắm trại chung và cùng chia sẻ các bữa ăn với nhau vậy.

Nghe anh ta nói chuyện cũng giống như ngồi cạnh một bà cô già chưa chồng. Tất nhiên anh ta sẵn sàng gọi Helle tới nghe điện thoại nếu cô có nhà. Không, cô luôn bận bịu với các khách hàng của mình cho tới ít nhất là… Chờ chút, hình như có tiếng xe của cô ấy trên đường dẫn vào nhà. Cô ấy vừa mua một con xe mới, và chỉ cần nghe tiếng là anh ta có thể phân biệt được động cơ 1.3 với 1.6 lít. Đúng như cái gã trên ti vi đã nói, chiếc Suzuki mà không xứng với những lời hứa hẹn thì bỏ đi cho rồi. Thật mừng là họ đã thanh lý được chiếc Opel cũ với một mức giá hời. Anh chồng cứ thao thao bất tuyệt, trong khi chất giọng lanh lảnh của cô vợ đã vang lên trong nhà:

- Anh Ole ơi! Có nhà không đấy? Anh chất củi xong chưa?

Thật may cho Ole là bảo hiểm xã hội không nghe được câu hỏi vừa rồi.

Sau khi lấy lại hơi thở, Helle Andersen tỏ ra thân thiện và sốt sắng. Carl cảm ơn cô vì đã tiếp chuyện Assad hôm trước, sau đó anh hỏi xem liệu cô có thể nhận qua email vài tấm ảnh vừa được anh scan hay không.

- Ngay bây giờ ạ? - Cô hỏi lại, và lập tức giải thích vì sao đây không phải là thời điểm thuận lợi nhất. - Tôi vừa mới đem mấy cái pizza về. Anh Ole thích bánh có rau diếp, mà loại ấy thì phải ăn ngay, nếu không rau sẽ dẻ bị quắt lại trong lớp phô mai.

Carl phải đợi hai mươi phút trước khi cô gọi lại cho anh. Nghe giọng là anh biết Helle Andersen chỉ vừa mới nhai xong miếng cuối cùng.

- Cô có nhận được email của tôi chưa?

- Rồi ạ. - Cô đáp.

- Hãy mở cái ảnh đầu tiên lên và cho tôi biết cô thấy ai.

- Daniel Hale. Trợ lý của anh đã cho tôi xem một tấm ảnh của anh ta. Nhưng tôi chưa từng gặp anh ta trước đây.

- Vậy hãy mở tiếp tấm thứ hai. Tấm này thì sao?

- Ai vậy?

- Tôi đang định hỏi cô câu đó đây. Tên anh ta là Dennis Knudsen. Cô có từng trông thấy anh ta bao giờ chưa? Có thể ngoài đời anh ta lớn tuổi hơn trong ảnh.

Helle Andersen bật cười.

- Chắc chắn không, nhất là với cái mũ ngớ ngẩn như thế. Tôi chưa bao giờ trông thấy anh ta. Anh ta khiến tôi nhớ tới cậu em họ Gorm, nhưng Gorm phải to béo gấp đôi ấy chứ.

Có vẻ như đó là do di truyền.

- Vậy còn tấm ảnh thứ ba thì sao? Trong ảnh là một người đã nói chuyện với Merete tại Christiansborg không lâu trước khi cô mất tích. Tôi biết cô chỉ nhìn thấy lưng của người này trong ảnh, nhưng anh ta có điểm gì quen thuộc với cô không? Quần áo, tóc tai, cử chỉ, dáng người, chiều cao, bất cứ điều gì?

Helle Andersen im lặng một lúc. Một dấu hiệu tốt.

- Tôi không chắc lắm, vì người trong ảnh quay lưng lại, như anh đã nói. Nhưng có lẽ tôi đã từng thấy anh ta trước đây. Anh đoán xem tôi đã gặp anh ta ở đâu?

- Đó là điều tôi đang hi vọng được cô cho biết đây.

Nào, Helle, Carl thầm nghĩ. Có bao nhiêu khả năng nào?

- Tôi biết anh đang nghĩ tới người giao thư. Tôi có thấy lưng của anh ta, nhưng anh ta mặc quần áo rất khác, nên cũng khó mà chắc chắn được. Trông anh ta có vẻ quen, nhưng tôi không dám chắc.

- Thế thì em không nên khẳng định gì hết, cưng à. - Giọng nói của anh chồng đang xơi pizza vang lên ở đấu dây bên kia.

Carl cố nén tiếng thở dài.

- Thôi được. - Anh nói. - Tôi còn một tấm ảnh cuối cùng muốn gửi cho cô. Anh bấm nút gửi đi.

- Nó đây rồi. - Mười giây sau Helle Andersen reo lên.

- Hãy cho tôi biết cô thấy ai.

- Tôi thấy người ở trong tấm ảnh thứ hai, hình như thế. Dennis Knudsen. Có phải đó là tên anh ta không nhỉ? Trong ảnh này, anh ta chỉ là một cậu bé, nhưng cái vẻ mặt tức cười đó thì không thể lẫn vào đâu được. Nhìn hai cái má kìa. Phải, tôi dám cá anh ta chơi đua xe khi còn bé. Giống em họ Gorm của tôi, kể cũng lạ.

Đó là trước khi cậu ta nặng hơn trăm ký, Carl suýt buột miệng.

- Hãy nhìn người đứng phía sau Dennis. Cò có nhận ra người nàykhông?

Đấu dầy bên kia im lặng tuyệt đối. Cả anh chồng giả ốm kia cũng im thin thít. Carl chờ đợi. Kiên nhẫn có lẽ là một đức tính tốt đối với người làm công tác điều tra. Do vậy, việc phát huy tối đa nó là vẫn để sống còn.

- Sợ thật. - Cuối cùng Helle Andersen cũng lên tiếng. Bỗng dưng giọng cô nhỏ hẳn đi. - chính là anh ta.

Tôi tin chắc đây là anh ta.

- Người đã đem lá thư tới cho cô ở nhà Merete á? Có phải ý của cô muốn nói như vậy không?

- Phải. - Lại một khoảng im lặng, như thể cô gái cần phải hình dung ra hình ảnh của cậu bé trong ảnh nhiêu năm về sau. - Có phải đó là người anh đang tìm không? Anh nghĩ anh ta có liên quan đến chuyện của Merete à? Tòi có nên dè chừng anh ta không vậy?

Helle Andersen tỏ ra lo lắng thực sự. Và có lẽ cô có lý do để làm thế.

- Đã năm năm rồi, cô không có gì phải sợ, Helle. Cô bình tĩnh đi. - Anh nghe thấy tiếng thở phào. - Vậy theo cô thì đây chính là người giao lá thư đó. Cô chắc chứ?

- Là anh ta. Phải, tôi chắc chắn như thế. Đôi mắt anh ta rất đặc biệt. Ôi, chuyện này khiến tôi cảm thấy nôn nao kỳ lạ.

Có khi là do món pizza đấy, Carl nghĩ thầm trong khi cảm ơn Helle Andersen và gác máy. Anh ngả người ra lưng ghế.

Anh đưa mắt nhìn những tấm ảnh chụp lén Merete Lynggaard đang nằm trên hồ sơ vụ án. Hiện giờ anh cảm thấy nhiều hơn bao giờ hết rằng đây chính là mối dầy liên kết giữa nạn nhân và hung thủ. Đây là lần đầu tiên anh có cảm giác mình đi đúng hướng. Tay Atomos này đã đánh mất tuổi thơ và trở thành một kẻ đầu trộm đuôi cướp, nếu nói theo cách bóng bẩy. Ma đưa lối quỳ dẫn đường khiến hắn gặp được Merete. Vấn đề là vì sao, ở đâu, như thế nào? Có lẽ anh sẽ không bao giờ tìm được các câu trả lời, nhưng anh sẽ cố.

Mona Ibsen có thể ngồi đó lau bóng chiếc nhẫn cưới trong khi chờ đợi.

Người tiếp theo được anh gửi ảnh là Bille Antvorskov. Trong chưa đây năm phút anh đã có câu trả lời của ông trong hộp thư. Đúng là một trong hai cậu bé trông khá giống với người đã tham dự cuộc họp tại Christiansborg, nhưng Antvorskov không dám chắc về điều đó.

Thế là đủ với Carl. Anh tin chắc Antvorskov là người không bao giờ quả quyết một chuyện gì trước khi xem xét đến chân tơ kẽ tóc của nó.

Điện thoại đổ chuông. Không phải Assad, cũng không phải trại trẻ Godhavn, như anh mong đợi. Trong tất cả những người có thề gọi cho anh vào lúc này, Vigga là người gọi điện.

- Có chuyện gì với anh vậy, Carl? - Cô hỏi với giọng run run.

Anh cố đoán xem chuyện gì đã xảy ra, nhưng chưa kịp nghĩ được gì thì Vigga tuôn một tràng:

- Buổi khai trương đã bắt đầu đón khách được nửa tiếng, nhưng không có ma nào xuất hiện. Bọn em có mười chai vang và hai mươi gói snack. Nếu anh cũng không đến thì em không biết phải làm gì nữa.

- Ở gallery của em á? Có phải ý em là vậy không?

Vài tiếng sụt sịt báo cho anh biết Vigga sắp sửa khóc nấc lên.

- Anh không hề hay biết chuyện này.

- Hugin đã gửi đi năm mươi thư mời vào ngày hôm kia. - Vigga thút thít lần cuối, sau đó mới lời cái đuôi ra. - Chẳng lẽ em không thể trông cậy vào anh được hay sao? Xét cho cùng, anh cũng đầu tư vào gallery này mà!

- Em đi mà hỏi bóng ma lang thang của em ấy.

- Anh bảo ai là ma cơ? Hugin á?

- Em còn có thằng cha bám váy nào khác ngoài hắn ta à?

- Hugin cũng bận tâm chẳng kém gì em về thành công của gallery này.

Carl không nghi ngờ chuyện đó. Nếu không thì anh ta còn có thể trưng bày những tấm giẻ rách vẩy sơn lung tung của mình ở đâu kia chứ?

- Nghe này, Vigga, nếu Einstein của em thực sự nhớ đi gửi thư mời qua đường bưu điện vào ngày thứ Bảy vừa rồi, như em nói, thì người nhận sẽ chỉ thấy chúng trong hòm thư nhà mình khi họ đi làm về vào tối nay.

- Ôi trời ơi, không thể nào! Chết tiệt! - Vigga rêи ɾỉ. Vậy là tối nay thằng cha kia phải ngủ chay rồi.

Carl không thể không cảm thấy khoái trá trong lòng.

Tage Baggesen gõ cửa phòng làm việc của Carl đúng lúc anh châm điếu thuốc lá đã mè nheo kêu réo anh nãy giờ.

- Vâng, mời vào? - Anh nói khi buông phổi vẫn còn đầy khói thuốc.

Thế rồi anh trông thấy người đàn ông gần như bạc trắng đi vào một cách đường hoàng trong tình trạng ngà ngà say và tỏa mùi bia rượu ra khắp phòng.

- Tôi chì muốn xin lỗi vì đã cúp điện thoại một cách đột ngột hôm nọ. Tôi cần thời gian để suy nghĩ, bây giờ mọi sự đã vỡ lở hết rồi.

Carl mời Baggesen ngồi xuống và hỏi xem anh ta có muốn uống gì không, nhưng anh ta khoát tay từ chối trong lúc ngồi vào ghế. Đúng là anh ta đã uống đủ rồi.

- Anh đang nghĩ đến chuyện gì thế hả? - Carl hỏi, cố làm ra vẻ mình đang có nhiều quân bài trong tay, dù không phải vậy.

- Ngày mai tôi sẽ nộp đơn từ chức. - Baggesen đáp, mắt mệt mỏi nhìn quanh phòng. - Tôi sẽ đi gặp ngài chủ tịch quốc hội ngay sau cuộc nói chuyện này. Merete đã bảo tôi chuyện này sẽ xảy ra nếu tôi không chịu nghe cô ấy, nhưng tôi không tin. Và tôi đã làm việc mà tôi không bao giờ được làm.

Carl nheo mắt.

- Cũng tốt nếu anh và tôi làm rõ mọi chuyện trước khi anh công khai tất cả. Baggesen gật đầu, rồi cúi mặt.

- Tôi đã mua một số cồ phiếu vào năm 2000 và 2001. Trúng đậm.

- Cổ phiếu loại nào?

- Những thứ vớ vẩn nhất. Sau đó tôi thuê một người môi giới chứng khoán, người này khuyên tôi đấu tư vào các nhà máy sản xuất vũ khí ở Mỹ và Pháp.

Đây chắc chắn không phải lời khuyên mà mấy gã tư vấn trong ngần hàng địa phương tại Allerød dành cho khách hàng khi họ muốn đầu tư khoản tiền dành dụm của mình. Anh rít một hơi thuốc dài rồi dụi điếu thuốc trong cái gạt tàn. Không, anh biết đây không phải là khoản đầu tư mà một thành viên sừng sỏ của đảng Trung dung cấp tiến muốn để cho mọi người biết.

- Tôi cũng đã cho thuê hai căn nhà để làm tiệm mát-xa. Lúc đầu tôi không biết, nhưng sau đó nhanh chóng phát hiện ra. Chúng nằm ở Stroby Egede, gần nhà của Merete, và người ta đã bắt đầu xẩm xì. hồi đó mọi chuyện khá thuận lợi với tôi. Xui thay, tôi đã ba hoa với Merete về những chuyện làm ăn của mình. Tôi đã quá yêu cô ấy, trong khi cô ấy chẳng buồn để tâm đến tôi, Tôi đã hi vọng rằng cô ấy sẽ quan tâm hơn đến tôi nếu tôi khoe của, nhưng dĩ nhiên chuyện đó không thay đổi được gì. - Baggesen đưa tay xoa gáy. - Cô ấy không phải loại phụ nữ đó.

Carl nhìn đám khói thuốc cho đến khi nó tan vào khoảng không.

- Và cô ấy đã yêu cầu anh chấm dứt việc anh đang làm?

- Không, cô ấy không yêu cầu tôi dừng lại. Merete chỉ nói là cô ấy có thể lỡ miệng nói gì đó với thư ký của mình, Marianne Koch. Tôi rất hiểu điều đó. Nếu Marianne phát hiện ra được chuyện gì, tất cả mọi người sẽ biết ngay sau vài phút. Merete chỉ muốn cảnh báo tôi.

- Tại sao cô ấy lại quan tâm đến chuyện làm ăn của anh?

- Đâu có. Vấn đề là ở chỗ đó. - Baggesen thở dài, vùi mặt vào hai bàn tay. - Tôi đã theo đuổi cô ấy lâu đến nỗi cuối cùng cô ấy chỉ muốn không phải nhìn thấy cái bản mặt của tôi nữa. Và cô ấy đã làm thế thật. Tôi tin rằng nếu tôi tiếp tục quấy rầy, cô ấy sẽ xì thông tin của tôi ra. Tôi không trách Merete.

- Vậy là anh quyết định để yên cho cô ấy, nhưng vẫn tiếp tục chuyện làm ăn của mình?

- Tôi đã hủy hợp đồng cho thuê nhà làm tiệm mát-xa, nhưng vẫn giữ những cố phiếu của mình. Tôi chỉ bán chúng sau sự kiện 11 tháng Chín ít lâu.

Carl gật đầu. Có nhiều người đã kiếm cả gia tài từ thảm kịch đó.

- Anh đã kiếm được bao nhiêu? Baggesen ngước mắt lên.

- Gần mười triệu krone.

Carl nhăn mặt.

- Và anh đã gϊếŧ Merete để cô ấy không tiết lộ chuyện làm ăn của anh?

Tay nghị sĩ giật nảy người. Carl nhận ra nét mặt hoảng sợ của anh ta giống như ở lần gặp trước đó giữa hai người.

- Không, không! Không đời nào tôi làm chuyện đó. Tôi không làm gì phạm pháp cả. Tôi sẽ không bị gì hết ngoài việc mà tôi sẽ làm trong ngày hôm nay.

- Anh từ chức chỉ để khỏi bị những người trong đảng yêu cầu làm điều đó chứ gì?

Mắt Baggesen đảo quanh phòng và chỉ dừng lại khi nhìn thấy tên viết tắt của mình trong danh sách đối tượng tình nghi trên bảng ghim.

- Anh có thể gạch tên tôi ra khỏi danh sách được rồi đó. - Anh ta nói và đứng dậy.

Tận ba giờ chiều Assad mới ló mặt vào văn phòng, muộn hơn nhiều so với mong đợi của người khác đối với một anh chàng có bằng cấp khiêm tốn và vị trí công việc bấp bênh như thế. Trong một thoáng Carl đã nghĩ đến việc khiển trách Assad, nhưng khuôn mặt vui vẻ và nhiệt tình của anh ta khiến anh không thể làm thế.

- Anh làm cái quái gì trong suốt chừng ấy thời gian? - Carl vừa hỏi vừa chỉ tay vào đồng hồ.

- Hardy gửi lời chào sếp đó. Anh đã cử tôi đến thăm anh ta, anh quên rồi à?

- Anh nói chuyện với Hardy suốt bảy tiếng đồng hồ sao? - Carl lại chỉ vào đồng hồ.

Assad lắc đầu.

- Tôi kể cho anh ta nghe những thông tin tôi có về vụ án người đi xe đạp, và anh có biết Hardy đã nói gì không?

- Cậu ấy đã nói cho anh biết ai là kẻ sát nhân. Assad ngạc nhiên ra mặt.

- Sếp biết Hardy khá rõ đấy. Phải, đó đúng là điều anh ấy nói.

- Nhưng Hardy không nói cho anh biết tên của thủ phạm. Đúng không?

- Tên á? Không, Hardy chỉ nói ta nên tìm một người quan trọng đối với mấy đứa con của nhân chứng. Người đó có thể là một thầy giáo, hoặc ai đó ở trường mẫu giáo, nhưng phải là người mà bọn trẻ thực sự phụ thuộc, chồng cũ của nạn nhân, hoặc một bác sĩ, hoặc người nào đó mà đám trẻ thường xuyên gặp. Một huấn luyện viên dạy cưỡi ngựa chẳng hạn. Nhưng đó phải là một người có liên hệ với cả hai đứa trẻ. Tôi đã nói điều này với tổ chuyên án trên tầng hai.

- Ồ. - Carl nhăn mặt. Thật đáng kinh ngạc khi Assad đột nhiên nói trôi chảy chừng ấy câu. - Bak chắc là sướиɠ như điên ấy nhỉ?

- Sướиɠ như điên? - Assad ngẫm nghĩ câu ví von của Carl. - Có thể. Khi ấy thì người ta trông như thế nào nhỉ?

Carl nhún vai. Assad lại là chính mình rồi.

- Thế ngoài chuyện đó ra thì anh còn làm gì nữa?

Xét theo đôi lông mày nhún nhảy của Assad, Carl biết anh ta còn chuyện chưa nói.

- Sếp nhìn xem tôi có gì này.

Anh chàng lấy từ trong một chiếc túi mua hàng ra cuốn sổ ghi lịch hẹn bọc da cũ sờn của Merete và đặt lên bàn.

- Sếp nhìn đi. Tay này làm tốt đấy chứ?

Carl mở phần danh bạ ở mục H và lập tức trông thấy sự khác biệt. Đúng là anh bạn của Assad rất khéo tay. Vết bôi đen trên số điện thoại đã biến mất, những con số hơi mờ, nhưng vẫn đọc được: Daniel Hale, 25772060. Thật đáng kinh ngạc. Thậm chí còn hơn cả tốc độ gõ phím của Carl để kiểm tra số điện thoại đó trên máy tính.

Anh không thể cưỡng lại sự tò mò của mình. Nhưng máy tính không cho ra kết quả nào.

- Đây là một số điện thoại không có thực. Hãy gọi cho Lis và nhờ cô ấy kiểm tra số điện thoại này càng nhanh càng tốt. Chúng ta không biết công ty viễn thông nào cấp đầu số này, nhưng tôi tin Lis có thể tìm hiểu được. Nhanh lên, Assad. - Carl vỗ vỗ đôi vai chắc như đá tảng của anh chàng trợ lý.

Anh châm một điếu thuốc lá, ngả người ra sau, và tổng kết những điều họ đã biết được cho đến thời điếm này.

Merete Lynggaard đã gặp người giả danh Daniel Hale tại Christiansborg và có thể đã đong đưa với anh ta, nhưng quay lưng sau đó vài ngày. Việc gạch tên anh ta trong danh bạ là điều cô không thường làm. Nó gần như một nghi thức. Bất chấp lý do của việc đó, cuộc gặp gỡ với người tự nhận mình là Daniel Hale rõ ràng là một sự kiện quan trọng trong cuộc đời Merete.

Carl cố hình dung ra cô gái trong đầu. Một nữ chính trị gia xinh đẹp với cả sự nghiệp xán lạn phía trước dường như đã gặp nhầm người. Một kẻ mạo danh, một kẻ có ý đồ xấu. Một số nhân chứng đã liên hệ hắn ta với một thằng bé có biệt danh Atomos. Theo lời cô giúp việc ở Magleby, hắn ta trông khá giống với người đã giao lá thư có thông điệp “Đi Berlin vui nhé!”. Còn theo Bille Antvorskov thì Atomos đã tự nhận mình là Daniel Hale. Cũng chính Atomos là kẻ mà chị gái của Dennis Knudsen cho rằng đã ảnh hưởng xấu đến em trai cô hôi nhỏ, và nhiều năm về sau đã thuyết phục Dennis lao xe vào chiếc xe hơi được lái bởi Daniel Hale thực, khiến anh này thiệt mạng. Thật phức tạp, nhưng nghe cũng hợp lý.

Hiện tại có khá nhiều tình tiết củng cô cho những manh mối anh có: cái chết kỳ lạ của Dennis Knudsen không lâu sau vụ tai nạn xe hơi. Phản ứng dữ dội của Uffe khi nhìn thấy tấm ảnh cũ của Atomos, người nhiều khả năng đã gặp gỡ Merete dưới cái tên Daniel Hale. Cuộc gặp đòi hỏi một sự tính toán tỉ mỉ.

Và cuối cùng là sự mất tích của Merete Lynggaard.

Carl cảm thấy dịch vị trào lên, và gần như ao ước được nhấp một chút món nước trà ngọt lè của Assad. Anh ghét phải chờ đợi khi không cần thiết. Tại sao anh không thể nói chuyện với ông giáo già ở trại trẻ

Godhavn ngay bây giờ kia chứ? Thằng bé mang biệt danh Atomos hẳn phải có tên tuổi đàng hoàng và một

số định danh cá nhân. Thứ cho phép tìm ra hắn ngay hôm nay. Anh muốn có thông tin đó. Ngay bây giờ!

Carl dập thuốc và lấy mấy danh sách ghim trên bảng xuống, đọc lại những gì mình đã viết.

ĐỐI TƯỢNG TÌNH NGHI:

Uffe

Người đưa thư chưa rõ danh tính. Thư về chuyến đi Berlin.

Người đàn ông/phụ nữ ở quán cà phê Bankeråt “Các đồng nghiệp” tại Christiansborg - T.B. +?

Gϊếŧ người cướp của - có bao nhiêu tiền trong túi của Merete? Tấn công tìиɧ ɖu͙©

KIỂM TRA:

Nhân viên xã hội ở Stevns Bức điện tín

Các cô thư ký ở Christiansborg

Các nhân chứng trên chuyến phà Schleswig-Holstein

Gia đình cưu mang sau vụ tai nạn - bạn học đại học. Merete có khuynh hướng trầm cảm hay không? Có mang bầu không? Đang yêu?

Bên cạnh dòng chữ “Người đưa thư chưa rõ danh tính Carl mở ngoặc thêm: “Atomos giả danh Daniel Hale”. Sau đó anh gạch bỏ mục số bốn cùng tên viết tắt của Tage Baggesen và câu hỏi về việc Merete có mang bầu hay không ở dòng cuối cùng.

Ngoài mục số ba, danh sách đầu tiên vẫn còn mục năm và sáu. Ngay cả một khoản tiến nhỏ cũng có thể làm động lòng tham nơi bọn trộm cướp. Nhưng khả năng tấn công tìиɧ ɖu͙© ở mục số sáu có vẻ không được cao, do bối cảnh và khung thời gian trên chuyến phà.

Đối với danh sách thứ hai, Carl vẫn còn chưa nói chuyện với các nhân chứng trên chuyến phà, gia đình nhận nuôi hoặc bạn học đại học. Báo cáo không cho thấy điểm gì hữu ích trong lời khai của các nhân chứng trên phà, trong khi hai nhóm đối tượng còn lại giờ đã trở nên không còn phù hợp. Rõ ràng Merete đã không tự tử.

Không, hai danh sách này sẽ chẳng đưa mình đi xa hơn, Carl nghĩ bụng. Anh nghiên cứu chúng thêm vài phút rồi vo viên và ném vào sọt rác. Nó nằm đó để làm gì chứ?

Anh cầm lấy danh bạ điện thoại của Merete và đưa nó lại gần mắt. Người quen của Assad đã làm được một kỳ tích. Những dòng gạch xóa đã hoàn toàn biến mất. Thật không thể tin nổi.

- Anh phải cho tôi biết ai đã làm chuyện này! - Carl nói vọng qua hành lang, nhưng Assad đã xua tay ngăn anh lại.

Carl trông thấy tay trợ lý của mình đang áp ống nghe vào tai và ngồi tại bàn, đầu gật gù. Trông anh chàng có vẻ không hài lòng. Chắc là người ta không thể tìm được tên chủ thuê bao di động của số điện thoại vừa được tìm thấy trong danh bạ của Merete.

- Hắn ta gọi bằng thẻ trả trước hay sao? - Anh hỏi khi Assad bước vào phòng, tay phe phẩy mẩu giấy để quạt đi làn khói thuốc với vẻ mặt không hài lòng.

- Vâng. - Assad đưa mẩu giấy cho Carl. - Điện thoại di động đó thuộc về một nữ sinh trường trung học Tjornelys ở Greve. Theo lời khai báo thì nó bị lấy từ trong túi áo khoác khi cô bé treo nó ở bên ngoài lớp học, vào ngày thứ Hai, 18 tháng Hai năm 2002. Vụ trộm chỉ được khai báo vài ngày sau đó, và không ai biết thủ phạm là người nào.

Carl gật đầu. Vậy là họ đã biết tên của chủ thuê bao, nhưng không biết ai đã đánh cắp chiếc điện thoại và sử dụng nó. Cũng hợp lý thôi. Giờ đây anh đã tin rằng tất cả mọi chuyện đều liên hệ với nhau. Sự biến mất của Merete Lynggaard không phải là một tai nạn. Một người đàn ông đã tiếp cận cô với ý đồ xấu và bày ra một chuỗi các sự kiện kết thúc bằng việc không ai gặp lại nữ nghị sĩ quốc hội xinh đẹp kể từ đó. Đã năm

năm trôi qua, tất nhiên anh lo SỢ điều tồi tệ nhất.

- Lis đang hỏi xem cô ấy có nên tiếp tục theo vụ này hay không.

- Assad lên tiếng.

- Tức là sao?

- Cô ấy có nên truy lại các cuộc gọi từ điện thoại bàn trong văn phòng của Merete tới số điện thoại này hay không?

Assad chỉ tay vào mẩu giấy mà mình đã ghi nắn nót dòng chữ: “25772060, Sanne Jonsson, Tvaerager 90, Greve Strand”. Hóa ra anh chàng cũng viết được thứ gì đó mà Carl đọc được.

Carl lắc đầu với chính mình. Không lẽ anh đã thực sự quên mất việc đối chiếu danh sách cuộc gọi? Chắc anh phải bắt đầu ghi chú mọi lúc mọi nơi trước khi căn bệnh Alzheimer lấy đi tất cả.

- Tất nhiên. - Carl đáp với giọng ra lệnh.

Việc này sẽ thiết lập được diễn tiến mối quan hệ giữa Merete và kẻ mạo danh Daniel Hale.

- Nhưng anh biết rồi đó, việc này sẽ mất khoảng hai ngày, và Lis hiện đang rất bận. Cô ấy bảo là sẽ rất khó khăn vì một thời gian dài đã trôi qua. Thậm chí có khả năng cô ấy sẽ không làm được. - Assad ỉu xìu ra mặt.

- Này Assad, hãy cho tôi biết ai đã làm được chuyện này vậy? - Carl vừa hỏi vừa chỉ cuốn sổ ghi lịch hẹn của Merete.

Nhưng Assad từ chối trả lời.

Carl đang định giải thích rằng việc úp mở này sẽ không giúp anh ta có cơ hội giữ được chỗ làm, thì điện thoại bàn đổ chuông.

Người gọi là giám đốc của viện Egely, và sự khinh bỉ mà ông ta dành cho Carl tuôn trào như thác đổ từ ống nghe điện thoại.

- Tôi muốn anh biết là Uffe Lynggaard đã bỏ trốn không lâu sau lần gây chuyện điên rổ của anh vào hôm thứ Sáu vừa rồi. Chúng tôi không biết hiện giờ cậu ta đang ở đâu. Chúng tôi đã báo cảnh sát ở Frederikssund, nhưng nếu cậu ta gặp chuyện chẳng lành, thì tôi sẽ không buông tha anh trong suốt phần đời còn lại, Carl Mørck.

Nói đến đây ông ta dập máy, bỏ lại Carl trong sự im lặng nhức nhối.

Hai phút sau, đội trưởng đội trọng án yêu cấu Carl lên gác gặp mình. Ông không cần nói thêm, anh đã nhận ra giọng điệu này.

Anh phải đi lên trên đó. Ngay lập tức.