Làm người trực đêm ở nhà xác thành phố thì cũng chẳng có gì đáng khoe, nhưng công việc này cho phép tôi vẫn đi học đầy đủ vào ban ngày và cũng có thể nghiên cứu thêm vào ban đêm bên cạnh những nhiệm vụ phải làm vốn không nặng nề gì.
Trong các ngăn kéo được đánh số và gắn thẻ, các xác chết trong đó sẽ chẳng bao giờ quấy rầy tôi trong khi tôi đang nặn óc đánh vật với các vấn đề tích phân. Tôi vẫn nghĩ thế.
Tối hôm đó, tôi tới đổi phiên cho Olaf Daly như thường lệ. Olaf là một lão già chết cứng với cái nghề này vì đã lớn tuổi và vì cái chân thọt, nên cả ngày lão chỉ mong cho tới lúc đổi phiên. Như mọi khi, lão ầm ừ một câu chào rồi tạm biệt cùng một lượt. Với cái chân thọt mà lão đi ra khỏi nhà xác coi bộ nhanh nhẹn ác!
Còn lại một mình trong gian phòng phía ngoài vắng lặng, tôi đặt bình thủy, chiếc radio và mấy cuốn sách lên bàn, rồi tôi lôi cuốn sổ trực to tổ bố lại gần xem qua một lượt.
Olaf đã ghi chép việc xuất nhập hàng ngày bằng nét chữ khẳng khiu của lãọ Một ông chết đuốị Hai ông bà chết vì đυ.ng xẹ Một gã ngủ say tới bỏ mạng khi nhà bốc cháỵ Một chú đánh lộn bị đâm chết. Một phụ nữ bỏ xác trôi sông.
Công việc mỗi ngày của Olaf rất đều đặn. Cả tuần qua chẳng có gì đặc biệt đáng chú ý. Ngoại trừ cái con mụ tuần qua nằm ở ngăn số 14.
Con mụ ấy nghe đồn là phù thủy, mụ xưng là Phù thủy Endor đệ tứ, nhiều người tin mụ gớm. Vì mụ sống ở một khu nghèo nàn và thất học, kiếm ăn bằng nghề coi bói, lên đồng, đoán số đề, bán bùa ngãi… nhưng dân láng giềng nói bà ta chưa làm gì bậỵ Một đêm trời nóng nực, mụ leo lên mái nhà khu chung cư. Không hiểu do mụ ta trượt chân hay vì muốn bay lên mặt trăng nhưng thất bại, mà người ta thấy mụ nằm phơi xác trên mặt đường nhựa trước khu chung cư sáu tầng lầu đó, rồi được mang tới đây, đặt trong ngăn số 14. Mụ nằm trong ngăn đông lạnh đó bốn ngày thì có đứa con ở tận đâu đâu đó tới nhận xác. Với Olaf thì mụ ấy chưa hoàn toàn đi khỏi đây, lão già nói:
- Tao thề là có cái mùi gì ở ngăn số 14 đó, giống như mùi lưu huỳnh.
Tôi có thấy cái gì đâụ Mũi tôi còn đầy nghẹt mùi của phòng thí nghiệm nơi tôi đã phải trầy trật để theo kịp chúng bạn.
Tôi dẹp cuốn sổ để đi tuần một vòng. Căn phòng kế cạnh thắp đèn sáng choang, nhưng lạnh tanh, thênh thang và không sinh khí. Nền phòng sạch bông, thoang thoảng mùi thuốc sát trùng. Ðằng kia là cánh cửa lớn mở ra lối cho xe chở xác chạy vào, cạnh đó là cái bàn đá có chân bánh xe, mặt bàn dài thượt. May mắn mà lúc này nó trống, được lau chùi sạch sẽ chờ lúc được sử dụng tớị Cái máy lạnh phát ra tiếng rù rì trầm trầm, chú ý mới nghe thấỵ
ở mé tay phải, giống như một tổ ong khổng lồ, là hàng hàng lớp lớp những ngăn kéo để chứa các xác chết trong khi chờ thân nhân đến nhận, hay sau cùng thì nhà nước bỏ tiền ra chôn làm phước.
Ngăn kéo nào có xác đều được gắn thẻ, như thẻ hành lý trong kho trên máy bay hay tàu thủỵ Thẻ được móc vào tay cầm của ngăn kéọ
Tôi huýt sáo nho nhỏ, chỉ vì muốn tạo một âm thanh gì đó thôi, và bắt đầu kiểm tra những thẻ theo danh sách trong sổ mà tôi vừa xem qua và nhớ được.
Tới gần ngăn số 14, tôi chợt khịt mũi “A! cái mùi lưu huỳnh của lão Olaf đây !”, tôi lẩm bẩm.
Ði qua ngăn kéo ấy một bước thì tôi giật mình, ngoảnh đầu, rồi xoay cả người lạị
Olaf đâu có ghi xác nào trong ngăn 14, nhưng mà có thẻ gắn ở ngăn nàỵ Tôi cúi người tới, đưa tay ra, huýr sáo không thành tiếng nữạ Tôi cầm tấm thẻ lật qua lật lạị Một lần, hai lần, rồi ba lần càng lúc càng nhanh.
Ðứng thẳng dậy, tôi gãi đầu một phát. Cả hai mặt thẻ đều trống trơn, chẳng ghi gì cả. Cha nội Olaf tuy già, nhưng đâu đến nỗi lẩm cẩm. Quên ghi tên người vào thẻ, lão chưa từng có vụ này bao giờ.
Rồi tôi nhếch mép cườị Lão già này muốn đùa đây, tôi đâu dè lão cũng khoái giỡn như thế. Tôi lại huýt sáo được thành tiếng, nghe có vẻ tỉnh táo lắm, nhưng không có gì hay họ
Tôi nắm lấy tay cầm và kéo mạnh. Ngăn kéo vốn có bánh xe nên tuột ra cái rẹt. Tiếng huýt sáo của tôi chợt tắt ngúm.
Một con nhỏ đang nằm trong đó! Tóc vàng, coi trẻ măng, và đẹp nữa, mặc dù đã chết.
Tôi đứng nhìn cô ta mà nghe mấy ngón chân ngọ ngoạy trong đôi giàỵ Nét mặt cô thật dễ thương, làn da mịn màng như lụạ Ðôi mắt khép nhẹ như đang ngủ, bờ mi cong và dài, đen mướt. Cô mặc bộ đồng phục y tá. Món duy nhất cho tôi biết lai lịch chút ít của cô là tấm lắc dây chuyền ở cổ taỵ Trên tấm lắc có khắc hai mẫu tự: Z.L.
Tôi vội vàng quay đi, chạy ra phòng ngoàị Vồ lấy cuốn sổ trực, tôi lật vội ra xem. Tôi không muốn nghi oan lão Olaf.
Tôi rà một lượt, ngớ người ra, rà lại lần nữạ Lật trang trước coi phần ghi chép hôm qua, và cả hôm kia nữạ Tuyệt nhiên không có ai được đưa vào ngăn 14 cả.
Tôi chu mỏ, nhưng huýt sáo không nổi, và bước tới cửa vào phòng lạnh. Mé trên cửa có hai khung kiếng nên tôi có thể nhìn vào trong mà không cần mở cửạ Ngăn kéo 14 bị lôi kéo ra vẫn còn nguyên ở đó, và cô Z.L. tóc vàng vẫn nằm chầng vầng một đống như cũ.
Tôi cẩn thận ngồi xuống ghế, rút khăn tay ra và lau trán. Hít một hơi dài, tôi nhấc phôn lên quay số của Olaf. Khi nghe tiếng chuông, tôi còn liếc lại cửa phòng lạnh.
Giọng mụ vợ Olaf nghe ngái ngủ:
- Ồ, rất tiếc. Ông Olaf nhà tôi chưa về. – Rồi chợt giọng bà ta nghe tử tế hơn – Chờ chút, tôi nghe tiếng ông ấy mở cửạ
Giọng Olaf vang lên sau tiếng đằng hắng:
- Rồi, chuyện gì?
- Tully Branson đây, bác Dalỵ
- Không có cái vụ trực thế ày đi nhậu với bạn đâu à nghen !
- Không có đâu – tôi đáp – cháu chỉ muốn biết về cái cô trong ngăn 14.
- Không có ai trong ngăn 14 hết, Tullỵ
- Có mà, thưa bác. Một cô tóc vàng đàng hoàng. Trẻ và đẹp, chết uổng hết sức. Chắc bác nhớ ra hén, có điều bác quên ghi sổ nhập cho cô ấỵ
Tôi nghe tiếng bà Daly hỏi chồng chuyện gì đó, rồi nghe ông ta nói với vợ:
- Chắc cái thằng Branson này đêm nay nó mang rượu vô đó uống quá!
- Không có, bác ơi – tôi cự liền – Cháu khoái nhậu, nhưng không có mang rượu vô đây à nghen! Chỉ có chuyện cô tóc vàng ở ngăn 14 bác quên ghi sổ thôi !
- Ðời nào tao lại quên chuyện đó được?
- Có mà. Không tin bác ghé đây coi đị
- Tao sẽ tới, con ạ ! Sai sót này lớn lắm chứ chơi đâụ
Lão giộng ống nói xuống thiếu điều làm tôi thủng cả màng nhĩ. Còn tôi thì nhẹ nhàng đặt ống nói xuống, lấy bình thủy rót một ít cà phê ra, đốt một điếu thuốc, nhấp một ít cà phê, châm một điếu thuốc.
Nhấp miếng cà phê nữa, cất bình thủy vào chỗ của nó, thò tay lấy gói thuốc, lúc đó tôi mới nhìn thấy mình đã châm hai điếu bỏ trên gạt tàn. Tôi mếu miệng cười, duị tắt một điếu để dành đêm khuyạ
Với bước chân khập khiễng, lão Olaf bước vào cứ như một con tàu đi trong giông bãọ Ðáp lại ánh mắt trợn trừng của lão, tôi chỉ mỉm cười với tất cả sự chắc ăn mình có được, và mời lão vào phòng xác.
Lão đi qua cánh cửa, tôi theo sát nút. Ngăn 14 vẫn còn kéo lòi ra ngoài ở đó. Lão chẳng cần đi tới nơị Nhìn một cái, lão quay lại liền:
- Branson – lão nói – tao mà còn trẻ là đập bể mặt mày liền. Mày bắt một người già mệt nhọc nửa đêm tới một nơi hôi thối như thế này đó hả? Vậy mà lâu nay tao cứ nghĩ mày là thằng nhóc tử tế đó !
- Nhưng bác Daly…
- Không có “nhưng” con mẹ gì cả ! Cái vụ này tao sẽ báo cáo !
Tôi trợn mắt nhìn ngăn 14 như thằng khùng. Cô ta vẫn còn đó, thù lù một đống. Tóc vàng, xinh đẹp và chết cứng.
Olaf xô tôi qua một bên và bước đị Tôi níu lấy tay lãọ Tôi đúng là còn nhỏ tuổi, nhưng cũng đã mọc râu rồị Tôi kêu lên:
- Bác Olaf. Bác thấy mà. Cháu biết bác thấy mà !
- Bỏ cái tay ra nghe chưa ! – lão quát – Tao thấy rõ ràng là cái ngăn kéo trống trơn, y hệt cái đầu óc của mày vậỵ
Tôi cứ níu tay lão, không cho đi:
- Cháu không có chịu giỡn kiểu này đâu…
- Thì tao cũng vậy – lão quát vào mặt tôi – Giỡn gì cà chớn !
- Thì bác coi kỹ cái ngăn đi, đừng giỡn nữa mà.
- Thì tao đã coi rồị Không có gì hết ngoài một thằng nhóc láo lếu dám bày trò thối tha là bắt một người già phải nửa đêm tới đây !
Lão giật tay ra và bước nhanh ra ngoàị Ðến cửa, lão quay lại, dứ dứ ngón tay về phía tôi:
- Nè nhóc, tốt nhất là từ mai, mày lo kiếm việc làm khác đi ! – và lão dông thẳng.