Đại Hắc là chú chó Labrador được mẹ Phạm Tiểu Điền nuôi từ nhỏ đến lớn. Nhớ hồi ấy nhà cậu vừa quyết định nuôi chó, không có yêu cầu nào về giới tính cả. Ba cậu chỉ lắm mồm đề nghị một câu "giữ nhà", mẹ cậu đã vừa ý bé cún Đại Hắc.
Đại Hắc không phải lông đen, nó mang dòng máu thuần chủng Newfoundland của Canada, bộ lông vàng nhạt óng ánh, từ nhỏ nó đã oai phong rồi.
Đáng tiếc trừ ngoại hình ra, nó chẳng oai phong xíu nào.
Nó được đặt tên là Đại Hắc, bởi vì mẹ Phạm Tiểu Điền nói rằng sau này gặp người xấu, nhóc đấy có đất dụng võ, nếu con há mồm nói "Bảo Bảo cắn nó" hay "Bối Bối bảo vệ tao", khỏi nói mất mặt cỡ nào. Thế nhưng cảnh đời đổi thay, mọi người trông chờ vậy mà chó A cứ lớn lên thành đứa nhát gan.
Ví như chuyện lần này. Phạm Tiểu Điền gác máy, cậu nghĩ nát óc cũng không sao hiểu nổi, bởi vì chó B nhà hàng xóm là một con Poodle lai không ít dòng máu.
Chó bự nhà mình với chó xíu xiu nhà người ta, có quỷ mới biết Đại Hắc thua kiểu gì.
Lời mẹ nói chính là mệnh lệnh, Phạm Tiểu Điền vội vàng tạm biệt hai vợ chồng hàng xóm rồi chạy về khu phố cũ.
Nhà ở nơi này đều ẩn trong ngõ hẻm sâu hun hút, cậu đi xe buýt đến đầu hẻm. Đèn đường u ám trên đỉnh đầu chớp lấy chớp để liên hồi nhưng vẫn không tắt, chẳng khác nào chó hoang lưu lạc hàng năm trên đường, sức sống vô cùng mạnh mẽ bướng bỉnh.
Đương nhiên Đại Hắc đấu không nổi lũ chó hoang.
Phạm Tiểu Điền men theo hẻm nhỏ mà đi, tiếng vang ấm áp truyền ra từ mỗi căn nhà, có tiếng gameshow ồn ào, tiếng rửa nồi chén bát muôi giòn vang. Cậu về nên chưa kịp ăn cơm, bụng đói kêu ọt ọt, chưa kịp đi nhanh mấy bước đã nghe tiếng Đại Hắc sủa điên cuồng.
Chó A thính lắm, cách xa như vậy mà ngửi thấy mùi của chủ rồi.
Phạm Tiểu Điền rất vui, cậu lấy chìa khóa cổng ra. Chưa kịp đẩy hết cánh cửa, bóng dáng màu vàng đã vọt đến, mẹ cậu lập tức hô to gọi nhỏ: "Tiểu Điền, mau ôm lấy Đại Hắc, nó muốn tìm chó B trả thù!"
"Sao ạ..." Phạm Tiểu Điền ngơ ngác, coi như cơ thể cậu phản ứng nhanh, kịp thời kéo chân Đại Hắc, tiện thể ôm chú chó vào lòng.
Chó lớn rồi nên khá nặng, cậu ôm mà người đầy mồ hôi.
Đại Hắc còn ấm ức hơn, nó gục đầu xuống: "Gấu gầu."
Phạm Tiểu Điền nhìn kỹ, hóa ra trên mặt chó A thật sự có vết cào, không sâu không cạn, rướm máu xíu xiu; nhưng nhìn kỹ hơn sẽ thấy không giống vết cào bình thường.
"Còn bị cắn mấy miếng nữa, hỏng mặt rồi." Mẹ Phạm Tiểu Điền đóng cửa than vãn: "Không biết cố gắng, không biết cố gắng mà!"
Đại Hắc vùi đầu như đà điểu, ghé vào vai Phạm Tiểu Điền mà nức nở.
Mẹ của Phạm Tiểu Điền họ Diệp tên An, bà mở văn phòng khắc con dấu, giấc mộng cả đời là bồi dưỡng Phạm Tiểu Điền thành người nối nghiệp. Đáng tiếc Phạm Tiểu Điền tập trung vào tiệm hột rang, khi nào rảnh rỗi mới mò mẫm những cục đá khắc con dấu mà mẹ cậu yêu thích không nỡ buông tay.
Quý bà Diệp An ngồi ghế cắn hột dưa trong sân, không phải kiểu hột rang của Phạm Tiểu Điền: "Tiểu Điền, con nói đi. Từ nhỏ đến lớn Đại Hắc nhà mình toàn ăn thịt bò với gặm xương heo, sao nó kém chó B nhà hàng xóm vậy?"
"Sao con chó mẹ kia chướng mắt nó nhỉ?"
Phạm Tiểu Điền đang lấy nước ô mai trong tủ lạnh, nghe vậy bèn cười ra tiếng: "Chó mẹ nào ạ?"
"Còn con nào nữa? Con Phốc Sóc của nhà bán lẩu cay đầu phố ấy." Quý bà Diệp An đưa nắm hột dưa đã lột vỏ cho bà cụ đang nằm ghế hóng mát: "Mẹ à, Tiểu Điền về rồi."
Bấy giờ bà cụ mới mở mắt, hớn hở đón Phạm Tiểu Điền đến ngồi cạnh mình, hơn nữa còn chỉ cho cậu xem mớ dây mướp đã bò nửa mặt tường. Bà ấy bảo nếu không ăn số mướp hương này thì chúng sẽ thành mướp già.
Mẹ cậu chõ mồm vào: "Già thì móc ruột chúng ra."
Bà cụ không hề yếu thế: "Thời đại nào rồi mà còn lấy ruột mướp rửa bát? Mẹ đã hẹn người ta đến lắp đặt máy rửa bát tự động, con nhớ ra mở cổng đấy."
Quý bà Diệp An mất mặt, rắc lửa cho Phạm Tiểu Điền: "Sáng sớm ngày mai con đưa Đại Hắc đến bệnh viện khám đi, tuyệt đối đừng để lại sẹo, sau này không có con chó nào thích nó."
Phạm Tiểu Điền nghe bà nói xong, dở khóc dở cười: "Mẹ à, cho dù Đại Hắc không hỏng mặt, sau này nó cũng đâu có lai giống với loài Phốc Sóc?"
Mẹ cậu không thèm quan tâm: "Dù sao cũng là việc của con."
"Mẹ ơi, có gì ăn không?" Phạm Tiểu Điền đàng lảng sang chuyện khác: "Con chưa kịp ăn cơm đã về."
"Ra đầu phố ăn lẩu đi, trời nóng như vậy, ai thèm xuống bếp nấu cho con?"
Ánh sao rải khắp sân, Phạm Tiểu Điền nghe tiếng bản tin thời sự trong phòng ba mẹ, cậu đứng dậy dắt con ngựa sắt Phượng Hoàng cũ kỹ trong kho ra: "Thôi bỏ đi, con đến phố khác mua mì lạnh."[1]
[1] Một loại mì đặc sản ở Tây An.
"Mua cho mẹ một phần nhé, nhớ bỏ ớt." Mẹ cậu dặn dò chứ không ngẩng đầu: "Chạy chậm xíu, đừng làm mì lạnh bị nát."
Phạm Tiểu Điền hết cách với quý bà Diệp An, cậu đẩy chiếc xe đạp cót két đến đầu hẻm, vứt rác hộ hàng xóm rồi đạp xe chậm rì.
Con đường ở đầu hẻm là đường Quốc Khánh, vỉa hè có cây ngô đồng chẳng biết bao nhiêu năm tuổi, hễ đến hè là "Ớt Bự" rơi rơi. Đấy là cách nói của địa phương, thật ra "Ớt Bự" là một loại sâu lông, chạm vào da là ngứa, càng gãi càng đau. Hồi nhỏ Phạm Tiểu Điền dính không biết bao nhiêu lần, sau này lớn lên không biết là do cậu ít về nhà hay bớt sâu hẳn mà chẳng thấy "Ớt Bự" nữa. Bây giờ đạp xe một mình qua đây, tự dưng nhớ tuổi thơ quá chừng.
Vài chiếc xe buýt chậm rì đỗ sau lưng cậu, phần lớn người xuống xe là người già. Khu phố cũ nhuốm đầy khói lửa nhân gian, nơi đây có rất nhiều cửa hàng tách biệt với thời đại, đồng thời cũng có nhiều người dựa vào đó để kiếm sống.
Ví như điêu khắc con dấu, ví như rạp chiếu phim cũ.
Phạm Tiểu Điền dừng ngoài rạp chiếu phim, nhìn bức tường loang lổ mà hoài niệm. Cậu nhớ hồi nhỏ, ba mẹ đưa mình đến đây lần đầu để xem phim, hôm ấy chiếu bộ Hoàng Hôn Tím, cậu còn nhỏ quá nên bị chú hổ đột ngột xuất hiện trên màn hình dọa cho khóc nức nở. Diệp An bế cậu ra ngoài, vừa khéo màn hình chiếu cảnh ngọn lửa nương nhờ sức gió mà lan khắp đồng cỏ, khung cảnh đỏ rực ấy trở thành bóng ma suốt thời thơ ấu của cậu. Mãi đến khi lên cấp ba, Phạm Tiểu Điền mới xem trọn bộ phim này.
Ve kêu râm ran trên cành ngô đồng, cậu tiếp tục chạy về phía trước. Ngang qua tiệm bánh quai chèo, Phạm Tiểu Điền mua một gói bánh mới ra lò nóng hổi. Hồi cậu học Tiểu học, kế bên tiệm bánh quai chèo là cửa hàng bánh mì Siêu Hằng. Cậu đánh cược với bạn bè rằng cửa hàng bánh mì sẽ làm ăn lâu hơn tiệm bánh quai chèo, nào ngờ bây giờ cửa hàng bánh mì đã biến thành tiệm sửa xe, ai có tay nghề lâu năm hơn mới giữ được tiệm lâu dài.
Phạm Tiểu Điền chạy ngang qua rất nhiều nơi, dần dần nối thành ký ức tuổi thơ, ví như tờ quảng cáo "học thêm Ngữ văn" dán ở đầu hẻm, ví như sạp bánh nướng đầu phố.
Cuối cùng Phạm Tiểu Điền lao ra khỏi ký ức, cả người nhuốm màu khói lửa nhân gian, ngâm nga khúc hát rẽ vào khúc quanh. Cậu rời khỏi con phố này, nó lại thành tuổi thơ của người khác.
Hồi nhỏ mỗi con phố là một thế giới riêng, sau này lớn lên cũng vậy. Phạm Tiểu Điền đạp pedan, ngắm nhìn đất trời xung quanh. Chạc cây vốn đã khô vàng, nhang muỗi đã đốt thành tro, nhưng rồi cậu mau chóng tiếp nhận. Phạm Tiểu Điền chạy xe nhanh hơn, mồ hôi thấm ướt lưng. Cậu ấn chuông leng keng, không ngừng vượt qua người đi đường, cuối cùng thở hổn hển dừng trước tiệm bánh bột.
Chắc tầm bảy giờ, mấy cái bàn nhỏ đầy người ngồi.
"Hai phần mì lạnh mang về." Phạm Tiểu Điền cười tủm tỉm, ánh mắt trông chờ nhìn chủ tiệm xắt khối bột màu xanh lục thành sợi, tưởng như có mùi ớt cay nồng trong miệng.
Tự dưng có một bàn tay xòe ra chắn trước mặt cậu: "Hai phần mì lạnh mang về."
Nói năng rõ ràng, nghe giọng quen quen.
"Kinh Ca?" Nhờ bóng đèn dây tóc trong tiệm, Phạm Tiểu Điền nhìn rõ mặt mũi đối phương, suýt nữa cậu nhảy dựng lên: "Anh bán dưa xong rồi hả?"
Thật ra Kinh Qua bám theo cậu suốt cả đoạn đường, từ lúc cậu đạp xe rẽ vào con phố này, anh đã đi theo.
"Chưa." Kinh Qua có gì nói đó: "Ngày mai bán tiếp."
Phạm Tiểu Điền hớn hở: "Anh cũng ở gần đây ạ?"
Kinh Qua chỉ chỉ phía sau con phố: "Cứ đi thẳng là đến nơi."
"Cứ đi thẳng... Hình như là..." Cậu hơi mơ hồ.
"Là Khu tập thể Quân đội." Chủ tiệm đóng gói xong một phần rồi đưa cho cậu, thuận miệng nói: "Đi nữa là đến kênh đào."
"Đúng rồi, Khu tập thể Quân đội." Phạm Tiểu Điền bừng tỉnh hiểu ra.
Kinh Qua vội vàng sửa miệng: "Qua thêm cây cầu nữa."
"Qua cầu thì quá nhiều khu dân cư." Cậu cũng không nghi ngờ, cầm hai phần mì lạnh rồi hạnh phúc trở lại chỗ dựng xe, phát hiện bên cạnh có thêm xe đạp leo núi.
Trời tối không nhìn rõ kiểu dáng, nhưng có vẻ rất ngầu.
Phạm Tiểu Điền chậc chậc: "Kinh Ca, xe của anh được nha."
Kinh Qua không quên hình tượng bán dưa của mình, anh cũng không ngẩng đầu lên: "Hôm nay về nhà thăm ông nội nên sốt ruột, mượn xe của bạn."
"Ồ." Phạm Tiểu Điền không để bụng.
Kinh Qua mua mì lạnh xong, thấy cậu còn chưa đi, trong lòng anh bỗng ấm áp: "Sao vậy?"
Cậu nói đi hết con đường này rồi rẽ vào khúc quanh là về đến nhà, muốn chạy xe song song với anh.
"Vậy mình đi thôi." Kinh Qua treo phần mì lạnh ở chỗ tay lái, nhấc chân đạp pedan, thong thả chạy cách cậu một đoạn.
Phạm Tiểu Điền vội vàng kéo con ngựa già Phượng Hoàng đuổi theo, cót ca cót két rút ngắn khoảng cách. Kinh Qua không quay đầu nhưng chạy chậm hơn, mau chóng sánh vai với cậu. Từng ngọn đèn đường sáng lên, bánh xe lốm đốm ánh vàng. Bóng hai người kéo dài dưới ngọn đèn, tách ra rồi lại hội tụ, không ngừng lặp đi lặp lại quá trình ấy.
"Kinh Ca." Phạm Tiểu Điền tự dưng buột miệng thốt ra: "Pheromone của anh có mùi gì vậy?"