Có Những Thứ Không Thể Nói Thành Lời

Chương 12: Mảnh Ghép: Mật Tần Ký

Cung Thọ Khang được xây dựng rất tráng lệ, mái ngói nơi đây được tô lên thứ màu lưu ly rực rỡ, khi ở dưới ánh mặt trời vàng óng ả thì trông như đang dập dềnh gợn sóng.

Nếu nói đến những cung điện trong Tử Cấm Thành, thì cung Thọ Khang được xem là tráng lệ nhất, người ở đây không chỉ có thái hậu mà còn là tất cả phi tần của tiên đế. Không, bây giờ nên gọi là thái phi rồi. Nói trắng ra – cũng chính là “Viện quả phụ” cho một đám bà lão ở.

Nắng trời hôm nay thật đẹp, khiến tôi ngồi phơi nắng đến có chút choáng đầu. Ngoài cửa sổ, làn gió xuân phả vào phòng một mùi hương hoa rất ngọt, bỗng làm tòa cung điện tráng lệ mà tĩnh mịch này có thêm chút sức sống.

Hương hoa ngọt ngào này, rất giống hương hoa ở quê hương Tô Châu của tôi. Trong hương vị ngọt ngào còn xen lẫn mùi mạ non mát lành, khiến người ta chìm đắm trong hương thơm.

Lúc ấy, mẹ gọi tôi là “Ly nhi ~~ ”

Mà hiện giờ, mỗi người đều tôn kính xưng hô với tôi là “Mật thái phi ~~ ”

Làm Mật thái phi một thời gian, tân đế lại tôn tôi làm Thuận Ý Mật thái phi, đây cũng là tên hiện tại của tôi.

Tôi đã chóng quên mất, mình còn một cái tên “Ly nhi”. Dường như, thật lâu trước kia, thánh tổ hoàng đế cũng từng gọi tôi như thế.

Lần đầu tiên tôi nhìn thấy thánh tổ hoàng đế, là năm Khang Hi thứ hai mươi tám. Khi ấy tôi mười bảy tuổi.

Hôm đó nắng trời cũng trong trẻo rạng rỡ như hôm nay. Bầu trời như một tấm gương màu lam nhạt, từng cụm mây trắng nhẹ mỏng như sợi vải bông đan thành một tấm lưới giữa không trung. Trong làn gió mơn man có hương hoa đào vừa chớm nở, hít sâu vào một hơi, hình như ngay cả đáy lòng cũng thấm hương hoa.

Hôm đó vốn là một ngày rất buồn tẻ. Cha vì chuyện thánh thượng đến phương nam tuần tra mà mỗi sớm đều phải chầu chực ở nha môn của tri phủ Tô Châu. Ở trong phủ chỉ có mình tôi giúp mẹ làm việc thêu thùa, mẹ đang thêu một cặp hình “Loan Phượng tề phi”, còn thiếu một đôi mắt nữa là thêu xong. Mẹ cười nói: “Chờ khi thêu xong đôi mắt này, mẹ sẽ may thành cái bọc chăn cho Ly nhi của mẹ để dành làm đồ cưới.”

Tôi ngơ ngơ ngác ngác, chợt nhớ đến ánh mắt của biểu ca, tim tôi “nảy bật” lên rồi lại cảm thấy ấm áp ngọt ngào, sắc mặt như rặng mây hồng bay ngang trời.

Bỗng nhiên nhị phu nhân đi tới, gương mặt đầy vẻ tươi cười nói: “Mời cô hai đi ra ngoài một chuyến. Lão gia mời cô qua nha môn của tri phủ đó.”

Tôi nghi ngờ mà ngẩng đầu lên, hỏi: “Phiền dì cho con hỏi, cha bảo con qua đó làm gì?”

Mẹ cũng có chút lo sợ: “Nha môn của tri phủ là nơi đàn ông tiếp…”

Nhị phu nhân cười nói: “Em ba và cô Ly lo lắng việc gì chứ? Lão gia nói con gái của những quan lớn ở các châu phủ đều đang tụ họp ở sân sau nha môn của tri phủ, con gái nhà chúng ta muốn không đi cũng không được. À đúng rồi, bên ngoài có một chiếc kiệu đang chờ đấy.”

Mẹ nói: “Đã vậy thì nên đi sớm mới đúng chứ, sao bây giờ mới…” Song mẹ cũng bất lực, “Nếu cha đã muốn con đi, thôi con cứ đi một chuyến xem.”

Tôi nghe lời đứng dậy, nhị phu nhân lại ngăn tôi, “Đi thay một bộ đẹp vào.” Tôi khẽ gật đầu, nhị phu nhân lại mỉm cười thần bí sau lưng tôi, nói giọng rất nhỏ gần như không thể nghe thấy: “Đứa trẻ này thật có chút may mắn.”

Mẹ vịn nắm cửa, ân cần dặn dò bên tai tôi: “Mau trở về nhé.”

Lúc đó không hề biết rằng, đây là lần cuối cùng tôi nhìn thấy mẹ trên đời.

Khi đến nơi, tôi thấy sân sau nha môn của tri phủ rộng không kém gì sân nhà mình, cha lại đẩy tôi đi trò chuyện với các vị tiểu thư. Bọn họ đều cực kỳ xinh đẹp, đẹp như những đóa hoa vừa nở rộ, tươi đẹp mà căng tràn nhựa sống. Bọn họ nói chuyện với nhau rất khách khí, cũng không có người để ý đến tôi. Chỉ là tôi đặc biệt lưu ý thấy ai trong bọn họ cũng có vẻ hồi hộp. Tôi có hơi khó hiểu, bởi vì tôi từ nhỏ đã lớn lên ở quê, lại không thông thạo cầm kỳ thi họa, nên cha vẫn luôn không chịu mang tôi ra ngoài giao thiệp với các nữ quyến quý tộc, chỉ lo tôi không đủ nền nã* sẽ làm ông mất mặt.

Tôi chợt cảm thấy tự ti, muốn tìm một nơi không có ai quấy rầy, cách bọn họ thật xa.

Nắng xuân tháng tư rực rỡ như tranh vẽ, mềm mại thanh thoát như tơ tình vấn vương khắp cảnh xuân tươi đẹp. Ở một góc sân khuất sau dãy hành lang, có một cây bích đào nở đầy hoa, trên cành hoa còn có một chú chim sẻ đang hót líu lo vui vẻ.

Tôi thấy lòng mình nhẹ hẳn, liền ngắt một chiếc lá xanh biếc, ngậm trong miệng và bắt đầu thổi lên. Tôi thổi một khúc nhạc thôn dã bình thường nhất ở quê, dù cha đã từng quở mắng hành vi không hợp phép tắc này, nhưng tôi cũng không mấy quan tâm. Hiện giờ bốn phía đều yên tĩnh vắng người, tiếng thổi khèn của tôi và tiếng hót của chú chim sẻ càng thêm khoan khoái. Đây là khúc nhạc anh A Ngưu sống bên nhà dạy tôi thổi lúc nhỏ. Khi đó tôi còn nhỏ, lúc thổi bị lạc giọng hoặc thổi đến rách cả lá, anh A Ngưu sẽ nhăn hết cả mặt và nói: “Em ngốc như vậy, sau này anh làm sao cưới em về làm vợ đây.”

Vào lúc ấy, tôi thực sự cho rằng mình lớn lên là phải làm cô vợ nhỏ của anh A Ngưu. Anh cày ruộng, tôi dệt vải; anh bón phân, tôi tưới hoa; làm cơm nước trong bếp xong xuôi thì gọi anh về cùng ăn, rồi sinh năm sáu đứa con, làm một đôi vợ chồng bình thường ở thôn quê.

Anh A Ngưu có sức vóc rất cao lớn, có thể một mình làm thịt một con trâu, một ngày cấy xong mạ ở khoảnh ruộng nhà mình, còn có thể đổ đầy nước trong vắt vào cái lu nước lớn ở trước cửa nhà tôi.

Mẹ nói với tôi, “Sợ rằng cha con đã sắp quên mất hai mẹ con mình rồi, nhưng mà quay về cũng chưa chắc gả được vào nhà chồng tốt. Thay vì phải làm vợ lẽ giống mẹ, không bằng gả con cho A Ngưu, nó là đứa thật thà, sẽ luôn yêu thương chăm sóc con.”

Tôi chẳng hề thích anh A Ngưu. Nhưng mà gả cho người này cũng không có gì không tốt. Thế là, tôi cũng không nói gì nữa. Chỉ cúi đầu, thành thạo vá xong quần áo, rồi dùng răng cắn đứt chỉ.

Tôi từng hỏi mẹ, vì sao tên của tôi là “Ly Tâm”

Mẹ thở dài nặng nề như gió quét lá rụng, bà khẽ đáp: “Vì đồng tâm mà sống ly biệt, sẽ đau buồn đến cuối đời.”

Tôi khịt mũi, “Đồng tâm mà sống ly biệt đương nhiên là phải đau buồn, nhưng chính cha tùy ý thu xếp cho hai mẹ con mình ở dưới quê, mỗi tháng gửi cho chúng ta ít tiền chỉ đủ cầm cự sống thiếu trước hụt sau, người như thế, mẹ còn cho rằng ông ấy một lòng với mẹ sao?”

Từ nhỏ, tính tôi đã ngoan hiền thích yên tĩnh, rất ít khi nói chuyện gay gắt như vậy, tôi và mẹ lại nhiều năm quen sống dựa vào nhau, hơn nữa tính tôi cũng không thích nặng lời với ai.

Mẹ khóc, lời tôi nói đã đâm vào vết thương lòng của bà.

Tôi càng hoảng, cuống quít xin lỗi mẹ. Thật lâu sau, mẹ nói: “Đừng trách cha con, ông ấy cũng có cái bất đắc dĩ của mình.”

Tôi biết cái bất đắc dĩ trong lời mẹ nói là gì, cha xuất thân từ Hán quân kỳ, mà mẹ lại rành rành là huyết thống người Hán.

Vào thời ấy, người Hán luôn bị xem thường. Cho nên dù mẹ xuất thân từ dòng dõi thư hương, cũng chỉ có thể làm một người vợ lẽ thứ ba của tri huyện thất phẩm, còn chỉ vì đại phu nhân không ưa mà phải lánh đi sống ở quê.

Mẹ vuốt trán tôi, trên gương mặt gầy yếu lại tăng thêm vài phần lo lắng. Còn có một ý nghĩa nữa mà mẹ không có nói ra. Trong lòng tôi lại rõ ràng như gương sáng, bởi vì tôi là thân con gái.

Cha có nhiều con trai như vậy, nên một đứa con gái như tôi vẫn luôn bị xem nhẹ.

Tôi trầm mặc, không nói thêm lời nào nữa. Cứ thế, tính của tôi càng tiếp tục trầm tĩnh.

Mãi cho đến năm tôi mười lăm tuổi, bỗng có hai chiếc kiệu nhỏ không hề báo trước mà mang chúng tôi tới phủ đệ của tri huyện. Hóa ra, đại phu nhân đã qua đời, cha rốt cục cũng có can đảm đón chúng tôi trở về. Mẹ vừa mừng vừa buồn, nhiều năm như vậy, rốt cục bà và tôi đã có danh phận. Chỉ là danh phận này tới quá muộn, chúng tôi đã ở quê tròn mười năm. Mười năm, mẹ đã không còn là cô gái xinh đẹp da dẻ trắng mịn nữa, vẻ già cỗi của bà càng đặc biệt nổi bật khi đứng giữa các phu nhân. Càng huống chi, cha lại vừa cưới thêm dì tám. Đón tôi và mẹ về, chẳng qua là bù đắp cho sự hối tiếc năm xưa.

Lúc này, người quản lý mọi việc trong phủ là nhị phu nhân đã sinh cho cha hai người con trai, mà cha, hình như cũng không có ý nâng ai lên làm chánh thất. Tôi và mẹ, cứ tiếp tục sống yên ổn như vậy.

Tôi thổi khèn lá một mình, ánh nắng chiếu xuyên những kẽ lá tạo thành những vệt loang lổ trên đất, đây đó trên thảm cỏ xanh có dấu vết của vài con vật nhỏ. Không biết đã qua bao lâu, chú chim sẻ kia đột nhiên bay mất. Tôi hơi cụt hứng, ngẫm thấy sắc trời đã không còn sớm, cũng nên trở về rồi.

Nhưng mà trong khoảnh khắc ngoảnh đầu lại, bỗng đối diện với một đôi đồng tử trầm tĩnh như ngọc lưu ly đen, làm tôi sợ đến độ tim cũng đập lỗi mấy nhịp – đó là đôi mắt của đàn ông.

Tôi nén sợ hỏi: “Ông là ai?”

Người đó chỉ cười: “Nàng biết thổi khèn lá?”

Tôi phớt lờ câu hỏi đó, lại nói: “Nơi này là nha môn của tri phủ đại nhân, lại có nữ quyến ở đây, ông vẫn là mau đi đi, nếu bị người khác phát hiện sẽ ăn đòn đấy.”

Người đó mỉm cười: “Ta không sợ.”

Tôi không đoán được người này có lai lịch gì, đành phải hỏi thăm dò: “Ông là thân thích của tri phủ đại nhân sao?”

Người đó ngẩn ra nhìn tôi, rồi mỉm cười vui vẻ, “Cũng xem như thế.”

Người đó cũng không còn trẻ, tuổi tác độ chừng ba mươi lăm ba mươi sáu, khuôn mặt góc cạnh có chút kiên nghị, nét tươi cười nhàn nhạt mà ôn hòa, tựa như mặt trời vào đông. Khi cười miệng cong lên, có chút giống biểu ca.