Có Những Thứ Không Thể Nói Thành Lời

Chương 10: Mảnh ghép: Tình Tăng

Ngọn núi phía Đông của trấn chúng ta có một tòa miếu nhỏ, mang tên Bảo Quốc tự, xây dựng từ triều trước, hương khói rất vượng, bởi vì trụ trì bên trong là hòa thượng tới từ kinh thành.

Hòa thượng tên Tuệ Trấm, mọi người trong trấn gọi hắn là Tiểu Lạt Ma.

Bọn họ nói từ khi Tiểu Lạt Ma ba tuổi đã giảng kinh cho Thái hậu lão phật gia, năm tới miếu của chúng ta, hắn còn không đến mười tám tuổi. Nhưng không ai hiểu vì sao vị Lạt Ma bên người Thái hậu lại đến địa phương nhỏ này làm trụ trì một chùa miếu, cũng như không ai có thể nói cho ta biết, vì sao mỗi đêm trăng tròn, hắn lại ngồi trên đỉnh Đông Sơn, ngẩn người nhìn ánh trăng.

Mỗi buổi tối đó trong tháng, đi vòng qua thác nước ngoài miếu, bước lên dọc theo khe núi, lại vượt qua một con đường quanh co, nơi đó là chỗ có thể nhìn thấy hắn thật rõ ràng, nhưng sẽ không bị hắn phát hiện.

Lần đầu tiên nhìn thấy hắn như vậy, là ngẫu nhiên. Vô số lần sau, là cố ý.

Ta thấy bộ dáng tĩnh tọa dưới ánh trăng của hắn giống một vị thần, nhưng hình như hòa thượng thích người khác nói họ giống Phật hơn.

Tiểu Lạt Ma rất ưa nhìn.

Thường nghe người lớn nói, hòa thượng bảo tướng trang nghiêm*. Ta không biết thế nào là bảo tướng, cũng không hiểu cái gì là trang nghiêm, nhưng ta rất thích nhìn bóng dáng tiểu hòa thượng này ngồi dưới ánh trăng, đơn đơn bạc bạc, khinh khinh phiêu phiêu, dường như gió hơi lớn một chút sẽ bị thổi bay, thế mà hết thảy lại chìm trong một quầng ánh sáng bàng bạc mềm mại, mông lung mờ ảo như một bức tranh đẹp mắt.

Thế nên hàng tháng đều nhìn lén, mặc dù kính hắn sợ hắn, lo nếu hắn phát hiện sẽ bị đánh nhốt xuống mười tám tầng địa ngục.

Phật sinh ra có tướng mạo như hoa sen, người trần tục như chúng ta mang ánh mắt dơ bẩn, ở trước mặt hắn không thể tùy ý dùng thứ không sạch sẽ mà bôi nhọ sự thanh khiết của hắn, bằng không, đó là nghiệp chướng, là tội nghiệt phải đày xuống a ti địa ngục. Mọi người trong trấn nói như vậy.

Ta nghĩ… chỉ nhìn bóng lưng một chút mà thôi, hơn nữa mỗi ngày khi đi qua dòng suối kia, ta đều đã soi thật kỹ, ta không thấy cặp mắt của mình mang chút gì vẩn đυ.c để có thể bôi nhọ một hòa thượng.

“Thí chủ đang nhìn ánh trăng, hay nhìn hòa thượng.”

Vì thế, có một ngày, lúc hắn đột nhiên mở miệng nói ra những lời này, ta cũng không hề sợ hãi mà thốt lên: “Nhìn hòa thượng.”

Sau đêm đó, ta không gọi hắn là Lạt Ma gia nữa mà bắt đầu gọi “tiểu hòa thượng”.

Tiểu hòa thượng cho ta mấy miếng ngọc lưu ly lấp lánh.

Nếu nhìn bầu trời qua lưu ly đỏ, trời chính là màu đỏ, nếu nhìn bầu trời qua lưu ly lam, trời chính là màu lam. Khi ta cầm từng mảnh lưu ly giơ lên trời, hắn nói với ta, ở Hàng Châu có một tòa miếu, trong miếu có Tôn phật gọi là Tế Điên, nếu nhìn hắn từ bên trái, mặt hắn khóc tang, nhưng nếu nhìn hắn từ bên phải, hắn lại đang mỉm cười.

Rất nhiều chuyện cũng như thế, ngươi nhìn từ bên nào, sẽ nhìn thấy kết quả của bên đó. Cuối cùng hắn nói.

Ta nghe không hiểu lời của hắn, mặt này và mặt kia, nhưng ta rất thích nhìn thấy tia sáng ấm áp trong mắt hắn khi nói đến những thứ này, ta chưa từng nhìn thấy chúng trong ánh mắt của cha mẹ.

“Tiểu hòa thượng, ngươi thật sự là Phật tổ chuyển thế sao?” Ta hỏi hắn: “Vì sao gió trên đỉnh núi lạnh buốt, mà ngươi vừa đi lên liền ấm như nước nóng trong bồn?”

Hắn cười, xoa xoa đầu của ta: “Thấy núi là núi, thấy nước là nước. Thấy núi không phải núi, thấy nước không phải nước. Thấy núi vẫn là núi, thấy nước… vẫn là nước.”

Mười hai tuổi, ta thường đến tự giúp các hòa thượng làm đồ chay, đôi khi làm xong việc của mình, thừa dịp hắn cùng các hòa thượng đang dùng cơm chay, ta sẽ vụиɠ ŧяộʍ chạy đến thiền phòng của Tuệ Trấm nhìn kinh văn hắn chép.

Nét bút của Tuệ Trấm rất đẹp, ai đến tự xin chữ của hắn đều nói như vậy. Ta không biết chữ, nhưng lại thích chữ hắn viết. Chữ của hắn tựa như con cá trong khe núi, có vui vẻ, có an tĩnh, vừa quẫy đuôi liền trở thành một bức họa biết chuyển động. Ta miêu tả cho hắn. Hắn nghe xong liền cười, sau đó, những lúc rảnh rỗi hắn bắt đầu dạy ta học chữ.

Nhưng ta không thích học chữ.

Thường thường khi hắn viết chữ lên mảnh giấy nhỏ, ta nhìn không chớp mắt vào thư họa xinh đẹp kia, rồi vẽ thêm cái đuôi, sau đó đắc ý cho hắn xem: “Nhìn coi tiểu hòa thượng, có giống mấy cái đuôi cá ở trong hồ không? Đây là em út, đây là đèn l*иg đầu to, đây là thập tam nương tử đuôi dài…”

Hắn không biết làm sao, cuối cùng đành bỏ cuộc gõ lên cái đầu gỗ của ta: “Chúng ta dùng thập tam nương tử làm đèn l*иg đi, Hoa Dung.”

“Được được!” Sâu buồn ngủ nghe vậy liền biến mất không còn một con, ta lớn tiếng đồng ý.

Khi đó, ngày ngày trôi qua như bay, ta rảnh rỗi là chạy vào trong tự, các tiểu sa di liền trêu ghẹo ta: “Nha đầu, siêng năng đến như vậy, tương lai muốn làm ni cô ư?”

“Còn lâu!”

“Vì sao không? Làm bạn với thanh đăng cổ phật, rất tốt.”

“Ni cô không thể lấy chồng!”

“Ái chà, tiểu nha đầu muốn gả cho ai?”

“Tuệ Trấm!”

Vì thế các tiểu sa di cười vang.

Sau đó, lén lút sau lưng đại hòa thượng lão hòa thượng, các tiểu sa di vừa thấy ta liền gọi ta là vợ nhỏ của Tuệ Trấm…

Mười sáu tuổi, cha mẹ không cho phép ta thường xuyên vào chùa giúp việc nấu nướng nữa, các hòa thượng trong miếu cũng vậy.

Thói quen vài năm ra vào cửa miếu nay khó có thể thực hiện được, ngay cả nói chuyện với Tuệ Trấm cũng trở thành một việc gian nan. Hắn không như trước đây hay cười với ta, giúp ta xếp đèn l*иg, mặc ta vụиɠ ŧяộʍ chạy vào tăng phòng của hắn… Không biết từ khi nào, phòng của hắn luôn khóa, kể cả khi hắn có ở bên trong. Đôi khi chuồn êm vào chùa, nhìn xung quanh không có người, biết hắn đang ngồi chép kinh, ta đứng cạnh cửa sổ khẽ gọi: “Tiểu hòa thượng, tiểu hòa thượng…”

Bất kể ta gọi bao nhiêu lần, hắn đều mắt điếc tai ngơ, cho đến khi các tăng nhân khác bị tiếng nói quá lớn của ta dẫn đến, đưa ta ra ngoài. Có đôi khi, sau khi bị đuổi ra khỏi cửa chùa, sẽ có một tiểu sa di vội vàng chạy theo, đưa cho ta một túi nhỏ. Túi rất thơm, bên trong là điểm tâm phương Tây mà vợ bé của lão quan gia trên trấn đưa cho Tuệ Trấm khi dâng hương. Mỗi tháng mang đến một lần, mỗi lần Tuệ Trấm đều đưa cho ta mang về ăn thoải mái một mình.

Ta trả túi lại cho tiểu sa di. Ta không cần ăn điểm tâm, ta muốn gặp Tuệ Trấm.

Nhưng mặc cho ta giận dữ như thế nào, bọn họ cũng chỉ lặp đi lặp lại một câu: Trụ trì bận quá, thí chủ đừng quấy rầy, đừng trách.

Bọn họ đã quên khi bọn họ còn chảy nước mũi, đã vui vẻ gọi ta là vợ nhỏ của Tuệ Trấm như thế nào. Bọn họ cũng sắp thay đổi, giống như cha mẹ ta, giống như cửa miếu này, giống như Tuệ Trấm.

Buổi tối sinh nhật mười bảy tuổi, cuối cùng ta cũng nhìn thấy bóng dáng ngắm trăng của Tuệ Trấm từ góc ẩn nấp trên đỉnh núi, trước đó, ta cứ nghĩ hắn sẽ không đến đây nữa, bắt đầu từ hai năm trước.

Hắn lẳng lặng ngẩn người trên đài đá nhìn ánh trăng, không biết đang suy nghĩ gì.

Ánh trăng rọi bóng hắn, yên tĩnh không một tiếng động, ta đứng trong hốc núi, lấy lá cây che kín đầu, không dám phát ra động tĩnh.

Cho đến khi một trận gió cuộn lên từ phía sau ta, hắn bỗng nhiên mở miệng: “Thí chủ đang nhìn ánh trăng, hay nhìn hòa thượng.”

Ta đi ra từ nơi ẩn nấp.

Không biết vì sao, vừa đi vừa khóc, tủi thân không thể kìm nén: “Nhìn hòa thượng”, ta nói, cùng lúc khụt khịt mũi: “Nhìn hòa thượng…”

Hắn để ta gục trên vai hắn, giống như trước đây. Im lặng nghe ta khóc, không nói tiếng nào nhìn ánh trăng trên trời.

“Tiểu hòa thượng, ánh trăng rất đẹp à?” Khóc xong ta hỏi hắn.

Hắn cười, vỗ nhẹ đầu ta: “Phải, đẹp như ánh mắt của ngươi.”