Bạch Mã Khiếu Tây Phong

Chương 9

- Từ rày trở đi, ta không muốn gặp ngươi nữa.

Rầm một tiếng, nàng đã đóng sập cửa, cài chặt then lại. Tô Phổ đứng ngơ ngẩn một hồi, lủi thủi quay về, trong lòng cảm thấy hết sức hoang mang: "Ôi, con gái người Hán thật lạ lùng, chẳng hiểu sao cả?". Lẽ dĩ nhiên làm sao y biết được là Lý Văn Tú gục đầu sau cánh cửa khóc nức nở. Con bé khóc một hồi thật lâu. Cô gái vẫn muốn được cùng Tô Phổ chơi đùa, kể truyện cổ cho nhau nghe nhưng cũng biết rằng nếu như cha Tô Phổ biết được, y sẽ lại bị một trận đòn thật đau, có khi cha y đánh y chết không chừng.

*

* *

Ngày lại ngày qua đi, gió của thảo nguyên, nước băng tuyết Thiên Sơn thổi ba đứa trẻ cao vọt lên biến chúng thành người lớn. Bông hoa hội tẩu lộ càng thêm lộng lẫy, còn đứa trẻ gϊếŧ chó sói hôm nào nay đã thành một thanh niên anh tuấn. Còn con chim thiên linh của đồng cỏ ư, tiếng hát của nàng càng thêm dìu dặt ngọt ngào. Có điều bây giờ nàng ít hát hơn trước, chỉ những đêm khuya không có ai, ngồi một mình trên chiếc gò nhỏ nơi Tô Phổ gϊếŧ con chó sói năm nào nàng mới cất tiếng lên. Nàng chẳng bao giờ quên được người bạn năm xưa, vẫn thường thấy chàng cùng A Mạn hai người cùng cưỡi ngựa đi chơi, có khi còn nghe hai người đối đáp, hát chung với nhau những khúc tình ca ý tứ triền miên.

Ý nghĩ của những bài hát đó bây giờ Lý Văn Tú đã hiểu cả rồi, bây giờ lại hiềm hiểu quá nhiều là khác. Nếu nàng cứ chưa hiểu như xưa có lẽ cũng bớt đau lòng, cũng bớt đi những đêm dài trằn trọc. Thế nhưng những gì trước kia chưa biết, một khi biết rồi, không bao giờ còn thể quay trở lại những ngày thơ ngây cũ.

Một buổi chiều mùa xuân, Lý Văn Tú cưỡi con ngựa trắng, một mình lên ngọn núi nhỏ nơi con sói bị gϊếŧ. Màu vàng nhuộm trên con ngựa nay thôi hết, nay đã trở lại một màu trắng xóa chẳng khác gì tuyết trên đỉnh Thiên Sơn. Nàng đứng trên gò cao, đăm đăm nhìn về hướng những túp lều của người Cáp Tát Khắc, nơi họ đang đốt một đống lửa lớn, tiếng âm nhạc và tiếng huyên náo lúc cao, lúc trầm vọng đến. Thì ra hôm nay là một ngày lễ của người Cáp Tát Khắc, thanh niên nam nữ vây quanh đống lửa, múa hát xướng ca, thật là vui vẻ.

Lý Văn Tú nghĩ thầm: "Chàng và cô ta hôm nay hẳn là vui lắm, thật là náo nhiệt, thật là hoan hỉ". Trong lòng nàng chữ "chàng" không có người thứ hai, dĩ nhiên là Tô Phổ rồi, còn "cô ta" dĩ nhiên phải là bông hoa hội tẩu lộ kia, nàng A Mạn.

Thế nhưng hôm nay Lý Văn Tú đã đoán sai, Tô Phổ và A Mạn lúc này không hẳn đã hoan lạc mà lại cực kỳ căng thẳng. Bên cạnh đống lửa, Tô Phổ đang cùng một gã cao gầy đánh vật. Đây là một tiết mục cực kỳ quan trọng trong ngày lễ, người nào thắng giải sẽ được ba giải thưởng: một con ngựa tốt, một con cừu to và một tấm thảm thật đẹp.

Tô Phổ đã liên tiếp thắng bốn người, còn gã thanh niên cao gầy kia tên là Tang Tư Nhi. Y cũng là bạn của Tô Phổ nhưng vẫn muốn hai bên kẻ được người thua, huống chi, trong lòng y cũng ngầm yêu đóa hoa hội tẩu lộ. Khuôn mặt xinh đẹp kia, thân hình yểu điệu kia, bàn tay khéo léo kia, ai mà chẳng muốn? Tang Tư Nhi biết rằng Tô Phổ và A Mạn đã thân nhau từ nhỏ nhưng y vốn là một thanh niên bất khuất, ương ngạnh. Ở thảo nguyên ngựa ai chạy nhanh, dao ai dài người đó sẽ chiếm thượng phong. Y trong lòng cũng đã nghĩ đến: "Nếu như ta công khai đánh bại được Tô Phổ, A Mạn thể nào cũng thích ta". Y đã cố công luyện tập ba năm đánh vật và đánh dao. Sư phụ của y chẳng ai xa lạ mà chính là cha của A Mạn Xa Nhĩ Khố.

Còn võ công của Tô Phổ dĩ nhiên là cha y đích thân truyền cho.

Hai người thanh niên quấn quít lại một khối. Đột nhiên đầu vai Tang Tư Nhi trúng một cú đấm mạnh, chân y trượt đi ngã ngữa về sau. Thế nhưng trong khi ngã, y cũng kịp khoèo chân Tô Phổ khiến y cũng ngã theo. Hai người cùng nhỏm dậy, hai cặp mắt gườm gườm nhìn nhau, đảo qua đảo lại để tìm sơ hở của đối phương nhưng không ai dám ra tay trước.

Tô Lỗ Khắc ngồi ở một bên xem, lòng bàn tay đẫm mồ hôi, kêu luôn mồm:

- Tiếc quá, tiếc quá.

Còn Xa Nhĩ Khố thì bụng dạ ra sao khó mà đoán biết. Y biết tâm ý con gái mình, nếu như Tang Tư Nhi thua, thì A Mạn đã yêu Tô Phổ sẽ lại càng yêu hơn. Thế nhưng Tang Tư Nhi là đồ đệ của y, trận đấu này cũng chẳng khác gì chính y đấu với Cáp Tát Khắc đệ nhất dũng sĩ Tô Lỗ Khắc. Nếu đồ đệ của Xa Nhĩ Khố đánh bại con trai Tô Lỗ Khắc thì thật là vẻ vang hơn, chiến thắng này sẽ truyền ra đến mấy nghìn dặm chung quanh thảo nguyên. Dĩ nhiên A Mạn sẽ đau khổ lắm, nhưng đành kệ nó. Y vẫn mong Tang Tư Nhi thắng trận. Nhưng Tô Phổ là đứa ngoan, y vẫn thương nó như thường.

Những người ngồi quanh đống lửa hò hét cổ võ cho hai chàng thanh niên. Đây là một trận đấu hai bên ngang ngửa, Tô Phổ thân thể tráng kiện có sức, còn Tang Tư Nhi thì lại nhanh nhẹn hơn, ai sẽ thắng thật khó mà biết trước được.

Chỉ thấy Tang Tư Nhi né bên đông, tránh bên tây, Tô Phổ mấy lần đưa tay chộp y nhưng y đều tránh được. Tiếng người bên ngoài hò hét trợ uy mỗi lúc một to: "Tô Phổ, nhanh lên, nhanh lên" "Tang Tư Nhi, phản công đi, đừng tránh né qua lại nữa" "Ối chao, Tô Phổ vật được rồi" "Không sao đâu, dùng sức lật y lại".

Thanh âm truyền ra thật xa, Lý Văn Tú nghe loáng thoáng có người hò reo: "Tô Phổ, Tô Phổ". Nàng lấy làm lạ: "Sao mọi người lại kêu lên Tô Phổ, Tô Phổ là sao?". Nàng bèn giục ngựa, chạy về phía có tiếng hò reo. Đứng sau một cây to, nàng thấy Tô Phổ đang vật nhau với Tang Tư Nhi, những người chung quanh đang hào hứng kêu la. Đột nhiên, nàng thấy bên ánh lửa khuôn mặt của A Mạn, đầy vẻ quan thiết và phấn khởi, nước mắt rưng rưng, lúc lo, lúc mừng. Lý Văn Tú từ trước tới nay chưa hề nhìn kỹ A Mạn bao giờ, nghĩ thầm: "Thì ra nàng ta yêu Tô Phổ đến thế".

Mọi người bỗng lớn tiếng hò reo, cả Tô Phổ lẫn Tang Tư Nhi đều cùng ngã lăn ra đất. Đứng cách vòng người, Lý Văn Tú không nhìn được hai người dưới đất tình hình ra sao. Thế nhưng nghe tiếng người kêu la, nàng biết rằng Tô Phổ đang đè Tang Tư Nhi xuống. Lòng bàn tay Lý Văn Tú cũng ướt mồ hôi, chính vì không nhìn rõ hai người nên nàng lại càng hồi hộp. Đột nhiên tiếng reo hò mọi người ngưng bặt, Lý Văn Tú nghe được cả tiếng thở hổn hển của hai dũng sĩ. Chỉ thấy một người lảo đảo đứng lên, mọi người lớn tiếng hoan hô: "Tô Phổ, Tô Phổ".

A Mạn vượt vòng người chạy vào trong nắm tay người tình. Lý Văn Tú thấy trong lòng cũng thật cao hứng, nhưng cũng thật thê lương. Nàng quay đầu ngựa, chầm chậm bước đi. Mọi người bận vây quanh Tô Phổ, chẳng ai để ý đến nàng.

Nàng không điều cương, để mặc cho con bạch mã muốn đi đâu thì đi trong sa mạc. Không biết bao lâu nàng mới thấy rằng con ngựa trắng đã đi tới tận bên bờ thảo nguyên, xa hơn nữa sẽ tiến vào sa mạc Qua Bích[4]. Nàng nhỏ nhẹ mắng nó:

- Ngươi đưa ta tới đây làm gì?

Ngay khi đó, trên sa mạc xuất hiện hai con ngựa, sau đó lại thêm hai con nữa. Dưới ánh trăng thấp thoáng, những người trên lưng ngựa đều mặc y phục Hán nhân, tay người nào cũng cầm trường đao.

Lý Văn Tú kinh hoảng: "Chẳng lẽ đây là bọn cướp người Hán?". Còn đang ngập ngừng, một người đã kêu lên:

- Bạch mã, bạch mã.

Y giục ngựa xông tới, miệng quát tháo:

- Đứng lại, đứng lại.

Lý Văn Tú kêu lên:

- Chạy mau.

Nàng giục ngựa chạy ngược trở về, chỉ thấy tiếng chân ngựa thật gấp, đằng trước cũng có hai con ngựa chạy ra chặn lại. Lúc đó ba mặt đông nam bắc đều có địch nhân, nàng không còn kịp suy nghĩ chỉ giục ngựa theo hướng tây chạy gấp. Thế nhưng hướng tây chính là hướng đại sa mạc Qua Bích.

Khi còn nhỏ nàng đã từng nghe Tô Phổ nói tới, trong sa mạc Qua Bích có quỉ, ai đã vào trong sa mạc này thì khó mà sống sót trở về. Không, dù có thành quỉ cũng không ra được. Ai đã vào trong sa mạc Qua Bích rồi, sẽ đi thành một vòng tròn lớn, trong sa mạc cứ đi mãi không ngừng, đến khi đột nhiên thấy trên sa mạc có dấu chân. Người ta sẽ vui mừng tưởng mình cứ theo dấu chân đó tìm được đường ra, nhưng chạy một lúc rồi mới phát giác, dấu chân đó chính mình để lại. Người ta sẽ đi qua đi lại loanh quanh trong cái vòng đó. Thành ra những ai chết trong sa mạc Qua Bích biến thành quỉ cũng không xong, không lên được thiên đàng mà cứ luẩn quẩn nơi đây, nghìn năm vạn năm, suốt ngày suốt đêm chạy loanh quanh không ngừng.