Chuyện Xứ Lang Biang 4: Báu Vật Ở Lâu Đài K'rahlan

Chương 10

Mồ hôi mồ kê nhễ nhại, bọn Kăply vừa trờ tới trước cửa tiệm Bay Lên Nào đã thấy Bolobala và Păng Ting đợi sẵn ở đó.

Bộ tịch xốc xếch của tụi bạn khiến Bolobala tròn xoe mắt:

- Chuyện gì thế?

- À, không có gì. – K’Tub cười khì khì, tính trêu Êmê một câu nhưng thấy mặt bà chị đang nhảy loạn xạ từ xanh qua đỏ rồi từ đỏ qua xanh, nó rụt cổ nín thinh, biết rằng hành động khôn ngoan nhất trong lúc này là dán chặt miệng mình lại.

- Em không rủ Suku đi à, K’Tub? – Păng Ting hỏi, mắt nhìn chằm chằm vào túi áo của K’Tub, vẻ dò xét.

- Em bỏ quên chiếc ống Siêu cảm ứng trong chiếc áo chùng rồi. – K’Tub gãi đầu, và nhăn nhó nói thêm. – Hơn nữa thằng Suku dạo này bận rộn lắm. Có rủ chưa chắc nó đã đi.

- Nó làm gì mà bận thế? – Bolobala hỏi.

- Em cũng chẳng biết nữa. – Kăply phân vân đáp. – Hình như nó đang rắp tâm theo dõi con Chacha. Nó nghi con khỉ nhà nó đem về cả đống táo vàng chứ không chỉ ba quả.

Cả bọn vừa đi vừa trò chuyện, chẳng mấy chốc đã tới đường Ma Ya. Đường Ma Ya cắt ngang đại lộ Brabun, cách con đường nhỏ dẫn vô nhà thằng Tam khoảng nửa cây số, hai bên cây cối um tùm, Kăply để ý thấy toàn loại cây lạ, lá tròn như mặt trăng với những bông hoa to như quả bí ở làng Ke.

- Nhà bạn ở đường này à, Bolobala? – Nguyên hỏi.

- Ờ. Nhưng ở tận cuối đường, còn phải đi xa lắm. – Bolobala gật đầu, đang nói nó vùng chỉ tay vào con hẻm nhỏ bên tay phải. – Đây là hẻm Râu Ngô. Tụi mình vô nấp đi.

Hẻm Râu Ngô nhưng không có cây bắp nào, Kăply nhìn quanh, ngạc nhiên vì phát hiện lạ lùng đó, nhưng rồi nó đoán có lẽ địa danh này đã có từ thời xa xưa. Hồi trước có lẽ ở đây là cánh đồng bắp, Kăply nghĩ bụng và giậm giậm chân lên miếng đất dẻo bên vệ đường rồi ngồi thụp xuống sau lùm cỏ rậm lá nhọn như lá mía quẹt vô má rát rạt.

Ở bên cạnh, tụi Êmê cũng đã giấu người trong cỏ, và đứa nào đứa nấy rụt lại, hoang mang và sợ sệt, tóm lại không giống chút nào với hình ảnh của người đi săn đang rình mồi.

Cả bọn ngồi lâu thật lâu nhưng chẳng có gì đáng chú ý hết. Cũng có dăm bảy người ra vô con hẻm nhưng người đàn ông mà Bolobala mô tả hổng thấy đâu. Trong khi đó trời càng lúc càng hầm hập, cây cối thì nhiều nhưng cành lá như mơ ngủ, chẳng có lấy một chút gió. Kăply quẹt mồ hôi trên trán, quay sang Bolobala, ánh mắt nó nhìn nhỏ bạn trông rất giống với cái cách nó nhìn một đứa ba xạo hết chỗ nói.

- Kiên nhẫn chút đi, K’Brêt. – Bolobala thì thầm, không cần phải thông thái nó mới biết Kăply đang nghĩ gì trong đầu và điều đó khiến nó cảm thấy bị xúc phạm. – Hôm qua chính mắt tôi thấy ông ta đi ra từ con hẻm này.

Nguyên ngồi cạnh, nghe những gì Bolobala nói một cách hững hờ. Ngồi rình thủ phạm nhưng từ nãy đến giờ hình ảnh lão Ôkô Na đang choán hết tâm trí nó. Không hiểu sao cho đến lúc này nó vẫn cảm thấy lão Ôkô Na là đáng nghi nhất. Nó không tin người đàn ông mà Bolobala trông thấy là tên “mông tặc”. Nó không tìm thấy lý do gì để thủ phạm phải khoe ra những chiếc đinh hắn thường dùng để gây án giữa ban ngày ban mặt như thế nếu hắn không vừa bị chó dại đớp cho một phát.

Nguyên nghĩ và nghĩ, chốc chốc lại thò tay dứt tóc nếu chẳng may ý nghĩ trong đầu bị rối ở một chỗ nào đó, rồi lại bứt chiếc lá nhọn đang quẹt vào chóp mũi, vò vò trong những ngón tay, mắt vẫn nhìn lom lom qua kẽ lá.

Lâu thật lâu, chẳng thấy gì khả nghi, đầu óc Nguyên có vẻ sắp sửa lãng đi thì Bolobala bật rên khẽ một tiếng trong cổ họng khiến nó lập tức tỉnh như sáo:

- Ổng kìa!

Đúng là người đàn ông đó, như Bolobala mô tả: Tóc lún phún trên chiếc đầu húi trọc, khi ông tới gần Nguyên ngạc nhiên thấy mặt ông đỏ gay như người say, mà có lẽ ông say thật cũng nên vì khi ông đi ngang nó nghe bốc vào mũi mùi gì nồng nặc cứ như thể đang lượn qua trước mặt tụi nó là một hũ rượu mở nắp. Mỗi tay ông cầm một chiếc đinh dài, cứ đi một đoạn ông lại dang tay gõ mạnh hai cây đinh vào nhau, trông như thể thầy pháp đang làm phép. Những âm thanh leng keng phát ra từ hai chiếc đinh không vang xa lắm nhưng đủ khiến những người đi đường ngoảnh cổ nhìn và cứ mỗi lần như vậy ông lại đập hai cây đinh vào nhau mạnh hơn nữa như để gây sự chú ý.

Bọn trẻ chăm chú dõi mắt vào người đàn ông quái dị, nghĩ là ông bị điên và khi ông lướt ngang qua trước chỗ tụi nó nấp thì mắt đứa nào đứa nấy trợn ngược lên như thể thấy ma.

Rõ ràng trên chiếc đầu nhẵn thín của ông đang chạy dài một hàng chữ kẻ bằng thứ gì đó đỏ lòm ngó giống như là máu. Nhưng sự kiện đó không làm bọn Kăply đứng tim bằng nội dung của những hàng chữ đang phơi ra lồ lộ trên đầu ông:

NGÀY TẬN THẾ SẮP ĐẾN

NGÀI SẮP QUAY LẠI

TẤT CẢ CHỈ LÀ BẮT ĐẦU

- Cái gì thế nhỉ? – K’Tub run run hỏi, phải vất vả lắm nó mới nặn được bốn từ ngắn ngủn vào tai Păng Ting.

- Chắc chắn đây là thông điệp của Bastu. – Păng Ting thì thào đáp, giọng nhỏ xíu như phát ra đằng mũi.

K’Tub gào lên trong cổ họng:

- Nhưng người đàn ông này là ai?

- Dĩ nhiên hắn là tay chân của phe Hắc Ám. – Êmê nói, giọng thiểu não như thể đang đọc điếu văn cho xứ Lang Biang. – Cũng có thể hắn là một hóa thân khác của Balibia hoặc Buriăk.

Bọn trẻ sửng sốt chìa những bộ mặt trắng bệch vào mắt nhau, gần như không đứa nào tin được trùm Hắc Ám lại cả gan đến vậy và khi không thể không tin thì tụi nó cảm thấy lo lắng khủng khϊếp. Hổng lẽ trùm Bastu đã bắt tay với lão Ôkô Na? Nguyên tự hỏi và thấy ruột gan như có ai xoắn lấy. Nó không muốn đẩy sự phỏng đoán của mình đi quá xa nhưng vẫn không làm sao ngăn được ý nghĩ rằng chính Ôkô Na đã tích cực dọn đường cho Bastu quay lại bằng cách nhen lên không khí hoảng loạn mấy ngày nay. Và chỉ khi được lão quái Ôkô Na trợ lực, Bastu mới dám ngang nhiên cho thuộc hạ xuất hiện công khai giữa ban ngày như vậy. Nghĩ ngợi một lúc, Nguyên không tìm ra cách giải thích nào xác đáng hơn vì vậy càng nghĩ nó càng cảm thấy người nó như bị tiêm thuốc mê, đầu óc chìm dần vào chỗ tối tăm, mụ mị.

Nguyên chỉ choàng tỉnh thì Kăply kéo tay nó:

- Hắn đi xa rồi. Đuổi theo đi!

Nhưng bọn trẻ vừa nhỏm người dậy đã vội ngồi thụp ngay xuống. Cả đống phù thủy đeo huy hiệu của Cục an ninh trước ngực đang lướt vèo vèo qua trước mắt tụi nó.

Dẫn đầu đám này, như thường lệ là chòm râu của thám tử Eakar.
Chương 4: Bảy miếng da dê
Lâu đài Sêrôpôk được xây dựng từ bảy trăm năm trước, là một công trình kỳ vĩ và kiên cố, từ xa trông như một tòa thành lớn với những tháp canh lố nhố giữa trời xanh. Các bức vách ngoài cùng của lâu đài đều dày trên năm mét, có cổng lớn cho xe ngựa ra vô mặc dù tất cả phù thủy ở đây không ai dùng tới phương tiện di chuyển cổ xưa này. Cũng như mọi phù thủy ở xứ Lang Biang, đám thuộc hạ của Ama Êban vẫn khoái trò độn thổ hơn, vừa nhanh vừa kín đáo. Xe ngựa có lẽ là loại phương tiện có từ thời các giáo chủ đời trước và chắc là bắt chước thói quen của các phù thủy đến từ xứ Mũi Lõ.

Hồi mới xây lên, lâu đài Sêrôpôk chắc cũng không giống một thành lũy đến vậy. Có lẽ sau nhiều lần bị phe Hắc Ám tập kích, giáo phái Madagui đã tự bảo vệ bằng cách dần dần biến thánh địa của mình thành một pháo đài thứ thiệt với vô số đài quan sát và chắc nụi là họ đã ếm đủ thứ bùa như bùa Bất khả xâm phạm, bùa Khùng và hàng trăm thứ bùa ác liệt khác.

Muốn đến chỗ giáo chủ Ama Êban phải đi qua ít nhất là mười lăm lớp cửa, giải ít nhất mười lăm loại bùa ếm khác nhau, đó là nói lối đi ngắn nhất và với điều kiện kẻ đột nhập không bị bất tỉnh hay bị tan xác dọc đường. Nếu không chết, kẻ đó mới lọt qua được cánh cửa đá cuối cùng chạm trổ vô số mãnh hổ ở nhiều tư thế khác nhau, đặc biệt là trông sinh động như một bầy cọp sống.