GIỚI THIỆU
Tam quốc chí là một sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại Tam Quốc của Trung Quốc từ n ăm 189 đến năm 280, do Trần Thọ biên soạn vào thế kỉ thứ 3. Tác phẩm này hình thành từ các mẩu chuyện nhỏ kể về các nước Ngụy, Thục và Ngô của thời đại này, đồng thời là nền tảng cho cuốn tiểu thuyết lịch sử rất phổ biến là Tam quốc diễn nghĩa được viết vào thế kỉ 14.Trần Thọ từng làm quan cho nhà Thục Hán, sau khi Thục Hán diệt vong đến Lạc Dương làm quan cho nhà Tây Tấn. Trần Thọ đã dựa vào các sử liệu cơ bản như Ngụy thư của Vương Thẩm, Ngụy lược của Ngư Hoạn, Ngô thư của Vi Chiêu... để viết Tam quốc chí, thuật lại lịch sử Trung Quốc từ khởi nghĩa Khăn Vàng vào cuối thời Đông Hán đến khi Tây Tấn thống nhất Trung Quốc, tức từ năm Trung Bình thứ nhất đời Hán Linh Đế (184) đến năm Thái Khang thứ nhất đời Tấn Vũ Đế (280). Tam quốc chí được chia làm 4 phần gồm 66 quyển: Ngụy quốc chí 30 quyển, Thục quốc chí 15 quyển, Ngô quốc chí 20 quyển, ngoài ra còn có 1 quyển Tự lục (lời tựa) nhưng đến nay đã bị thất truyền. Lúc đầu ba tác phẩm Ngụy chí, Thục chí và Ngô chí tồn tại riêng rẽ, đến năm Hàm Bình thứ 6 thời Bắc Tống (1003) hợp nhất đổi tên thành Tam quốc chí.
Trần Thọ là quan nhà Tấn, do đó phải lấy triều đại đã nhường ngôi cho Tấn là Tào Ngụy làm chính thống.
Ngụy chí xếp các Hoàng đế nhà Ngụy vào bản kỷ, Tào Tháo tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi Hoàng đế nhưng cũng được xếp vào bản kỷ. Có 4 quyển bản kỷ là Vũ Đế kỷ (Tào Tháo), Văn Đế kỷ (Tào Phi), Minh Đế kỷ (Tào Duệ) và Tam Thiếu Đế kỷ (Tào Phương, Tào Mao và Tào Hoán). Các văn thư nói về việc các vua Ngụy xưng vương, xưng đế, trị nước và việc tang đều không chép (ngoại trừ chiếu nhường ngôi của Hán Hiến Đế - Hán Hiến Đế thiện nhượng sách văn, các văn thư khác chỉ do Bùi Tùng Chi chú thích).
Thục chí xếp Lưu Bị vào liệt truyện tức Tiên chủ truyện (mặc dù Lưu Bị xưng đế), không gọi trực tiếp tên húy, khi chết dùng chữ băng ngang địa vị với chữ tồ. Các văn thư nói về việc Lưu Bị xưng vương, xưng đế, trị nước và việc tang đều chép đầy đủ (có thể do tình lưu luyến với cố quốc). Hoàng đế thứ hai nhà Thục Hán là Lưu Thiện được xếp vào Hậu chủ truyện.
Ngô chí trong nguyên bản gọi thẳng tên húy các vua Đông Ngô như Tôn Quyền truyện, Tôn Lượng Tôn Hưu Tôn Hạo truyện; cách gọi hiện nay Ngô chủ truyện, Tam tự chủ truyện là do người đời sau sửa lại. Trong phần Ngô chủ truyện có chép Nam giao tức Hoàng đế vị nói về việc Tôn Quyền tuyên bố xưng đế, còn văn thư đăng đàn tế cáo trời đất thì không chép, chỉ có trong phần chú thích của Bùi Tùng Chi.
Đồng thời để tôn trọng sự thống trị của nhà Tấn, Tam quốc chí không viết liệt truyện về các nhân vật Tư Mã Ý, Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu (do được Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm truy đặt thụy hiệu). Ngoài ra, tác giả cũng lược bỏ nguyên nhân Tào Tháo xử tử nhân vật Khổng Dung.
Vào thời Đông Hán, sử học tiếp nhận ảnh hưởng từ trào lưu đơn giản hóa của kinh học nên xuất hiện trào lưu giản lược hóa các tài liệu lịch sử. Trong bối cảnh đó, đã xuất hiện Tam quốc chí của Trần Thọ với nội dung giản lược về thời đại Tam quốc. Sau khi Trần Thọ mất hơn trăm năm, nhiều sử liệu về thời Tam quốc xuất hiện, Tống Văn Đế thời Nam-Bắc triều thấy nội dung của Tam quốc chí quá sơ lược nên đã ra lệnh cho Bùi Tùng Chi chú thích. Bùi Tùng Chi đã tập hợp các sử liệu để bổ sung các phần mà Tam quốc chí không chép hoặc chép thiếu bằng 6 phương pháp:
1. Dẫn lời bàn luận của nhiều tác gia khác nhau để phân định phải trái.
2. Tham khảo ý kiến của nhiều tác gia khác nhau để xét chân giả, thực hư.
3. Sự việc trong các truyện đều kể rõ mọi đầu đuôi, uẩn khúc.
4. Bổ sung các sự việc còn thiếu cho các truyện.
5. Kể rõ cuộc đời của các nhân vật trong các truyện.
6. Phụ thêm các nhân vật còn thiếu cho các truyện.
Theo thống kê của một số học giả, thì số tư liệu mà Bùi Tùng Chi dùng để chú giải Tam quốc chí là khoảng 240 loại, gấp 3 lần so với nguyên bản Tam quốc chí. Mã Niệm Tổ trong tác phẩm Thủy kinh chú đẳng bát chủng cổ tịch dẫn dụng thư mục vị biên cho rằng số tư liệu mà Bùi Tùng Chi sử dụng là 203 loại. Hiện nay, theo thống kê bản hiệu đính Tam quốc chí tại Trung Hoa thư cục đã phát hiện phần chính văn của Trần Thọ có 366657 chữ và phần chú thích của Bùi Tùng Chi có 320799 chữ. Tống Văn Đế đương thời gọi công việc chú thích của Bùi Tùng Chi là "bất hủ". Các sử gia đời sau như Tư Mã Quang (thời Bắc Tống) khi biên soạn Tư trị thông giám đã tổng hợp các truyện ký trong Tam quốc chí của Trần Thọ và phần chú thích của Bùi Tùng Chi để miêu tả trận chiến Xích Bích.
Bản Tam quốc chí do Bùi Tùng Chi chú thích là bản thông dụng nhất hiện nay, còn gọi là
Trần chí, Bùi chú .
Không thể phủ nhận được rằng, những sự kiện lịch sử thời Tam Quốc cùng với các nhân vật của nó trở nên sống động, lưu truyền rộng rãi và có ảnh hưởng sâu đậm ở khu vực châu Á một phần là nhờ ở bộ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Tuy nhiên cũng phải công nhận là thời đại Tam Quốc với những biến cố long trời lở đất giống như một cái bản lề, xoay chuyển xã hội Trung Quốc từ thịnh trị của đời Hán sang hỗn loạn của những Bát vương chi loạn, Ngũ Hồ loạn Hoa, Thập Lục quốc. Rất nhiều nguyên nhân của cả thịnh trị lẫn loạn lạc này để lại dấu vết trong thời đại Tam Quốc và được ghi lại trong Tam Quốc chí chú. Như vậy có thể nói Tam Quốc chí chú là một sử liệu hiếm hoi có cả sức cuốn hút lẫn giá trị khảo cứu cao.
DANH SÁCH CÁC TRUYỆN CỦA TAM QUỐC CHÍ
NGỤY THƯ1. Vũ Đế kỷ: Tào Tháo.
2. Văn Đế kỷ: Tào Phi.
3. Minh Đế kỷ: Tào Duệ.
4. Tam Thiếu Đế kỷ: Tào Phương, Tào Mao, Tào Hoán.
5. Hậu phi truyện: Vũ Tuyên Biện Hoàng hậu, Văn Chiêu Chân Hoàng hậu, Văn Đức Quách Hoàng
hậu, Minh Điệu Mao Hoàng hậu, Minh Nguyên Quách Hoàng hậu.
6. Đổng nhị Viên Lưu truyện: Đổng Trác, Lý Thôi, Quách Dĩ, Viên Thiệu, Viên Thuật, Lưu Biểu.
7. Lã Bố(Trương Mạc, Trần Đăng), Tang Hồng truyện: Lã Bố, (Trương Mạc, Trần Đăng) Tang Hồng.
8. Nhị Công Tôn Đào tứ Trương truyện: Công Tôn Toản, Đào Khiêm, Trương Dương, Công Tôn Độ, Trương Yên, Trương Tú, Trương Lỗ.
9. Chư Hạ Hầu Tào truyện: Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, Tào Nhân, Tào Hồng, Tào Hưu, Tào Chân, Hạ Hầu Thượng.
10. Tuân Úc Tuân Du Giả Hủ truyện: Tuân Úc, Tuân Du, Giả Hủ.
11. Viên Trương Lương Quốc Điền Vương Bỉnh Quản truyện: Viên Hoán, Trương Phạm, Trương Thừa, Lương Mậu, Quốc Uyên, Điền Trù, Vương Tu, Bỉnh Nguyên, Quản Ninh.
12. Thôi Mao Từ Hà Hình Bảo Tư Mã truyện: Thôi Diễm, Mao Giới, Từ Dịch, Hà Quỳ, Hình Ngung, Bảo Huân, Tư Mã Chi.
13. Chung Do Hoa Hâm Vương Lãng truyện: Chung Do, Hoa Hâm, Vương Lãng.
14. Trình Quách Đổng Lưu Tưởng Lưu truyện: Trình Dục, Quách Gia, Đổng Chiêu, Lưu Diệp, Tưởng Tế, Lưu Phóng.
15. Lưu Tư Mã Lương Trương Ôn Giả truyện: Lưu Phức, Tư Mã Lãng, Lương Tập, Trương Ký, Ôn Khôi, Giả Quỳ.
16. Nhâm Tô Đỗ Trịnh Thương truyện: Nhâm Tuấn, Tô Tắc, Đỗ Kỳ, Trịnh Hồn, Thương Từ.
17. Trương Nhạc Vu Trương Từ truyện: Trương Liêu, Nhạc Tiến, Vu Cấm, Trương Cáp, Từ Hoảng.
18. Nhị Lý Tang Văn Lã Hứa Điển nhị Bàng Diêm truyện: Lý Điển, Lý Thông, Tang Bá, Tôn Quan, Văn Sính, Lã Kiền, Hứa Chử, Điển Vi, Bàng Đức, Bàng Dục, Diêm Ôn.
19. Nhâm Thành Trần Tiêu Vương truyện: Tào Chương, Tào Thực, Tào Hùng.
20. Vũ Văn thế Vương Công truyện: Tào Ngang, Tào Thước, Tào Xung, Tào Cứ, Tào Vũ, Tào Lâm, Tào Cổn, Tào Huyền, Tào Tuấn, Tào Củ, Tào Cán, Tào Thượng, Tào Bưu, Tào Cần, Tào Thừa, Tào Chỉnh, Tào Kinh, Tào Quân, Tào Cấc, Tào Huy, Tào Mậu, Tào Hiệp, Tào Nhuy, Tào Giám, Tào Lâm, Tào Lễ, Tào Ung, Tào Cống, Tào Nghiễm.
21. Vương Vệ nhị Lưu Phó truyện: Vương Xán, Vệ Ký, Lưu Dị, Lưu Thiệu, Phó Hỗ.
22. Hoàn nhị Trần Từ Vệ Lư truyện: Hoàn Giai, Trần Quần, Trần Thái, Từ Tuyên, Vệ Trăn, Lư Dục.
23. Hòa Thường Dương Đỗ Triệu Bùi truyện: Hòa Hợp, Thường Lâm, Dương Tuấn, Đỗ Tập, Triệu Nghiễm, Bùi Tiềm.