Lịch sử sông Tô lịch
Sông Tô Lịch tương truyền lấy từ tên một vị thần sống vào thời nhà Tấn đô hộ xứ Giao Chỉ. Đến thời nhà Đường, nơi đây là vị trí xây dựng thành Đại La. Đây cũng là nơi hợp thủy của 3 con sông, nổi tiếng với nhiều lời đồn trấn yểm của người Tàu và hàng trăm câu chuyện kỳ bí xung quanh.
Sông Tô Lịch là một sông cổ của tứ giác nước Thăng Long, vốn từng là một phân lưu của sông Hồng, đưa nước từ thượng lưu ở sông Hồng sang sông Nhuệ. Đến đoạn trung lưu, nó gặp hồ Tây (là dấu tích của đoạn sông Hồng cũ, nằm cạnh Quán Thánh) và một phần nước từ hồ Tây được cung cấp cho đoạn sông từ đó đến hạ lưu. Tuy nhiên tới nay đoạn sông từ Cầu Gỗ đến Bưởi, nay đã bị lấp, chỉ còn lại một vài dấu tích như ở Thụy Khuê (nằm ở mặt sau của tòa chung cư Golden West Lake và một khu dân cư nhỏ ở gần chợ Tam Đa). Do đó, Tô Lịch không còn thông với sông Hồng nữa.
Ngày trước, hai bên bờ sông buôn bán tấp nập. Từ khi bị lấp, sông chỉ là một dòng thoát nước thải của thành phố, bị ô nhiễm nặng. Từ cuối những năm 1990, Tô Lịch bắt đầu được nạo vét đáy sông, kè bờ, để làm sách và chống lấn chiếm.
Trận yểm cổ xưa
Bắt đầu vào tháng 06 năm 2001 Công ty liên doanh xây dựng VIC trúng thầu gói thầu 07 dự án cải tạo hệ thống thóat nước Hà nội (CPTA).Công việc cụ thể là nạo vét và kè đá bờ sông Tô Lịch. Hàng loạt sự kiện kỳ lạ đã xảy ra...
Trước khi thi công, với tư cách chỉ huy công trường, Nguyễn Hùng Cường Đội trưởng Đội xây dựng số 12 trực tiếp chỉ huy thi công đoạn sông qua làng An Phú, phường Nghĩa Đô,Quận Cầu Giấy, ông có mời ông Phạm Ngọc Anh kỹ sư thủy lợi làm chuyên viên kỹ thuật. Ngay ngày đầu tiên đi khảo sát thực địa, ông Anh phát hiện một ngôi đền rất lớn ở bờ sông phía An Phú. Đó là ngôi đền Quán Đới có từ thời Lý. Ông Anh nói luôn: " Cậu không nên nhận thi công đoạn sông này. Nguy hiểm lắm " . Rất ân hận, tôi đã không nghe theo lời khuyên này.
Ngày 15/8/2001, ông Cường vừa làm lễ trọng đền Quán Đới, vừa cho máy xúc, máy ủi xuống bờ sông khởi công. Vừa thắp được mấy nén hương thì tự nhiên lửa trong nắm hương cứ bùng lên cháy rực, đồng thời tự nhiên ngực tôi đau buốt. Mãi mới vẩy được lửa, cắm lên bát hương thì ngoài công trường báo về có sự cố. Vái vội mấy vái, ông chạy ra.
Thì ra ngoài công trường sau khi đắp đê bơm nước ra, anh em phát hiện rất nhiều cọc gỗ lim đóng theo những hàng ngắn, bố trí rất lạ. Cũng là vô sư, vô sách, ông Cường chỉ huy cho máy nhổ cọc lên. Máy vừa nhổ được hai chiếc cọc, thì tự nhiên như có một lực gì đẩy, chiếc máy xúc từ từ trôi xuống sông, không có cách gì giữ được. Đồng thời đê ngăn nước vỡ, nước tràn vào ngập kín chiếc máy xúc. Cũng gần như cùng lúc ấy có tiếng người hét lên. Trong đống bùn mà máy xúc đã xúc lên có lẫn rất nhiều xương người, xương thú vật, rất nhiều đồ gốm, đồ sắt, đồ đồng như bát đĩa, dao, liềm, kim khâu, tiền đồng, tiền cổ.
Biết là gặp chuyện lớn, ông Cường cho dừng thi công, yêu cầu công nhân gom tất cả đồ cổ, xương người lại và báo với Bảo tàng Hà nội. Ông Phạm Kim Ngọc Giám đốc Bảo tàng Hà nội và nhiều nhà khoa học đã đến hiện trường thu nhặt cổ vật mang về Bảo tàng. Tối hôm đó, anh Hùng, người lái máy xúc nhổ cọc, đang khỏe mạnh vừa về đến nhà chợt lên cơn động kinh, mắt trợn, miệng sủi bọt mép,người cứ quay tròn như gà bị cắt tiết. Cả nhà anh Hùng biết có sự lạ, sắm lễ ra bờ sông vừa khóc vừa lễ. Thật sợ, lễ xong, đốt vàng mã được một nửa thì điện thoại ở nhà báo tin Hùng đã tỉnh lại.
Không biết làm cách nào, nghe bạn bè mách, ông Cường phóng xe đi Hải Phòng mời một thầy pháp nổi tiếng về trừ tà. Vừa nói chuyện với thầy, tự nhiên thầy trừng mắt : " Này, chỗ ấy âm khí nặng nề, sức tôi không trừ được " Nằn nì mãi thầy mới đi về Hà nội mà cũng chỉ dám làm lễ cầu an ở bờ sông và ngay đêm đó về Hải Phòng.
Mấy ngày sau, Bảo tàng Hà nội tổ chức một hội thảo khoa học,hội tụ rất nhiều các nhà khoa học cả về sử học, bảo tàng, tâm linh. Kết luận của Giáo sư Trần Quốc Vượng được chấp nhận : đây là trận đồ bát quái yểm trấn giữ cửa thành Đại La từ thế kỷ thứ IX. Giáo sư cũng đề cập đến lực lượng âm binh tại đây và dặn tôi phải cẩn thận kẻo ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của công nhân.
Ông Cường cùng anh em công nhân thu nhặt hết tất cả xương người liệm vào tiểu và chôn ở bờ sông, hàng ngày cắt cử người hương khói. Nhưng công việc không tiến triển được. Cứ đắp đê lên, lại vỡ. Anh em công nhân ở công trường thì luôn luôn mơ thấy ma quỷ và thường gặp tai nạn lao động. Vét được chút bùn nào lên thì cũng thấy kèm theo xương người, có khi cả đầu lâu. Chúng tôi liệm hết vào tiểu đem chôn gần đó.
Những sự việc huyền bí xảy ra
Một mặt tích cực đổi mới kỹ thuật thi công, mặt khác tôi vẫn tiếp tục mời thầy cúng trừ tà giải hạn. Nhưng tất cả các thầy bắc, nam đều bất lực. Công nhân toàn nằm mơ thấy những người mặc áo the, khăn xếp đánh đuổi không cho nằm. Nhiều người đã bỏ việc không dám ở lại. Anh Thưởng quê ở Nghệ An là công nhân xây lắp ngủ ở lán công trường, đêm nào anh cũng mơ thấy một bà cụ hiện lên nắm tóc đuổi đi và nói : " Đây không phải chỗ kiếm ăn của mày, về quê mà sống". Anh Thưởng không chịu bỏ đi, còn khuyên nhiều công nhân ở lại làm. Được ba hôm thì vợ anh làm cấp dưỡng cho công nhân bị bỏng độ cấp 3 tòan thân. Sợ quá anh đưa vợ đi bệnh viện và bỏ việc luôn.
Đến tháng 11/2001, nhờ tích cực vận động tôi đã mời được thượng tọa Thích Viên Thành ở Chùa Hương về làm lễ cúng cho tôi ở hiện trường.Vừa đến hiện trường thầy đã ngồi xuống nhắm mắt niệm phật . Niệm một lúc thầy đứng lên nói :
" Đây là trận đồ trấn yểm rất nguy hiểm,vì các đệ tử thầy sẽ lập đàn tràng hóa giải ".
Sau đó thầy lập đàn tràng hóa giải ở bờ sông hóa giải trấn yểm. Lễ xong thầy Thích Viên Thành nói với mọi người :
" Mặc dù thầy đã cố hóa giải nhưng anh em phải cẩn thận, còn anh Cường thì phải chịu nhiều hậu quả, gia đình, anh em, con cháu cũng gặp họa". Rồi buồn buồn thầy nói : " Vì cái đàn tràng này tính mạng thầy cũng khó giữ ".
Ba tháng sau thầy Thích Viên Thành hóa. Các đệ tử nói trước khi thầy mất thầy còn nói thầy mất vì trận đồ trấn yểm ở sông Tô Lịch.
Nhưng công việc cũng không tiến triển được. Đê đắp lên là vỡ, kè thép không vỡ thì nước xối từ dưới lên. Đặt đá xuống thì đá chìm nghỉm. Để kiểm tra địa tầng tìm biện pháp thi công mới, tôi thuê một dàn khoan thăm dò đến khoan mấy mũi. Lạ thay cứ hạ mũi khoan xuống một đoạn là mũi khoan gãy. Ba lần như vậy họ lẳng lặng tháo dàn khoan đi mất, không cần đòi tiền. Công nhân thì vẫn hoang mang vô cùng. Anh Hoàn quê ở Ninh Bình làm đốc công, có hôm vừa dẫm chân lên đầu cột gỗ thì ở quê nhắn lên bố anh ốm thập tử nhất sinh phải cấp cứu. Anh Nguyễn Văn Nông, thủ kho là người tích cực trong việc thu lượm các hài cốt và di vật thì mẹ bị tai biến mạch máu não. Sau khi thầy Thích Viên Thành làm lễ hóa giải yểm trừ, anh Trần Văn Lợi người Bắc Giang xông xáo nhất nhảy xuống lòng sông vét bùn, vừa lên bờ tắm rửa xong thì nghe tin nhà ở quê bị cháy rụi, một đứa cháu rất thân với anh đột ngột chết.
Các công nhân sợ hãi nghỉ việc cả. Chiều chiều đứng bên bờ sông hoang vắng lòng ông Cường bỗng chua xót. Ông có tội gì đâu mà thánh thần hại ông đến nỗi này.
Thấm thoát đã cuối năm, trời trở rét, chỉ còn mấy anh em thân thiết với ông Cường là ở lại làm. Ông Cường cho đóng cọc thép sâu tới 4m rồi làm cữ thép chắn nước. Lạ thay cứ bơm sạch nước thì cữ lại vỡ. Lúc này một số báo chí đã nói tới sự kỳ lạ xung quanh công trình sông Tô Lịch đoạn qua làng An phú này. Bảo tàng Hà nội, rồi viện tâm lý, các nhà ngoại cảm cận tâm lý đều đã tổ chức các cuộc họp tại công trình.
Kết luận cuối cùng là ... không giải thích được.
Phía các nhà sử học, khảo cổ học thì giải thích đây là di tích nằm trong quần thể chính của Tây thành Đại La (có thể là ngọ môn), nhiều người còn yêu cầu khôi phục di tích này, phía các nhà tâm linh, dịch học thì nói đây là trận đồ địa trấn yểm tà ma, không cho xâm phạm kinh thành, vì là trận đồ cho nên đã giam giữ rất nhiều ma mãnh, những bộ xương người mà tôi đào được rất có thể là xương người bị tế sống chôn lúc làm lễ trấn yểm. Cũng theo họ đội xây dựng đã động đến trận đồ, phá hủy nó, giải thoát cho nhiều tà ma nên nó ám vào làm những những người có mặt lúc đó, mặt khác thánh thần cũng oán giận việc làm của chúng tôi nên ra tay trừng phạt. Chuyện thánh thần ma quỷ không ai nhìn thấy, nhưng những sự rủi ro mà chúng tôi gánh chịu đựng thì quá đáng sợ .
Có một hôm đóng cữ mới, bơm nước cạn chuẩn bị đào để kè bờ thì phát hiện có thêm một cọc gỗ. Dùng máy xúc nhổ mãi không được, ông Cường giao nhiệm vụ cho anh Thuỷ (người Ninh Bình) xuống chặt cụt đi để lấy chỗ làm. Ngay đêm hôm đó anh bị cảm nặng sốt cao, phải đưa vào bệnh viện. Nhưng kinh khủng hơn sáng hôm sau điện thoại từ gia đình anh điện lên mẹ anh bị tai nạn giao thông chấn thương sọ não. Đến chiều thì tin lên đứa con anh đang học lớp 7 bước từ trên hè xuống sân ngã ngãy sương đùi, mặc dù từ hè xuống sân cao chỉ chênh nhau 30cm. Đến sáng hôm sau thì mẹ anh bị đứt mạch máu não, đang sốt hừ hừ anh Thủy cũng phải vùng dậy chạy vào đền làm lễ mới bỏ về. Sau này tôi mới biết gia đình anh còn gặp nhiều chuyện không may nữa, phải cũng lễ nhiều anh mới sống sót được.
Nhưng bỏ không làm nữa thì cũng không được, đã đổ hết vốn liếng vào đây rùi bỏ đi thì không chỉ chết mình tôi mà còn chết cả nhà, cả họ. Xin nhắc công VIC chúng thầu nhưng làm từng đoạn, các đội nhận khoán lại phải bỏ tiền ra làm rồi thanh toán sau. Mặc dù ông Cường báo cáo lãnh đạo công ty nhiều lần, báo chí cũng nói đến chuyện này nhưng ông Nguyễn Quang Hưng - Giám đốc công ty vẫn không quan tâm giúp đỡ, ngược lại ông còn nháo báng chê trách bọn họ không biết làm việc. Vì vốn liếng, vì sĩ diện của một kỹ sư xây dựng ông Cường bàn với anh em thân tín quyết tâm làm đến cùng. May thay có ông Nguyễn Trường Tiểu - Chủ tịch Hội Đồng quản trị VIC ủng hộ ông rất nhiều trong công việc( hiện nay ông Tiểu đang làm phó Tổng giám Đốc công ty xây dựng Hà nội ).
Được sự giúp đỡ của ông Tiểu, ông Cường đã mời được thầy Mão, một thầy tứ phủ nổi tiếng nhà ở Vĩnh tuy - Hà nội đến làm lễ tại công trường. Nhiều lần tôi cùng ông Tiểu đến mời ông Mão và cuối cũng đến tháng 6/2002 ông Mão nhận lời, lập đàn tràng giải trận đồ bát quái cho tôi. Đàn lớn lắm có đủ cờ phướn, hương án, lễ mặn, hoa quả có đủ. Trong danh sách chủ lễ có toàn bộ ban Giám Đốc công ty, nhưng ông Hưng không đến dự. Cúng lễ 2 ngày, 2 đêm, hàng trăm người đến xem ầm ĩ một khúc sông. Cúng xong ông Mão nói với tôi: " Cậu đào khúc sông này là cậu khổ rùi. Bây giờ cậu có thể làm xong việc, nhưng nhà cậu sẽ gặp nhiều tai vạ lớn, cậu sẽ mất tất cả những gì quý giá nhất, anh em cậu sẽ tan gia bại sản, gặp nhiều sự oan khuất. Tôi làm lễ cho cậu tôi sẽ bị trả giá. Mặc dù tôi không chết nhưng tôi e rằng sẽ không được như trước".
Ngay sau khi ông Mão lễ xong, hai người cùng về nhà cùng về đến nhà, thì ông Mão ngất đi. Từ lúc đó trong ngần nửa tháng người nhà ông Mão đưa ông đi khắp các bệnh viện, không bác sĩ nào biết ông bệnh gì, còn ông Mão lúc mê lúc tỉnh, lúc thì kêu khó chịu trong người, lúc thì kêu đau đầu... cứ vậy mãi sau ông mới khỏi, nhưng từ đó sức khỏe yếu hẳn đi. Trước đây tôi không tin thầy Thích Vân Thành chết vì tai họa sông Tô Lịch, nhưng từ khi chứng kiến ông Mão ốm thì tôi tin rằng thầy Thích Vân thành chết vì ma sông Tô Lịch thật. Nhưng lạ nhất là từ lúc lập đàn tràng lần thứ 2 do ông Mão chủ lễ công việc có vẻ suân sẻ hơn. Cữ dựng lên không bị phá vỡ nữa, kè đập cũng không bị sụt lở, chúng tôi làm được ngần 150m dài, quá 1/3 đoạn sông tôi nhận. Đến đây thì tôi kệt sức, vốn liếng vay mượn khắp nơi rồi không vay thêm được nữa. Tôi quyết định dừng công việc tại đây.
Nhưng tai họa thì không dừng lại, vào đúng ngày ông Cường hết sạch tiền, định cho anh em nghỉ việc thì tự nhiên một anh em công nhân lên cơn động kinh ngay tại công trường, miệng sủi bọt mép, mắt hoàn toàn ý thức. Lúc tan cơn co giật, anh vẫn mê sảng môm lẩm nhẩm : " Trả tao đây, trả tao đây ! "
Ngay hôm sau ông Cường được tiếp một người quen từ bên Lào về. Đó là anh Tuấn một cán bộ ủy ban dân tộc trung ương. Năm trước trong lúc bọn họ đào trong trận bát quái anh có đến thăm anh có chọn trong các cổ vật xúc dưới sông lên, xin một cái bát hoa cúc đời Lý. Anh mang về bày ở trong nhà. Từ ngày ấy gia đình anh lục đυ.c, làm ăn thất bại. Vừa rồi anh có đi công tác sang Lào, có một ông thầy cúng vừa nhìn thấy anh vừa hốt hoảng: "Anh có cầm vật gì của người âm không ? ". Anh trả lời:" Không có ạ" . Ông thày cúng lắc đầu: " Anh phải nhớ lại thật kỹ đi, tôi thấy sau lưng anh có rất nhiều người âm đang đòi anh cái gì đấy, hình như là bát ăn cơm thì phải. Anh lấy của họ dưới sông làm cho họ không có bát ăn cơm. Anh phải trả họ ngay không thì gay go đấy". Anh Tuấn nhớ lại chuyện cái bát sợ quá phải bỏ dở chuyến công tác, quay về Hà nội sắm sửa lễ tạ tội và trả cái bát vào dòng sông đúng chỗ tôi đã múc lên. Hôm đó là ngày 24/7/2002.
Chuyện còn rất dài tai họa còn rất nhiều, ba ngày sau đó, bố đẻ ông Cường đột ngột ra đi. Bởi ngay đến hôm nay gia đình ông còn chịu nhiều oan khuất. Em gái ông Cường là Nguyễn Thị Bích Hợp bán bảo hiểm cho PJICO chỉ bán bảo hiểm cho công ty Việt Thái Phong, không tham ô tham nhũng đồng nào, chỉ vì các ông Giám Đốc, Phó Giám Đốc tham ô tiền tỷ mà phải ra tòa. Ai biết chuyện cũng thương nhưng không giúp gì được. Dự kiến phiên tòa sẽ bắt đầu vào ngày 10/4/2007.
Đến lúc xảy ra sự kiện anh Tuấn bị người âm đuổi theo, trả lại cái bát hoa cúc xuống lòng sông. Bố đẻ oog Cường ở quê là một người đàn ông trẻ khỏe hơn tuổi 70 của mình, ông vẫn làm việc và lao động như một tráng niên. Sau khi anh Tuấn trả lại cái bát về lòng sông đúng 3 hôm, ngày 27/7/2002, bố ông Cường đi chơi về đang ngồi uống nước ở nhà đột nhiên đứt mạch máu não và chết ngay sau 6 tiếng đồng hồ cấp cứu. Đây là sự mất mát lớn nhất của cuộc đời ông Cường. Biết là mọi sự nguy hiểm đang rình rập, ngay sau khi đám hiếu bố ông kết thúc, ông Cường ra ngay công trình, đào toàn bộ tám hài cốt moi từ dưới sông đang chôn tạm dọc bờ sông lên, rửa ráy sạch sẽ, xếp vào tiểu đẹp và làm lễ trọng, đưa toàn bộ lên nghĩa trang Bất Bạt an táng, cho mát mẻ vong linh người chết. Trong đau khổ mất cha, trước đàn lễ ông vừa khóc vừa khấn rất to nhiều người nghe thấy : "Tín chủ xin các vong hồn tha thứ cho sự xúc phạm vào nơi yên nghỉ của các vong, nhưng tín chủ cũng chỉ là người làm thuê, thừa lệnh cấp trên mà làm, nay con đã sức cùng, lực kiệt, người thì chết, người thì ốm, tiền thì hết, nếu các vong bắt tội thì bắt tội ông Nguyễn Quang Hưng Giám đốc công ty VIC và ông Nguyễn Trọng Doanh, Giám đốc dự án. Xin các vong nhẹ đỡ trừng phạt con ". Ông cũng nói thêm, trong suốt thời gian sảy ra chuyện ở đoạn sông Tô Lịch này, hai ông Hưng và Doanh lúc nào cũng tỏ vẻ không tin và không hề có sự hỗ trợ giúp đỡ nào, thậm chí còn nhạo báng và gây thêm khó khăn cho công việc thi công của ông.
Và cũng thật đáng sợ, chỉ 2 ngày, sau khi ông Cường an táng toàn bộ 8 hài cốt ở nghĩa trang Bất Bạt, trong chuyến công tác ở Quảng Bình, xe ô tô chở ông Nguyễn Quang Hưng cùng một số cán bộ công ty đã bị nạn. Chiếc xe Toyota bị phá hủy hoàn toàn. Ông Nguyễn Quang Hưng bị chấn thương nặng, gãy 3 chiếc xương sườn, nhiều cán bộ đi cùng cũng bị vạ lây. Vẫn chưa hết, sau đó khoảng 1 tháng, văn phòng Ban quản lý dự án do ông Nguyễn Trọng Doanh trực tiếp phụ trách đặt tại Yên Sở, Hà nội bỗng bốc cháy dữ dội. Ngôi nhà 2 tầng đặt văn phòng dự án và văn phòng một số công ty tham gia thi công dự án bị thiêu rụi hoàn toàn.
Sau khi đã làm xong 150m trên chiếu dài 360m ông Cường nhận thi công, do các sự việc ghê gớm xảy ra và cũng do sức cùng lực kiệt, tiền vốn không còn, ông Cường xin thanh lý hợp đồng. Lạnh lùng không một chút nhân đạo, không thương xót, Công ty VIC thanh lý hợp đồng mà không hỗ trợ lấy một xu nhỏ. Ông bị lỗ 500 triệu đồng vì công trình này. Quay trở về Nghệ An ông Cường đi cầu khấn ở mọi nơi, nơi nào cũng báo cho ông biết ông đang bị đại nạn.
Cũng nói thêm khi thi công , công trình ngoài số cổ vật moi ở trong trận đồ bát quái ông Cường đã nộp cho bảo tàng Hà nội, các công nhân có moi lên được nhiều bát đĩa, cốc chén cổ. Ông Cường có giữ lại mấy cái lành lặn. Trong đó có một chiếc tước màu đen mà nói như GS Trấn Quốc Vượng, đó là một đồ cổ rất quý hiếm. Khi về đến nghệ An, do hết tiền, ông Cường định bán
Chiếc tước đó, Khách mua từ Hà nội vào, sau một ngày trả giá đã thỏa thuận mua chiếc tước ấy với giá gần 10.000USD. Thỏa thuận xong, khách quay lại khách sạn lấy tiền để trả ông Cường, trong lúc đó chiếc tước vẫn để trên mặt bàn. Khách mang tiền đến, chưa kịp đếm tiền thì thật kinh hãi, chiếc tước không ai đυ.ng tay vào tự nhiên vỡ đôi, rồi vỡ vụn. Khách co giò bỏ chạy. Ngay sau đó ông Cường cũng sợ hãi quá, mang nốt mấy cái đồ cổ còn lại ra Hà Nội gặp GS Trần Quốc Vượng và cho ông hết. Giáo Sư Trần Quốc Vượng lúc đó vừa lấy vợ mới, đang lúc vui vẻ, ông cứ cười ông Cường về sự yếu bóng vía. Ông giải thích cho ông Cường là đồ ngâm lâu dưới nước, khi đưa ra ngoài không khí nước bốc hơi ẩm cho gốm bở ra rất dễ vỡ. Chuyện cái tước không liên quan gì đến tâm linh. Ông Cường thì quá sợ nên không dám giữ một món đồ nào nữa. Nhưng không ngờ đó là lần gặp gỡ cuối cùng của ông Cường với GS Trần Quốc Vượng, vì chỉ ít lâu sau ông mất đột ngột. Trong thâm tâm ông Cường có cảm giác mấy món đồ cổ từ trận đồ trấn yểm đã làm hại ông.
Từ đó đã 4 năm qua. Ông Cường từ một tỷ phú trước khi làm công trình kè sông đã một kẻ tay trắng, phải phiêu bạt nơi biên cương, sang cả Lào để kiếm ăn. Có lúc tưởng như không còn mái nhà, không còn gia đình để về. Ông anh trai thứ hai của ông Cường,người tham gia công trình cùng ông, gặp nhiều sự trớ trêu, cay đắng trong hạnh phúc gia đình đến mức đôi lúc ông đã có những ý định tiêu cực. Đến năm 2006 vừa qua, anh ông Cường gây tai nạn giao thông làm chết người và vướng vào lòng lao lý. Ông anh thứ ba, người đã cho ông Cường vay tiền để kè sông Tô Lịch cũng là người làm ăn phát tài, sau đó gặp nhiều sự rủi ro, phá sản toàn bộ.
Cô em gái út của ông Cường là Nguyễn Thị Bích Hợp công tác tại Sài Gòn thì đang vướng vào một sự oan khuất. Chỉ vì lòng tận tâm tận lực với công ty PJICO mà đang phải ra tòa và lúc tôi viết những dòng này, tòa tuyên tạm hoãn xử lần thứ 2. Lạ nhất cô em gái ông đi xem lễ nhiều nơi, các thầy đều nói hạn của em ông bắt đầu từ đại hạn của gia đình ông từ năm Tân Tỵ 2001 là năm tôi phạm phải trận đồ trấn yểm Đại La trên sông Tô Lịch.
Cũng còn nhiều chuyện nhỏ nữa cũng đều đáng sợ, nhưng nếu kể nữa e rằng chỉ làm bạn đọc bận tâm. Cũng có thể tòan bộ câu chuyện này chỉ là ngẫu nhiên mà rơi xuống số phận ông Cường, hoàn toàn không có yếu tố tâm linh, chỉ biết rằng theo cố Giáo sư Trần Quốc Vượng địa điểm mà ông Cường thi công là điểm giao hòa của 3 con sông cổ : Sông Tô Lịch, Sông Thiên Phù và Sông Nhuệ. Do vậy, cấu tạo địa chất rất phức tạp và hình thành những vực sâu và rồi những vực sâu cũng được bồi lấp bởi mọi thứ đã từng trôi nổi trong ba dòng của con sông chính chính vì vậy việc thi công rất khó khăn. Nhưng cũng có thầy địa lý nói : đây là điểm giao hòa và là một huyệt phong thủy rất quan trọng. Vì vậy một thế lực nào đó đã lập trận đồ trấn yểm để huyệt này không phát được.
Nguồn gốc trận đồ trấn yểm sông Tô Lịch
Đây là một hiện tượng chấn yểm nhằm cắt và bế Long Mạch, chận đường của Khí. Ai đã chấn yểm vị trí này và mục đích sự chấn yểm này để làm gì ? Theo ý của người viết : Đây là tác phẩm của Cao Biền, Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 -Tức là trước thời nhà Lý khoảng 200 năm.
Người viết xin được chứng minh như sau : Trước hết nói về ý kiến của GS Trần Quốc Vượng; người viết cũng đồng ý rằng đây là một sự chấn yểm sông Tô lịch, song không chỉ căn cứ vào niên đại của một số đồ gốm nhặt được mà cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý - Trần. Nếu theo Truyền thuyết " Tại sao sông Tô lịch và sông Thiên Phù hẹp lại " hay truyền thuyết " sự tích Ông Dầu bà Dầu ", tác giả của sự việc trên là các vị Vua nhà Lý, nhằm trấn yểm sự Báo thù của Ông bà Dầu, thì không có sự việc sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại,đến nay chỉ còn là một con sông nhỏ xíu, làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà Nội. Ta nhớ rằng theo sử sách sông Tô lịch ngày xưa rất rộng, trên bến, dưới thuyền, là trục Giao thông chính thủa ấy. Mặt khác thời Lý Trần có rất nhiều nhà Phong Thủy Việt nam tài giỏi như : Thiền sư Định không làng Cổ pháp (Sư thọ 79 tuổi -Năm Bính tư 808 ), Sư La chân Nhân (852 -936 ), Sư Vạn Hạnh..
Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để cho các Vua Lý chấn yểm sông Tô Lịch và Thiên Phù, để đến nỗi sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại và Ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu về tay nhà Trần. Dòng họ Lý bị tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi qua họ Nguyễn mới thoát khỏi.
Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch sử và các truyền thuyết còn lưu lại trong dân gian.
Theo Việt sử lược : Thành Đại La được xây dựng vào thế kỷ 7 có tên là Tống Bình. Năm thứ 2 niên hiệu Trường khánh (Nhâm Dần -822 ), Vua Mục Tông nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch, liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ. Thầy bói nói rằng : Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn, 50 năm sau, có một người họ Cao đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ
Tới đời vua Đường Y Tôn (841 -873 ), Cao Biền được cử sang đất Việt làm Tiết Độ sứ. Cao Biền là một con người đa hiệu: Vừa là một vị Tướng,vừa là một nhà Phù thủy, một Đạo sĩ, cũng là một nhà Phong thủy có tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn lại cho hợp Phong Thủy vào các năm : 866, 867, 868. Theo truyền thuyết, khi Cao Biền xây dựng lại thành Đại La, thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất. Cao Biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã, núi Tản Viên. Sau đó công viêc xây dựng mới có thể hoàn tất
Tới đây, ta nhớ lại một truyền thuyết khác của dân tộc Việt nam. Đó là " Truyền thuyết Thành Cổ Loa " Tương truyền rằng khi xây dựng thành Cổ loa, An Dương Vương cũng xây mãi mà thành vẫn bị đổ. Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái móng chân, lúc đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong".
Về mặt địa lý, La thành và Thành Cổ loa cách nhau không xa ( Theo đường chim bay chỉ vài chục km )
Tới đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi : Có sự trùng hợp giữa hiện tượng sụp đất của Thành Cổ loa, sự sụp đất của thành Đại la và sự sụp lở đất không thể khắc phục được trên công trình nạo vét sông Tô Lịch ?
Qua hai truyền thuyết trên, bỏ qua các sự việc có tính chất dị đoan, chúng ta phải chấp nhận một sự thực là: Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô Lịch kéo dài đến Cổ Loa - Đông Anh HÀ NỘI là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định. Ta cũng cần phải nhớ rằng : Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà Nội. Mặt khác phía Tây và Tây Bắc của La Thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH, SƠN LA, LAI CHÂU...Theo định nghĩa của môn Phong Thủy, Long Mạch xuất phát từ những rặng núi cao. Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn. Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu sơn. Ta cũng biết rằng thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống, các đỉnh núi cao là những antena tiếp thu sinh khí. Từ những sự việc trên, ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản Viên và các rặng núi phía Tây, Tây bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại La theo dọc sông Tô Lịch (khí thường đi theo nước ), chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng ), sau đó sang tới tận địa phận Cổ Loa -Đông Anh - HÀ NỘI và còn theo hướng Đông, Đông Bắc đi tiếp .
Chính vì có Long mạch này mà Cao Biền phải vô cùng bận tâm, khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm. Có rất nhiều tryền thuyết về Cao Biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long mạch này. Ta có thể kể ra đây những hoạt động của Cao Biền liên quan đến các khu vực của Long mạch này : Đầu tiên là truyền thuyết Cao Biền chấn yểm núi Tản Viên, hắn đã sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để chấn yểm núi Tản viên. Tới gần đây người ta còn đào được những cái Tháp đất nung đó tại khu vực Hà nội. Tiếp theo là truyền thuyết Cao Biền dùng hơn 4 tấn sắt, đồng...chôn để chấn yểm đền Bạch Mã là nơi vị thần sông Tô Lịch trú ngụ. Cao Biền còn nhiều lần dựng đàn tràng, dùng 4 thứ kim loại : sắt, đồng, vàng, bạc chấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô Lịch. Theo sử sách, Cao Biền đã đặt Bùa chấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô Lịch.
Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị đại sư tài ba lỗi lạc, hiểu biết rất giỏi về Nho,Y, Lý số và thuật Phong Thủy đã hóa giải sự trấn yểm của Cao Biền bằng phép Huyền môn. Các đại sư thường tụ tập tại ngôi đền SƠN TINH THỦY TINH ở núi Ba vì, hay ở đền BẠCH MÃ, dùng những hiểu biết về Phong Thủy để chấn áp bùa phép của Cao Biền.
Trở lại, đạo bùa tìm thấy trên lòng sông Tô Lịch, có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng : Đó là tác phẩm của Cao Biền, chứ không phải là của các nhà vua Lý. Tác phẩm đó là của Cao Biền đời nhà Đường, thuộc về thế kỷ 9, tức là trước thời các nhà Lý khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010 ). Nếu xét về niên đại của cổ vật tìm thấy, thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự thay đổi nhiều. Cũng không loại trừ trường hợp các cổ vật ở trên đất liền rớt xuống lòng sông thời gian sau khi Cao Biền trấn yểm.
Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao Biền khi trấn yểm sông Tô Lịch. Cho tới tận giờ phút này, khi các bạn và tôi đang ngồi bên máy vi tính,người ta vẫn sử dụng các thủ thuật : Châm cứu, điện chẩn, xoa bóp, bấm huyệt ... để chữa bệnh. Tất cả các thủ thuật đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống kinh mạch, huyệt, lạc trong cơ thể con người. Người ta xác định được hàng ngàn vị trí Huyệt đạo trong cơ thể con người. Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu, người ta dùng kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau, với thời gian và độ nông sâu khác nhau. Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm, điểm huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử động, hoặc nặng hơn là bộ phận đó không còn sử dụng được. Ta vẫn biết rằng :THIÊN ĐỊA NHÂN là hợp nhất. Mọi vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ. Phải nói dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng, trên Trái đất này cũng phải có những đường kinh mạch, huyệt, lạc như trong cơ thể con người. Trái đất này là một cơ thể sống chứ không phải là một cục đất chết như nhiều người vẫn nghĩ. Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng :Tại một điểm nào đó, người ta có thể dùng một thủ thuật nào đó, có thể ngăn, bế hoặc chặn đường đi của một Long mạch như Cao Biền đã làm. Thủ thuật này người xưa gọi là trấn yểm.
Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau :
1. Đạo Bùa trấn yểm trên dòng sông Tô Lịch là của Cao Biền -Tiết độ sứ của nhà Đường, dùng để chấn yểm long mạch, khi tiến hành xây dựng thành Đại La vào thế kỷ 9. Đó là 1 trong 19 nơi mà Cao Biền đã thực hiện trấn yểm.Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải do các Vua thời nhà Lý chấn yểm trong Truyền thuyết Ông Dầu, bà Dầu khoảng 200 năm sau khi Cao Biền thực hiện chấn yểm.
2. Chấp nhận có một Long mạch rất lớn xuất phát từ phía Tây của thành Đại La (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, và gần nhất là dãy núi Tản Viên); Long mạch này đi qua thành Đại La, cụ thể theo dọc sông Tô Lịch, qua khu vực Hồ Tây, kéo dài sang Cổ Loa - Đông Anh - HÀ NỘI; Long mạch này còn kéo dài tới dãy Yên Tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng Ninh. Đây chỉ là nhánh Thanh Long của đồng bằng Bắc Bộ. Nhánh Bạch Hổ khi có điều kiện tôi xin chứng minh tiếp.
3. Cao Biền đã thực hiện biện pháp trấn yểm Long mạch, nhằm bế dòng khí của Long mạch này. Thủ thuật trấn yểm tương tự như thuật điểm huyệt trong đông y học.
Đến đây, ta lại tiếp tục đặt ra câu hỏi :
1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn đã xẩy ra cho các công nhân trong đội xây dựng số 12. Bản chất hiện tượng đó như thế nào ?
Trong thuật Phong Thủy, Khí là một hiện tượng rất khó giải thích, nhưng nó là một khái niệm cơ bản của thuật Phong Thủy. Nhận định đúng về Khí là chìa khóa mở vào lý thuyết cốt yếu của Phong Thủy. Theo quan niệm Á đông, Khí ẩn tàng làm động lực cho Trời đất vạn vật. Khí không những hội tụ trong các vật thể hữu hình mà còn tản mát vô hình sau khi vật thể tan rã để tạo thành những thể rất Linh thiêng gọi là Linh Khí của Vũ trụ. Người xưa có câu : Tụ là hình tán là Khí. Ngày nay Khoa học phát hiện được một vài dạng của Khí, gọi là Plasma sinh học.các dạng đó có thể đo, đếm được. Trong Đông Y học người ta phát hiện Hệ thống Kinh , Mạch, Huyệt là đường vận hành của Khí từ rất xa xưa. Người ta phát hiện rằng : Khí vận hành trong Kinh, Lạc như một dòng nước, chỗ đi ra gọi là Tĩnh, trôi trảy gọi là Huỳnh, dồn lại gọi là Du, đi qua gọi là Kinh, nhập lại gọi là Hợp. Đường Kinh không đơn giản là một ống dẫn vật chất nào đó. Đường Kinh là một chùm ống dẫn Khí Ngũ hành xuyên suốt các cơ quan, bộ phận của một Tạc tượng. Ngoài ra người xưa còn biết rất sâu về bản chất của Khí, có một lý thuyết về Thời châm vô cùng chính xác là Tí Ngọ lưu trú và Linh Quy bát pháp. Đó là trên cơ thể con người,còn trong Phong Thủy ,người ta quan niệm rằng Nguyên Khí trong lòng đất, tương tự như hệ thống mạch, huyệt trong Đông Y. Nguyên Khí được xem là gắn bó với nước, nước giúp Khí di chuyển, nước đi thì Nguyên Khí cũng đi, nước ngừng thì Nguyên khí cũng ngừng. Sinh Khí tụ mạnh nhất là nơi giao hội của nước ( nơi các dòng sông hội tụ chẳng hạn ). Người viết chỉ nêu ra một số quan niệm về Khí, dùng cho việc chứng minh luận điểm của mình, còn Lý thuyết về Khí thì vô cùng, vô tận. Mặt khác, có thể tìm hiểu cơ chế của mối quan hệ giữa hài cốt người chết đối với người thân thích còn sống như thế nào ?. Theo Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương: Trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xá© ŧᏂịŧ trực tiếp giữa hài cốt người chết và thân xác người còn sống, nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào. Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống, dòng họ. Do tần số đôi bên có thể khác nhau nhiều, nên trong lý thuyết về Nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (Tần số này là bội số của Tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống.
Trở lại câu chuyện trên dòng sông Tô Lịch: Người viết cho rằng : Long mạch đã nói ở phần trên bị Cao Biền trấn yểm đúng Huyệt vị, đã bị ngăn chặn lại tại nơi có đạo Bùa chấn yểm. Hậu quả của đạo Bùa này làm cho Nguyên Khí không thể tiếp tục đi theo hành trình vốn có của nó, làm cho vùng đất dọc theo Long mạch sau khi bị chấn yểm trở nên cứng hơn, ổn định hơn. Bằng chứng là về sau này ta không còn nghe được sự việc sụt lở đất tương tự như thế nữa. Ta có thể hình dung hơi thô thiển là Long Mạch giống như một mạch máu, bị cột lại một đầu, không cho dẫn máu tới các vùng sau đó được nữa. Các bộ phận cơ thể đằng sau chỗ bị cột vì không có máu nuôi nên dần dần bị khô, teo đi. Ta cũng để ý một điều rằng :Thành phố Hà nội ngày nay có rất nhiều hồ nước con đang tồn tại như hồ Tây, hồ Gươm, hồ Bảy mẫu, hồ Ha Le ...Mặt khác sông Tô Lịch và Thiên Phù dần dần bị hẹp đi và giờ đây chỉ còn là con mương nhỏ dẩn nước thải cho TP.HÀ NỘI. Ở đây có một câu hỏi thú vị là : Nếu như Cao Biền ( vốn được coi là tổ sư của Phong Thủy ) đã quyết tâm trấn yểm tiêu diệt dòng sông Tô Lịch thì sao cho đến tận bây giờ sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại ( mặc dù chỉ là con mương nhỏ ). Theo người viết,nếu Cao Biền trấn yểm đúng thì ngày nay ta chỉ còn nghe đến tên của nó qua lịch sử. Đến đây người viết khẳng định :Cao Biền có sự sai lầm trong việc chấn yểm. Nguyên nhân sự sai lầm của Cao Biền chính là sự hiểu biết vô cùng chính xác của các vị Vua Hùng - Tổ tiên của người Việt chúng ta trong thuật Phong Thủy nói riêng và trong Thuyết Âm Dương, Ngũ Hành nói chung. Vì tiên đoán được các sự việc sẽ xẩy ra, sau khi mất nước, các Vua Hùng đã cố ý làm sai lạc một phần của Thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Người viết xin chứng minh vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ ta đi vào trả lời câu hỏi nguyên nhân của sự việc xẩy ra cho công nhân đội xây dựng số 12. Theo người viết như sau : Tại chỗ có đạo Bùa, Nguyên Khí bị bế lại lâu năm, khi tháo gỡ đạo Bùa, giống như tháo bỏ chỗ bị cột trong mạch máu, Nguyên khí bị thoát ra ngoài tại vị trí chấn yểm và lan tỏa ra xung quanh. Ta chưa xét đến sự tốt xấu của dòng Khí đó với cơ thể con người. Chỉ biết một điều rằng : Chính dòng Khí đó làm mất cân bằng cục bộ môi trường xung quanh chỗ đường Khí được giải phóng. Chính vì vậy những người Công nhân đang làm việc tại khu vực đó bị các hiện tượng kỳ lạ đã nêu ở phần đầu. Khi cơ thể con người bị mất cân bằng về Khí dẫn đến hiện tượng mất khả năng hoạt động Thần kinh. Như vậy cũng chẳng có gì khó hiểu khi các công nhân đội xây dựng só 12 gặp phải. Ngoài ra do ảnh hưởng của Quy luật " Đồng thanh tương ứng - Đồng Khí tương cầu ", hay là hiện tượng cộng hưởng Harmonic mà Thân nhân, dòng họ của những người công nhân đội xây dựng số 12 phạm phải , mặc dù họ không trực tiếp có mặt trên công trường. Đó là hiện tượng cũng dễ hiểu.
2. Tại sao sau khi Cao Biền trấn yểm sông Tô Lịch, kể từ đó tới tận ngày hôm nay, trong lịch sử ta không còn nghe có vụ sụt lở đất nào khác ngoại trừ trường hợp trên sông Tô Lịch đã nêu ở trên sau khi người ta đã rút các cọc trấn yểm lên.
Tiếp tục phát triển tính nhất quán của phần trên : Khi đường Khí của Long mạch đã bị bế lại, nguyên Khí không thể tới được các vùng đất ở sau chỗ trấn yểm được nữa, và Nguyên Khí luôn có nước đi cùng nên lượng nước tới các vùng đó cũng bị giảm đi. Kết quả là vùng đất sau chỗ bị trấn yểm cứng lên, và kết cấu của Địa tầng, địa chất cũng trở nên ổn định hơn. Khi một vùng đất đã có địa tầng địa, chất ổn định thì tất yếu dẫn đến các vụ sụt lở đất khi xây dựng các công trình tự nhiên mất đi. Đó là một sự việc không có gì là bí ẩn trong nghệ thuật xây dựng hiện nay. Tại công trình nạo vét sông Tô Lịch, khi đạo Bùa chấn yểm bị nhổ lên, lập tức Nguyên khí bị phong tỏa ùa thoát ra ngoài với một tốc độ và lưu lượng vô cùng lớn, làm cho đất, đá của cả khu vực nhão ra như bùn, trở nên mất ổn định cục bộ. Ở đây ta cũng cần lưu ý rằng : Khi Nguyên khí thâm nhập vào lòng đất quá nhiều thì không chỉ đất, cát mà thậm chí cả đá hay các vật thể rắn khác đều trở thành bùn nhão, bởi tính chất của Nguyên khí khác với tính chất của nước. Ta cũng để ý rằng nơi nào mà nguyên khí ít ỏi hoặc không có vùng đó sẽ trở nên khô cằn, cây cối không thể phát triển được. Đó là trường hợp của các sa mạc, hoang mạc trên trái đất. Tại núi Ngự bình ở Huế cũng có trường hợp tương tự. Rất nhiều lần người ta tổ chức trồng cây trên núi Ngự bình song đều thất bại.
Như vậy, ta có thể kết luận rằng : Trong quá trình xây dựng Thành Đại la, Cao Biền gặp một vùng đất có kết cấu không ổn định nên đã thực hiên việc trấn yểm kể trên với mục đích làm cho đất cứng và ổn định hơn trước. Biện pháp thực hiện là dùng thủ pháp điểm huyệt đất tương tự như thủ thuật châm cứu, điểm huyệt trong đông Y. Ở đây còn có ý nghĩa sâu xa là trấn yểm các Long mạch, các huyệt phát Đế Vương của đất Việt. Tuy nhiên vì có sự sai lầm về độ số hướng Tây nên sự trấn yểm không được trọn vẹn. Bằng chứng là Sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại và chỉ thời gian ngắn sau này nước Việt dã giành được độc lập. Một dải Long mạch đã nói ở trên vẫn phát sinh ra những con người nổi tiếng, những vùng đất địa linh nhân kiệt như chùa Dâu, núi Yên tử, Đền Kiếp Bạc ...Một nguyên nhân nữa sau này, đã phá hoại sự linh thiêng của Long mạch là các việc san lấp của người Pháp, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Không biết vô tình hay hữu ý, khi xây dựng TP.HÀ NỘI, người Pháp đã cho lấp mất khúc sông Tô Lịch, nơi đổ ra sông Hồng - Nay là các phố Hàng Buồm, Hàng Bạc, Cầu Gỗ... Và Nhà thờ lớn HÀ NỘI hiện nay đặt trên nền của Tháp Báo Ân ngày xưa...
Một dân tộc đã được thiên nhiên ưu đãi về Địa linh về Sinh khí phải suy nghĩ như thế nào về trách nhiệm bảo vệ và khai thác sức mạnh tâm sinh khí đó. Chúng ta cần phải có các chương trình đào tạo các bậc anh hùng, hào kiệt, những bậc hiền tài cho Đất nước, những vĩ nhân cho thế hệ mai sau. Ngày trước các bậc Thánh Đế, Minh Vương coi đó là trách nhiệm lớn nhất đối với non sông, đất nước.
3. Hậu quả của việc rút bùa trấn yểm lên sẽ như thế nào đối với khu vực dọc theo sông Tô Lịch nói riêng và cả khu vực HÀ NỘI, các vùng phụ cận nói chung. Hậu quả sẽ như thế nào đối với Long mạch đi qua thành Đại la ? ( đoạn này hơi hack não bạn đọc )
Trước hết,ta xem xét hậu quả của việc Trấn yểm của Cao biền và những sự việc sẽ xẩy ra khi rút bỏ đạo Bùa đối với khu vực sông Tô lịch và các vùng phụ cận.Hiện nay,tôi không có tài liệu nào chính thức về các biện pháp Trấn yểm đất của bộ môn Phong thủy.Chỉ biết rằng từ xa xưa đã có các hiện tượng trấn yểm của Mã viện ( Trụ đồng Mã viện );các hiện tượng trấn yểm của Cao biền;các biện pháp dùng Bia đá để trấn yểm nhà,các tấm Bài ếm ở quanh khu vực Thất sơn (Cái ếm ở Bài Bài ,thuộc làng Nhơn hưng -Tịnh biên -Châu đốc ,cây ếm ở núi Nước )...
Để có thể hiểu rõ tính chất và hậu quả của việc trấn yểm,ta cần phải biết rõ lý thuyết trấn yểm và từ đó mới có thể khắc phục được tác hại của nó.Từ xưa,việc trấn yểm được coi là Thuật bí truyền của các thày Địa lý ,không được tiết lộ ra ngoài,sợ lộ Thiên cơ.Do vậy mà lý thuyết về sự trấn yểm đến tận giờ phút này vẫn được coi là một cái gì đó huyền bí,ma thuật,không có tài liệu nào được truyền ra.Tuy nhiên theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân là một,ta có thể dùng Lý thuyết của Đông Y để tìm hiểu vấn đề này.Mặt khác,Thuyết Âm Dương,Ngũ hành với cơ sở là Hà đồ,Lạc thư là một công thức siêu Vũ trụ có thể lý giải tất cả các vấn đề từ Vi mô tới Vĩ mô,nó là Công thức Tổng quát của Vũ trụ mà khoa học ngày nay đang ao ước ,tìm kiếm.Tôi sẽ xin trở lại vấn đề này khi có dịp.Bây giờ ta trở lại Lý thuyết của Đông Y về Kinh,Mạch,Huyệt,Lạc là một sự ứng dụng rất cụ thể và phong phú của Thuyết Âm Dương,Ngũ hành.Lý thuyết của Đông Y về Kinh,Mạch,Huyệt ,Lạc rất phức tạp và có từ rất lâu đời,cuốn sách đầu tiên có thể là cuốn Hoàng đế nội kinh,có thời điểm khoảng 5000 năm.Tôi chỉ xin dẫn giải những gì cần thiết để chứng minh cho luận điểm của mình.
HỆ THỐNG KINH, MẠCH, HUYỆT, LẠC.
1/HUYỆT : Là nơi tập trung Khí huyết của Tạng phủ. Là nơi tập trung các cơ năng hoạt động của Tạng phủ.Mỗi Tạng phủ có các đường Kinh,Mạch,Lạc nằm ở những nơi cố định.Những Huyệt lớn gọi là Khổng Huyệt.Những Huyệt bình thường gọi là Huyệt. Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc làm nhiệm vụ dẫn cơ năng Tạng phủ từ trên xuống dưới,từ ngoài vào trong,từ dưới lên trên,từ trong ra ngoài, trong toàn bộ cơ thể con người.Trong cơ thể có một mạch Nhâm,một mạch Đốc,12 đường Kinh chính,cộng thành 14 Huyệt Kinh.có 365 đường Kinh Lạc và 666 đường Kỳ Huyệt.Hệ thống Kinh,Mạch,Huyệt ,Lạc tiếp nhận Thiên khí,Địa khí,Thời khí,có tính chất Âm Dương Ngũ hành.Nhờ hệ thống trên,ta có thể tìm đến các chỗ đường Khí bị tắc mà đả thông cho thuận.Mỗi loại Bệnh tật đều có một số Huyệt liên quan để ta có thể kí©ɧ ŧɧí©ɧ khi có bệnh.
2/Kinh : Là các đường dẫn Khí từ Huyệt nọ tới Huyệt kia.Các đường đó đi lắt léo,chồng chất qua rất nhiều chỗ;liên đới với các đường Kinh khác theo tính chất Âm Dương ,Ngũ hành,liên vận đến cả với Trời đất mà biến động sự sống,tinh thần con người,vì vậy mà gọi là Kinh.
3/Mạch :Nó là các Nguồn Mạch có Gốc chính đi ra.Nó đi khắp nơi,phân chia ra nhiều chỗ cần thiết,đến tận cùng của mọi nơi và sau lại trở về với chính Gốc.
4/Lạc: Nó là các đường của Kỳ huyệt , nhiều hơn Kinh, Mạch, nhỏ hơn nhiều. Nó đi ngang, tắt ,chằng chịt, chi chít, khó tìm hơn. Nó giúp cho con người điều hòa Tâm sinh lý rất tốt, nó thường hay xuất hiện theo chu kỳ, dùng để định Tâm, an Lạc. Có lẽ vì vậy mà người ta dùng chữ An lạc?
Các đường Kinh lại chia ra các đường Kinh nội và ngoại.
*Nội kinh là phần kinh của 14 đường Kinh,Mạch chính,quan hệ với Tạng phủ,chuyển dần sang các chi nhánh,Kinh Cân Âm và Kinh Cân Dương.Nội Kinh liên quan đến các tương quan,phản xạ,phát sinh Ngoại giao cảm,giữa Linh hồn,Vía,Phách và thể xác
* Ngoại Kinh :Là những kỳ huyệt để bổ xung cho các Kinh chính ,khi cần thiết dùng cho lúc nguy cấp. Ví dụ cụ thể như : có người đã bị chết lâm sàng,tiêm,chích thuốc theo Tây Y không được,nhưng dùng Đông Y có khi chỉ cần bấm,day,châm,cứu Huyệt thì bệnh nhân có thể sống lại được.Có rất nhiều kỳ Huyệt mà tùy trường hợp có thể hút Linh hồn của người mới chết ,trở về nhập vào cơ thể.Ngoại Kinh bao gồm cả nội quan thân thể.Có nhiều Kỳ huyệt nhạy bén,rất công hiệu,có thể cứu mệnh con người,trong nhiều trường hợp nguy cấp .Đời thường từ xưa đã từng chữa bệnh cứu người bằng phương pháp này,song họ vẫn cho đó là Thần bí.
Tóm lại có 2 Mạch chính là Nhâm,Đốc ;12 đường Kinh chính,15 đường Mạch Lạc,và vô số Huyệt.
Xin nói thêm về Huyệt :Có các Huyệt hợp và các huyệt Giao hội, đó là các giao hội với các Kinh Dương và âm.Có các loại Huyệt là Du huyệt,Mộ huyệt,Nguyên huyệt,Lạc huyệt,Khích huyệt..
Trong Võ thuật còn truyền lại các Huyệt Thần đạo Võ thuật.Theo người viết được biết :Có 36 Huyệt đạo Kinh, nếu vô tình hay hữu ý tác động vào thì bất cứ Huyệt nào trong số 36 Huyệt này đều có thể gây ra chết người .Các Huyệt đó rất nguy hiểm nên còn gọi là tử Huyệt. Ngoài ra còn có 72 Huyệt đạo Kinh phụ. Nếu tác động vào bất cứ Huyệt nào trong số những Huyệt này đều có thể gây tàn phế , tật nguyền, rất khó chữa trị. Đây là yếu hại Huyệt hay còn gọi là Nạn Kinh. Người viết chỉ sơ qua vài nét về Thần đạo Võ thuật cho dễ hiểu thêm về tầm quan trọng của Huyệt với Linh hồn và cơ thể con người. Khi tác động vào tử Huyệt ,các yếu hại Huyệt chính là bất ngờ dùng lực phá hủy hệ thống Kinh , Mạch, làm tan rã các kết nối giữa Linh hồn và cơ thể con người.Các hệ thống khác như Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc,gắn kết lục phủ , ngũ tạng của cơ thể lập tức bị rối loạn,mạnh thì dẫn đến tử vong ,nhẹ thì dẫn đến tàn phế,tật nguyền, rất khó chữa trị. Thần đạo Võ thuật gọi là Huyệt đạo kinh có liên hệ đến các Luân xa.
Theo nguyên lý " Con người là tiểu Vũ trụ " thì Âm Dương, Ngũ hành được phản ánh trong Đông Y rất rõ rệt.Các đường Kinh thứ nhất :Can -Đởm,Tâm -Tiểu trường,Tỳ -Vị,Phế -Đại trường,Thận -Bàng quang là năm cặp đại diện cho Ngụ hành.Ngòai ra còn hai đường Kinh bổ xung là Kinh Tâm bào và Kinh Tam tiêu.Tổng cộng 12 Kinh gọi là đường Kinh chính.Hai đường Kinh Tâm bào và Tam tiêu không có thành phần riêng của mình nên phải lấy từ các thành phần khác làm thành phần của mình
Mặt khác Kinh Tam tiêu được xem là Cha của các đường Kinh Dương,còn Kinh Tâm bào được xem là Mẹ của các đường Kinh Âm
Kinh Tâm bào có nhiệm vụ đặc biệt là bảo vệ Kinh Tâm.
Kinh Tam tiêu có nhiệm vụ đặc biệt là làm sứ giả của Mệnh Môn Hỏa.Mang Mệnh Môn Hỏa đến các vùng Thượng tiêu,Trung tiêu,Hạ tiêu.
Các đường Kinh được chia ra làm hai nhánh : Nhánh trái thuộc Dương (đối ứng với Bán cầu não Phải ),nhánh phải thuộc Âm ( đối ứng với Bán cầu não trái )
Từ đó các Huyệt được chia ra :Huyệt phía trái thuộc Dương,Huyệt phía Phải thuộc Âm.
Từ Lý thuyết về Đông Y như trên ta theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân hợp nhất rút ra Lý thuyết trong Phong thủy áp dụng cho Long ,mạch như sau :
Thuyết Phong thủy với cả hai phần Âm và Dương trạch quan niệm con người có quan hệ hữu cơ với Trời ,Đất, cả khi sống và cả sau khi chết (Huyệt mộ có thể ảnh hưởng đến nhiều đời con cháu sau này ).
Trở lại vấn đề trên sông Tô lịch, sau khi Cao biền Trấn, yểm dòng sông cứ càng ngày càng nhỏ lại, kết hợp với sự san lấp của người Pháp sau này,dòng sông Tô, trước chảy ra sông Hồng ở cửa Hà khẩu, nay bị chặn lại từ khúc Thụy khê ra tới sông Hồng. Kể từ đó sông Tô lịch phải đổi dòng chẩy ngược lại. Hiện nay sông Tô lịch chỉ còn chẩy từ khu vực Phường NGHĨA ĐÔ -QUẬN CẦU GIẤY -HÀ NỘI,theo thuận dòng chẩy ( Ta nhớ lại sự kiện trước Thành Luy lâu có dòng Nghịch thủy ) chẩy ra sông Nhuệ và cuối cùng mới đổ ra lại sông Hồng.Như vậy hiện nay,dòng chẩy của sông Tô lịch đi theo nhánh Bạch hổ đã nêu trên ( Thay vì chẩy theo nhánh Thanh long như ngày xa xưa ).Nhánh Thanh long thuộc Dương khí,đã bị ngăn,bế phần lớn nên từ khi đó cho tới nay chỉ có rất ít anh hùng hào kiệt được sinh ra ở khu vực dọc theo đường đi của nó.Ngược lại ,nhánh bạch hổ từ xưa cho đến nay ta chưa nghe có vụ trấn yểm nào được thực hiện,ngòai trường hợp cũng do Cao biền chê là vùng đất Thanh hóa,Nghệ an có một con rồng ( Long mạch )nhưng bị què nên không tiến hành trấn yểm.Hai nhánh Thanh long và Bạch hổ có cùng nguồn xuất phát từ Tổ sơn,nay nhánh Thanh long bị chặn lại một phần lớn nên gần như toàn bộ Nguyên khí được dẫn theo đường nhánh Bạch hổ.Theo nhận xét của người viết,kể từ đó về sau này,Thành Đại la bị mất Dương khí nên chẳng bao lâu bị xóa bỏ và thay vào đó là Thành Thăng long được xây dựng dựa trên khí Âm của nhánh Bạch hổ.Ta cũng để ý thấy một điều rất rõ ràng rằng :Trải qua hơn một ngàn năm từ khi có sự Trấn yểm của Cao biền,các vị Vua,tướng tài giỏi,các bậc hiền tài của Đất nước đều có nguồn gốc từ các vùng đất thuộc nhánh Bạch hổ mà ra.Các bạn có thể kiểm chứng điều này qua Lịch sử.
4. Biện pháp khắc phục sự việc trên như thế nào ? Người ta có thể hàn lại Long mạch như Thượng Tọa Thích Viên Thành đã thực hiện hay không ? Trường hợp khôi phục lại Bùa chấn yểm đó xấu hay tốt ?
Tới câu hỏi cuối cùng trong bài viết này,người viết tự nhận thấy vượt quá khả năng của mình nên rất mong đợi sự đóng góp của các Cao nhân,tiền bối trong và ngoài nước, ngõ hầu có thể cứu lấy một dòng Nguyên khí của Đất nước.Các câu hỏi đó là :Sau khi rút đạo Bùa Trấn yểm của Cao biền lên,Nguyên khí bị thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với Thủ đô HÀ NỘI nói riêng và Đất nước này nói chung ???Có thể hàn lại Long mạch như Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã làm không ?Khi Long mạch đã được phục hồi sẽ xẩy ra hiện tượng gì tiếp theo ?Có thể lại xẩy ra hiện tượng sụt lở đất như ngày xưa không ?
Tôi xin nêu thêm một vấn đề quan trọng có liên quan đến sự Trấn hoặc yểm sau này. Đó là hành Khí của khu vực bị Trấn yểm và độ số của nó. Theo nhận xét của riêng người viết,khu vực đó thuộc phía Tây của La thành nên có hành Khí là Dương kim và độ số của nó là 9.Như vậy ta cũng thấy rằng khi tiến hành trấn yểm, Cao biền cũng biết rất rõ điều đó ,chỉ có sai lầm về độ số của phương Tây . Theo sách cổ chữ Hán đến tận ngày hôm nay,phương Tây thuộc Kim và có độ số theo Lạc thư là 7. Đó là sai lầm cơ bản của cổ thư chữ Hán và tất nhiên khi ứng dụng thì Cao biền sẽ sai theo. Theo người viết được biết,tại một số vùng của đất Phong châu ngày xưa,các nhà Phong thủy vẫn áp dụng tính độ số khi ứng dụng những việc cụ thể trong Phong thủy theo Hà dồ và số của Hậu thiên Bát quái.Như vậy theo người viết, phương Tây có hành Khí Dương Kim và độ số là 9 mới chính xác.Lạc thư và độ số Tiên thiên Bát quái chỉ áp dụng cho những vấn đề có tầm vóc Vĩ mô như khi tính toán các dải Ngân hà,Thiên hà, có tầm vóc Vũ trụ.Để có thể trấn được khu vực bị hở của Long mạch,theo thiển ý của người viết,nên dùng hình thức Trấn -Tức là đè lên vùng bị hở theo đúng quy luật Âm dương Ngũ hành.Ta có thể dựng một cây cầu Sắt có 9 nhịp hay 9 cột sắt,hoặc có cái gì đó có biểu tượng cho số 9 đè lên khu vực đã rút đạo Bùa .Theo những tin tức gần đây nhất,sự phát sinh các việc kỳ lạ như đã nêu ở trên,cũng chỉ gói gọn như những việc đã xẩy ra.Như vây ta thấy rằng Long mạch không còn thoát Khí ra nữa.Nguyên nhân là Khu vực đó qua thời gian bị phong tỏa, bế Khí quá lâu (Gần 1200 năm ),luồng Nguyên khí đã có sự thay đổi,cũng không loại trừ đã có sự trấn,yểm lại của một số nhà Phong thủy tài ba giấu mặt.Tôi từng chứng kiến một vài lần khai mở những Huyệt đạo bị Trấn yểm của các nhà Phong thủy Việt nam ẩn danh. Ta cũng nhận thấy rằng (không biết có phải do trùng hợp hay không ):Kể từ ngày đạo Bùa được Khai mở,vùng dọc theo nhánh Thanh long đã phát triển rất mạnh mẽ.Từ rất lâu đời,các vùng này là khu vực Nông thôn lạc hậu,nay đã vươn mình trở thành hàng loạt khu chế xuất hiện đại.
( Nể tác giả bài viết này luôn. Nhờ đó mà tôi biết thêm nhiều kiến thức về trấn yểm )