Tuyển Tập Nam Cao

Nỗi truân chuyên của khách má hồng

Suốt đêm hôm ấy, ông thầy thuốc Nguyễn Văn Thinh không sao ngủ được. Tôi hỏi ông rằng: sáng mai ông đi cưới vợ ông rồi thì đêm nay ông có ngủ được không? Ông có là thánh, tôi chắc là ông cũng không ngủ được!

Ông thầy thuốc Nguyễn Văn Thinh không là thánh. Ngày mai là ngày ông được ra thề với các quan Tây. Đó là điều kể ra thì cũng không thú vị gì… – Thề thốt làm chi cho nó nặng lời! Nhưng thú vị ở chỗ thề xong, ông tức khắc trở thành thủ tướng kiêm nội vụ. Thủ tướng kiêm nội vụ, ngài nghe rõ chưa? Ông thầy thuốc Nguyễn Văn Thinh tưởng có thể điên người lên được.

– Thủ tướng kiêm nội vụ… Thủ tướng kiêm nội vụ…

Ông thầy thuốc Nguyễn Văn Thinh cười lặng tiếng một cái cười rộng lớn, nhắc đi nhắc lại một cách say sưa như vậy. Hai bàn tay múp míp của ông, mở rộng ra, khoát một cái hình tròn trước mặt ông. Ông vuốt ve trong tưởng tượng cái thủ tướng kiêm nội vụ hiện hình thành khối.

– Thủ tướng kiêm nội vụ!… Thủ tướng kiêm nội vụ!…

Ông thầy thuốc Nguyễn Văn Thinh nhắm hẳn hai mắt lại, rên lên những tiếng sung sướиɠ ấy, đúng như một anh chàng dâʍ ɖu͙© rên lên ở trong ngực một ả giang hồ: “Thủ tướng kiêm nội vụ!… Thủ tướng kiêm nội vụ!…”

Ông lịm đi một phút. Người không biết đã tưởng ông mệt quá, chợp mắt làm một giấc. Nhưng bỗng ông bật người lên như một con lật đật. Cái lò xo giường tung ông ra khỏi giường. Ông vội vã đi lại gần cái tủ áo có gương kê ở một góc nhà. Một hình người múp míp hiện ra trong gương, với một bộ mặt phởn phơ. Cái mặt mãn nguyện ấy mỉm cười, mấp máy môi. Ông Nguyễn Văn Thinh nhắc lại câu điệp khúc yêu quý của ông: “Thủ tướng kiêm nội vụ!… Thủ tướng kiêm nội vụ!…”

Ông mở tủ. Từng chồng quần áo cao ngất hiện ra. Ông Nguyễn Văn Thinh gật gù nhìn từ trên xuống dưới, lại từ dưới lên trên.

Ông lục chồng này lại chồng kia. Ông lần lượt lấy ra ngắm nghía, rồi lại cất vào ba cái sơ mi. Đến cái thứ tư thì ông tạm vừa lòng. Một tay ông giơ nó ra xa, ông ngả đầu về đằng sau, ngắm nghía. Mồm ông cười một cái cười xếch lên đến mang tai. Đôi mắt híp lại, ông vừa gật gật đầu, vừa lẩm bẩm: “Cũng phải thế này mới coi được chứ! Thủ tướng kiêm…”.

Ông giật mình. Một hồi chuông gắt gỏng đã phạt đứng một mẩu câu nói của ông. Ông lắng tai nghe. Mặt hơi tái đi một chút. Ai? Ai có thể đến vào lúc khuya khoắt thế này? Máu ông như ngừng lại, lạnh giá trong huyết quản, tuy mồ hôi ông toát ra đẫm trán. Nghe tiếng người bồi dậy, ông vội vàng gọi hắn:

Bồi!

Me-xừ!

Viens ici! (Vào đây!) Anh bồi vào

Chi vậy?

Ông thở ra hai tiếng ấy thì đúng hơn là ông nói: hai tiếng nói bị hơi thở hổn hển đẩy ra. Mắt ông như mắt một người mất vía…

Chi vậy mày? – Ông nhắc lại

Bẩm có chuông kêu cứu

Ai kêu cứu?

Dạ, chưa biết… Để ra coi…

Nè!

Ông nắm lấy tay áo anh bồi, giữ lại, thì thầm bảo:

Coi chừng, nghe không! Ngó cẩn thận rồi hãy mở. Tụi nó ghê lắm đó.

Dạ!

Anh bồi cố giấu một nụ cười mai mỉa rồi lui ra. Ông Nguyễn Văn Thinh ngồi thịch xuống một cái ghế bành, thở hắt ra một tiếng lớn, giơ một tay lên và lắc đầu chán nản. Tụi chúng nó thật là khó chịu! Sao không muốn làm Tây, lại cứ khăng khăng làm người Việt Nam!

Anh bồi vào…

Bẩm, một người to lớn, mặc quần áo quan võ, đeo nhiều mề đay lắm, tự xưng là đại tá… Ông sửng sốt:

Tự xưng là đại tá? Người Việt Nam hay người Pháp?

Bẩm, không thể biết, bởi vì trông cũng giống như bác sĩ.

Ông Nguyễn Văn Thinh chợt nhớ ra

– A! Vậy thì chắc là ông Côlônen Xuân. Đúng rồi. Ra mời ông vô.

Anh bồi ra rồi, mặt ông thầy thuốc có vẻ băn khoăn, lo lắng. Ông Xuân đến làm gì khuya khoắt thế?

Hay là lại có sự đổi ý kiến gì của ông quan Tây chăng?

Đại tá Nguyễn Văn Xuân. Ông đúng như anh bồi tả thật: to lớn, mặt đỏ gay, mũi chính thật không lõ nhưng ông đã cố kéo ra cho nó lõ, ngực nhiều mề đay ngang với ông Tạ Duy Hiển, khi ông này cầm roi

điện ra bắt hổ nhảy qua vòng lửa.

Chẳng kịp chào nhau, ông Nguyễn Văn Thinh vội hỏi:

Thế nào? Lành hay dữ? Có việc chi mà đến chơi khuya thế?

Có việc này, cần lắm…

Chợt trông thấy chiếc áo của ông Thinh còn mở và chiếc sơ mi lúc nãy ông đã vất tạm lên chiếc ghế, ông Xuân hỏi:

Định đi đâu hay sao mà thay áo thế? Ông Thinh hơi bẽn lẽn:

À!… Không!… Tôi định lấy lễ phục mặc thử, rồi tập đọc những lời tuyên ngôn ngày mai xem nó ra thế nào. Phải tập cho quen, lúc đọc trông ra vẻ một chút. Xập xệ, người ta cười cho chết. Thủ tướng kiêm nội vụ kia mà! Quan trên trông xuống, người ta trông vào. Có phải không ông phó?

Trời ơi! Giá ông biết việc gì vừa xảy ra!…

Ông Thinh hoảng hốt:

– Việc gì? Việc gì vậy?

Người Pháp định không cho chúng mình thề vội.

Không cho chúng mình thề vội? Sao lại có thể vô lý như thế được? Họ sợ chúng mình trung thành với họ quá chăng?

Thì chính thế. Thí dụ như tôi chẳng hạn, ai còn biết tôi trung thành với họ hơn chó “béc-giê”? Trong lúc tất cả người Việt Nam vùng dậy chống họ, thì một mình tôi lủi vào thành với họ, dạy họ tập giáo, tập gậy để đánh người Việt Nam.

Ngờ rằng Nguyễn Văn Xuân kể công như vậy là có ý tranh ngôi thủ tướng của mình, bác sĩ vội bảo:

Tôi còn trung thành với họ bằng mười ông ấy, ông bạn ạ. Trong thời kì người Nhật ở đây, các quý phu nhân còn cần phải giao thiệp với họ nhiều, tôi đã phải đem hết tâm lực ra mà phụng sự những người bỏ nước Pháp để phụng sự quân đội của đức Thiên Hoàng ấy. Như thế là tôi trung thành với họ cả trong sự không trung thành của họ.

Ấy thế cho nên chúng mình mới hỏng. Chúng mình là những con đĩ lữa quá rồi. Họ muốn có những con đĩ kín đáo hơn một chút để có thể lòe thiên hạ là vợ chứ không phải là hạng đĩ.

À! Ra vậy!

Bây giờ thì ông bác sĩ mới vỡ lẽ như vậy. Ông thâm tím mặt. Ông thâm tím hai tai. Ông sắp thâm tím cả đến hai bàn tay thì may sao đại tá Xuân lại bảo:

Nhưng mà phúc làm sao lại chỉ có bọn mình là trung thành với họ thôi. Họ không biết làm sao đành lại ưng để cho bọn mình thề vậy.

Ừ, thế chứ!

Bác sĩ Thinh vỗ tay xuống đùi, đắc ý, cười lên ha hả. Ông bảo tiếp:

Ta cứ thách già họ tìm được những người Việt Nam ghét người Việt Nam hơn chúng mình. Một đồng nghiệp của tôi đấy, ông Xuân ạ. Họ mua chuộc chân không được, xoay ra dọa dẫm, có ép hắn đứng ra đòi Nam Kỳ cho họ. Hắn trốn đi. Họ chỉ còn một cách là đốt nhà hắn cho hả giận. Ông xem đấy: tìm được những người như chúng mình có phải là dễ đâu?

Đã đành!… Nhưng trách móc họ có ích gì? Chúng mình đã nhất định trung thành với họ thì chúng mình cứ trung thành…

Ông Nguyễn Văn Thinh lại vội vàng giơ cả hai bàn tay ra trước mặt như phân bua với bạn.

Vâng, vâng… Chính thế! Tôi thề với ông rằng tôi rất trung thành với họ. Tôi mà dám trách họ thì tôi không phải là tôi nữa. Có ông biết đấy!

Đại tá Xuân mỉm một nụ cười mỏi mệt.

Vâng, tôi biết lắm. Nhưng tôi đến đây để hỏi xem ông đã sửa soạn gì chưa?

Có rồi! Có rồi! Đủ cả… Ông Thinh bảo vậy

Quốc kỳ?

Đã! Đã! Các quan Tây đã đưa kiểu cho tôi chế tạo.

Cái cờ vàng có ba gạch xanh giữa hai gạch trắng ấy à?

Vâng, các quan đưa cho tôi hôm ấy có cả ông ở đấy đấy.

Ông có hiểu ý nghĩa của nó ra thế nào không?

Hiểu lắm chứ! Thế ông không nghe các quan Tây bảo đấy à? Màu vàng là màu Việt Nam.

Nhưng chúng mình còn là Việt Nam đâu?

Không biết, nhưng các quan Tây bảo thế tất nhiên là như thế. Ba gạch xanh là con sông Cửu Long Giang.

Đại tá Xuân lắc đầu:

– Tôi ngờ rằng họ xỏ chúng ta. Có lẽ chính ra màu vàng là màu hoàng kim, tổ quốc của bọn mình, còn màu xanh là màu mắt các bà đầm, vì là màu mắt nên mới viền thêm tí trắng.

Ông thủ tướng kiêm nội vụ tương lai trở nên nghĩ ngợi. Đại tá Xuân bảo tiếp:

Cả Quốc ca cũng thế. Tôi ngờ rằng anh chàng nhạc sĩ cũng muốn xỏ chúng mình. Ông nghe nhé!

Thủa trời đất nổi cơn gió bụi

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên

Xanh kia thăm thẳm từng trên

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này!…

Đúng là giọng một con nhà thổ ế vào hồi loạn lạc.

Ông thủ tướng vẫn cúi đầu nghĩ ngợi, sau cùng ông tặc lưỡi.

Chà! Thì đã sao! Tôi hỏi ông, ông có muốn làm phó thủ tướng kiêm phó nội vụ không? Đại tá Xuân toét miệng ra cười

Tôi đùa ông đấy. Thật ra thì tôi cũng nghĩ rằng cái gì các quan Tây bảo đều tốt cả. Chúng mình chỉ việc nghe là có phận nhờ đấy. Tôi đã mạn phép ông đi lùng được một bọn đào kép ở Phú Nhuận trước để ngày mai chúng nó cử Quốc ca.

Ấy chết! Ấy chết!… Thủ tướng Thinh trợn tròn hai mắt, xua tay lia lịa và kêu lên như thế.

Sao vậy?

Bọn cô đầu ở nước Bắc Kỳ vào cả đây.

Đại tá Xuân mỉm cười, trợn mắt, đập mạnh nắm tay xuống bàn một cái.

Chẳng hề chi cả! Tôi sẽ ra lệnh cho chĩa hết súng vào mặt chúng. Đứa nào lếu láo là… “Đoàng!” một phát cho về âm phủ mà đòi Việt Nam thống nhất. Ông hiểu chưa?

Ông sùi bọt mép, mắt quắc lên, nảy lửa. Bác sĩ Thinh tái mặt đi, run cầm cập, cười gượng để lấy lòng nhà võ:

– Vâng… vâng… ông nói phải. Ông không kém gì Hítle.

Hai người bắt tay nhau. Ông Thinh chỉ tay trái vào ngực mình, mỉm cười dõng dạc

Thủ tướng kiêm nội vụ Ông Xuân cũng làm như vậy

– Phó thủ tướng kiêm phó nội vụ

Rồi hai người cùng ngả nghiêng cười ha hả.

– Hà hà!… Nam Kỳ tự trị và tự do…

Sáng hôm sau, lễ tuyên thệ cử hành rất long trọng trong thành phố Sài Gòn. Người đến dự khá đông. Người ta đếm được sáu ngàn một chục người, trong đó có mười ông Chính phủ (ông Lưu Văn Lang không hiểu vì cớ gì vắng mặt) và sáu ngàn lính kín chuyên việc giữ tự do cho địa hạt Sài Gòn – Chợ Lớn. Ấy là chưa kể một đoàn ca nhạc gồm một kép ba đào, một đội lính Pháp có xe tăng với liên thanh và mấy quý quan người Pháp.

Đúng giờ, ông Lơ-cờ-léc, nụ cười hóm hỉnh ở trên môi, một tay dắt bác sĩ Thinh, một tay dắt đại tá Xuân lên đài. Công chúng – cái công chúng toàn là lính kín – nhìn nhau: anh nào cũng nghĩ đến việc nhìn xem người bên cạnh mình có tỏ ý phản đối không. Thành thử không ai nhớ vỗ tay. Bọn lính Pháp chĩa súng vào đám đông, hô:

– Vỗ tay đi, không ta bắn!

Tức thì tiếng vỗ tay nổi lên như pháo nổ. Đại tá Xuân ưỡn cái ngực mề đay ra. Bác sĩ Thịnh cười chúm chím, đung đưa đôi mắt. Bọn lính Pháp lại hô:

– Im! Im không ta bắn!

Tức thì im. Súng chĩa vào bọn cô đầu. Đàn nổi điệu phưng phưng. Tiếng ca ai oán của “khách má hồng” cũng nổi lên theo hòa với tiếng đàn. Lá cờ màu vàng điểm mắt xanh từ từ kéo lên như một tấm khăn người ta vừa rút ở trong một cái hộp quỷ thuật ra.

Giữa lúc ấy thì ông Nguyễn Văn Tâm, nguyên chủ huyện Cai-Lậy, tỉnh Mỹ Tho hiện giờ giữ chức tổng trưởng phụ trách chính trị, lật đật ở đâu chạy đến. Tay ông cầm một cái hộp có nắp kín, to bằng cái hộp bánh bích quy.

Xin lỗi các ngài! Tôi đến hơi muộn quá! Nhưng tôi còn phải cố tìm cho được cái bảo vật này. Ông vừa giơ cái hộp của ông ra, vừa bảo vậy. Mọi người ngơ ngác.

Hộp gì? Ấn ngọc chăng? Hay bạc giấy? – Ông lắc đầu, cười

Sai! Sai! Thưa các ngài đoán sai tất cả. Bẩm, chính là tổ kiến. Vâng, tổ kiến! Tổ kiến để trị những đứa nào cứ khăng khăng quay về tổ quốc.

Công chúng, dù chỉ là cái công chúng toàn lính kín, bật cười. Ông quắc mắt lên.

Chúng bay cười? Trói cổ những đứa nào cười lại cho ta! Bỏ tổ kiến vào ống quần chúng nó, thắt cho chặt lại.

Ý chừng ông chợt nhớ ra bọn người đứng đấy toàn là thủ hạ của ông, ông hơi bẽn lẽn, nhưng vốn nhanh

trí vội quát tiếp một câu, chữa thẹn:

Quân này ngu quá! Chỉ biết cười! Ngoài kia, chỗ nào cũng nhan nhản những đứa đòi thống nhất Việt Nam, không biết đi tóm cổ mấy mụ đàn bà về để ta cho kiến đốt chơi!

Bọn lính kín dạ ran. Một lát sau, một bọn lôi về một xâu đến chín, mười người đàn bà quần áo khá sang. Nguyễn Văn Tâm hếch mũi lên, hít vào, như một con thú dữ đánh hơi thấy mồi ngon. Đôi mắt vọ của y sáng lè lên. Y cầm cái hộp, xăm xăm chạy ra đón sẵn.

Nhưng khi y tiến đến chỗ chỉ còn cách những người đàn bà chừng mười bước, y bỗng dưng dừng lại, há hốc mồm. Ôi chao! Y lóa mắt chăng? Này đây là bà Nguyễn Văn Thinh, bà Trần Văn Tánh… các bà Nguyễn Thành Lạp, Bảo Toàn, Nguyễn Thành Vinh… đủ mặt các bà chồng có chân trong Chính phủ Nam Kỳ tự trị. Lại có bà Nguyễn Văn Tâm nữa mới chết người ta chứ! Bọn lính kín này định xược ông tổng trưởng Nguyễn Văn Tâm đây phỏng.

Mở đầu, ông Nguyễn Văn Tâm nổi giận. Rồi bỗng ông sợ hãi. Ông lấm lét nhìn thật nhanh về phía các quan Tây, rồi cuống quýt nhìn đó, nhìn đây như muốn tìm một cái lỗ nẻ để chui, sau cùng ông đành phải quát bọn lính kín quá ư sốt sắng kia:

Chúng bay đáng chém đầu! Ta bảo chúng bay đi bắt những con mụ nào đòi Nam Kỳ là đất Việt Nam kia mà!

Bọn lính kín nhao nhao thưa một lượt.

Bẩm chính những mụ này đi biểu tình, đòi Nam Kỳ phải là đất Việt Nam đấy.

Bậy nào! Chúng mày không biết đây toàn là những bà vợ của các ông tổng trưởng đấy ư?

Bọn lính kín đứng sững người, chưa biết đáp ra sao thì chính bà Nguyễn Văn Tâm đã sấn sổ bước lên, chỉ vào tận mặt chồng:

Phải, chúng tôi chính là vợ của các ông đây. Nhưng vợ các ông cũng không muốn chịu lấy cái nhục bán nước của các ông. Vợ các ông ăn cơm hẳn hoi, chứ không ăn bẩn bao giờ nên không lú lẫn cho Nam Kỳ không phải là đất Việt Nam, người Nam Kỳ không phải cùng nòi giống với tất cả người Việt Nam ở Bắc, Trung và giở trò đòi Nam bộ tự trị để bán đất nước, bán đồng bào cho người ngoài.

Ông tổng trưởng Nguyễn Văn Tâm chết đứng như Từ Hải. Cái hộp tổ kiến từ cái bàn tay rã rời của ông buột rơi xuống đất. Người ta vội khiêng ông vào nhà thương Sài Gòn tiêm.

Nam Bộ, ngày 9-6-1946

Tiền phong 1946