Hắc Bạch Hương Hồ Ký

Chương 2: Xuất đạo tầm hung phùng lưỡng xú - Hương Sơn Thần phủ tảo tà ma

Giữa tháng mười năm ấy, trong thành Lạc Dương xuất hiện một chàng kỵ sĩ võ phục gấm xanh diêm dúa, ngoài khoác áo khinh cừu dài đến gối.

Chàng trai này có thân hình cao lớn, tay dài quá gối, trồng rất oai vệ. Trên gương mặt anh tuấn điềm tĩnh kia có hàng ria mép phong nhã, được tỉa tót cẩn thận.

Do Tư Đồ Sảng chỉ quanh quẩn trong cánh rừng Cửu Tuấn để luyện võ nên rất ít người nhẵn mặt. Vì vậy, chắc chắn là kẻ thù cũng không thể biết được. Về mặt vũ khí và võ công thì cũng không đáng ngại vì những thứ ấy chưa hề xuất hiện trên giang hồ.

Giờ thì chúng ta hãy cùng chàng trai tội nghiệp kia thưởng thức rượu thịt của tòa tửu quán số một đất Lạc Dương.

Mùa thu Hoa Bắc se lạnh nên mới đầu giờ Tỵ mà số người uống rượu đã khá đông. Đa số khách giang hồ là vua nhậu. Rượu được tôn là thánh thủy của trời đất, chỉ trừ các nhà sư ra, kỳ dư đều không kiêng kỵ, kể cả giới đạo sĩ.

Tư Đồ Sảng cũng biết uống rượu vì mùa đông dưới chân núi Cửu Tuấn rất khắc nghiệt. Từ năm mười bốn tuổi chàng đã đủ sức thay cha mẹ vào rừng đốn củi.

Trước khi đi, chàng thường được mẫu thân rót cho một chung lớn để ngự hàn.

Lần đầu xuất đạo, chàng trai sơn dã, quê mùa vô cùng bỡ ngỡ, hoang mang.

Những chỉ dẫn gấp gáp của Lý Tứ chẳng thể biến chàng thành kẻ lịch duyệt ngay được. Cách đối phó với đời hữu hiệu nhất là ít nói và chịu khó quan sát. Do vậy, Tư Đồ Sảng lặng lẽ ăn uống và lắng nghe.

Thế chàng ta đến Lạc Dương để làm gì? Xin thưa rằng Tổng đàn võ lâm tọa lạc ở chốn này, tất nhiên là ở ngoại thành, trên sườn núi Hương Sơn, cạnh bờ sông Y Thủy.

Thành Lạc Dương nằm trong bồn địa, giữa sông y Thủy và Lạc Thủy, từng là kinh đô của chín triều đại Trung Hoa, được ca ngợi là “Cửu Triều Danh Đô”.

Những triều đại ấy gồm: Đông Chu, Đông Hán, Tào Ngụy, Tây Tấn, Bắc Ngụy, Tùy (đời Tùy Dạng Đế), Đường (đời võ Tắc Thiên), Hậu Lương, Hậu Đường. Các triều đại khác khi đóng đô ở Trường An thì luôn luôn chọn: Lạc Dương là kinh đô phụ.

Lạc Dương có rất nhiều di tích danh thắng nổi tiếng, song lẫy lừng nhất chính là quần thể Long Môn Phật Động trên núi Long Môn ở bờ bên kia sông Y Thủy, đối diện với Hương Sơn.

Công trình điêu khắc vĩ đại này khởi đầu từ thời Bắc Ngụy kéo dài bốn trăm năm, kiến tạo liên tục.

Núi Long Môn có nhiều hang đá tự nhiên, rất thuận lợi cho việc tạc tượng, lớn nhất là các động Cổ Dương, Tân Dượng, Liên Hoa. Tổng cộng trên núi Long Môn có đến hơn hai ngàn một trăm Khám Phật, mười vạn bức tượng Phật lớn nhỏ và hơn ba ngàn bia ký. Tróng đó có bức tượng phật cao to nhất được tạo vào thời Võ Tắc Thiên nhà Đường, gọi là Đại Cô Xá Phật tượng. Tượng này cao gần năm trượng hai xích (17,14 mét) riêng đầu tượng đã cao đến hơn một trượng hai xích.

Nhưng liệu quần thể Long Môn Phật Động có liên quan gì đến câu chuyện của chúng ta hay không? Thưa rằng có! Nơi ấy chứa đựng một bí mật trọng đại của võ lâm. Hơn trăm năm nay vẫn lưu truyền lời đồn đại rằng núi Long Môn cất giấu tuyệt học của Vạn Tùy lão nhân.

Vạn Tùy lão nhân là một bậc cao tăng phái Thiền Tông của thời Kim và Nguyên, ông có pháp hiệu là Hành Tú, vốn quê ở Hà Nội Giải, phía nam Lạc Dương. Chính vì thế mà võ lâm Trung Nguyên cho rằng vị cao thủ số một kia giấu tuyệt học trên núi Long Môn.

Sau khi tồ sư phái Toàn Chân Vương Trùng Dương tọa hóa thì Vạn Tùy lão nhân là thiên hạ đệ nhất cao thủ. Chính Phúc Châu Thần Kiếm Tư Đồ Xán, chú ruột của Tư Đồ Sảng, cũng vì việc ấy mà dựng Tổng đàn võ lâm trên núi Hương Sơn.

Thế tại sao lão ta không chiếm quách núi Long Môn cho tiện? Bởi thực ra những động Phật kia có cả ở núi Hương Sơn. Nghĩa là phần lớn các động ấy được đυ.c trên vách đá của núi Long Môn và Hương Sơn, dọc theo hai bờ sông Y Hà.

Lý do thứ hai là vì núi Long Môn là thánh địa Phật giáo, được quần triều đình canh gác, chăm sóc, làm sao Tư Đồ Xán lên đấy dựng nhà được?

Hương Sơn vắng vẻ, hoang vu hơn nên chẳng ai chú ý đến trừ những người tìm kiếm di học của cổ nhân. Năm năm qua, trong cương vị Minh chủ, Tư Đồ Xán đã xây dựng Tổng đàn thành một cơ ngời khang trang, rộng rãi. Tất nhiên tiền bạc là do các phái trong thiên hạ đóng góp lại.

Hương Sơn ở phía Nam thành Lạc Dương, cách độ hơn hai chục dặm, và Lạc Dương chính là cửa ngõ của Tổng đàn võ lâm. Tư Đồ Xán chiếm Hương Sơn để độc quyền điều tra khu Long Môn Phật Động, chứ thực ra mọi sinh hoạt của lão đều ở trong thành Lạc Dương.

Ngoài tòa gia trang đồ sộ Tư Đồ Xán còn sở hữu một võ trường rất lớn tên gọi Võ Lâm Học Hiệu. Cả hai cơ ngơi ấy đều nằm trên phế Vĩnh Ninh. Phố này mang tên như thế vì có chùa Vĩnh Ninh, một kiến trúc cổ kính thời Bắc Ngụy.

Trước đây, Thiếu Lâm tự là lò võ lớn nhất Trung Nguyên, mỗi năm đào tạo hàng trăm cao thủ tục gia. Nhưng từ khi Phúc Châu Thần Kiếm khai trương Võ Lâm Học Hiệu thì chùa Thiếu Lâm bị ế ẩm, chẳng mấy người theo học. Lý do rất đơn giản là vì Tư Đồ Xán đã từng đả bại cao thủ số một của Thiếu Lâm tự mà giành lấy ngôi Minh chủ. Tung Sơn đại hiệp Bàng Nam Sách, đệ tử tục gia đời thứ nhất, sư đệ của phương trượng chưởng môn Giám Tuệ đã bị Tư Đồ Xán đâm thủng ngực phải nhưng không chết.

Lệ phí của Võ Lâm Học Hiệu rất cao nên chỉ có bọn con cái nhà giầu là vào được. Nhưng Võ Lâm Học Hiệu lúc nào cũng đông nghịt học sinh vì tính hiệu quả của sự giảng dạy. Ai cũng khen rằng học ở đây một năm võ nghệ sẽ tăng tiến bằng học hai năm trên núi Thiếu Thất!

Vậy phải chăng Tư Đồ Sáng đến Lạc Dương để do thám Tư Đồ gia trang hoặc trà trộn vào Võ Lâm Học Hiệu? Xin thưa rằng hai việc ấy đều không cần thiết vì sẽ chẳng mang lại kết quả gì? Chàng trai mồ côi của chúng ta đến đây tìm một nhân vật có tên là Tích Dịch Quỷ (Ma Thằn Lằn) Tây Môn Giới. Lão ta tuổi độ lục thập, vốn là bào đệ của chưởng quữ Lý Tứ.

Tây Môn Giới lừng danh trong làng đạo tặc Trung Nguyên với công phu Bích Hổ Du Tường có một không hai. Cái mỹ danh Tích Dịch Quỷ chính là sự ca ngợi của anh em trọm cướp.

Song Tây Môn Giới không chỉ giỏi nghề trèo tường mà còn là kẻ đa mưu túc trí, xảo quyệt tuyệt luân. Lý Tứ biết rằng chỉ có gã bào đệ quỷ sứ này là đủ tài giúp đỡ Tư Đổ Sảng. Tích Dịch Quỷ có thói quen ăn nhậu ở Lạc Thành Đại tửu điếm nên Lý lão đã bảo cháu mình đến đấy tìm.

Tây Môn Giới có tài biến hóa vô song, lúc nào cũng cải trang, vì vậy, dẫu Tư Đồ Sảng có nhìn thấy cũng chẳng thể nhận ra. Nghĩa là chàng phải chờ lão tự động tìm đến khi nhìn thấy chiếc trâm bạc trên búi tóc chàng.

Chiếc ngân trâm này có đuôi khắc hình thằn lằn, vốn là tín vật của Tây Môn Giới tặng cho Lý Tứ. Bọn đàn em của Tích Dịch Quỷ nhìn thấy ngân trâm ất sẽ thông báo ngay cho chủ tướng.

Lạc Dương chính là sào huyệt của Tích Dịch Quỷ. Quả nhiên, Tư Đồ Sảng vừa ăn xong bữa thì có gã hán tử áo gấm đen sang trọng đi ngang bàn và nói mau :

- Trước cổng chùa Bạch Mã!

Nói xong, gã rời tửu điếm ngay và không hề ngoái lại. Tư Đồ Sảng mừng rỡ gọi tiểu nhị tính tiền. Hai khắc sau, chàng đến chỗ hẹn, gặp lại hán tử áo đen và được nghe chỉ thị thứ hai :

- Công tử hãy vào trọ trong tòa Xuân Phong lữ điếm bên kia đường và chờ ở đấy, không được ra ngoài.

Tư Đồ Sảng ngoan ngoãn vâng lời đối phương. Chàng tắm gội xong lên giường nằm suy nghĩ, tưởng nhớ đến song thân mà lệ thảm tuôn ướt gối.

Quá ngọ mới có người gõ cửa phòng Tư Đồ Sảng nhưng không phải gã áo đen lúc trước. Người khách này có vóc dáng mảnh khảnh, tuổi độ bốn mươi, mặc áo xanh học trò, đầu đội nho cân mầu đen.

Ông ta thản nhiên ngồi xuống chiếc ghế đẩu cạnh bàn rồi lạnh lùng hỏi :

- Vì sao ngươi có được cây Tích Dịch ngân trâm kia?

Tự Đồ Sảng điềm đạm đáp :

- Tại hạ là Tư Đồ Sảng, cháu củaTứ Xuyên Đại Đạo Lý Khởi Tập.

Thì ra chưởng quỹ Lý Tứ lại chính là cao thủ khét tiếng vùng Tây Thục.

Nghe xong, ánh mắt của khách sáng lên niềm vui nhưng gã vẫn hỏi lại :

- Thế ngươi có biết cách nhận dạng Tích Dịch Quỷ hay không?

Tư Đồ Sảng gật đầu :

- Có! Gia thúc công bảo rằng phía dưới rốn của Tích Dịch Quỷ có một nố ruồi son lối lớn bằng hạt đậu.

Gương mặt của vị khách giãn ra, ả cười rất tươi :

- Chính là Tây Môn Giới đây! Chẳng hay Lý đại ca có gửi thư cho ta không?

Tư Đồ Sảng hoan hỉ đáp :

- Bẩm có !

Sau khi đọc xong thư của Lý Tứ, Tây Môn Giới hỏi han Tư Đồ Sảng rất kỹ.

Lão cau mày suy nghĩ rồi nói :

- Lão phu cũng đồng ý với Lý đại ca rằng hung thủ không phải là Phúc Châu Thần Kiếm Tư Đồ Xán. Hiện nay uy quyền của lão ta bao trùm võ lâm, không hề sợ lời tố cáo của lệnh tôn. Vả lại, chuyện ấy đã quá xa xưa rồi. Do đó, lão phu thiên về giả thuyết rằng phe đối phương là người hay một tổ chức mang chữ “Quỷ” hoặc đeo mặt nạ ma quái cho nên lệnh đường mới di ngôn lại như thế.

Tích Dịch Quỷ nhấp hớp trà rồi nói tiếp :

- Lão phu còn đoán rằng trước đây lệnh tôn từng va chạm hoặc gia nhập tổ chức ma quỷ ấy. Vậy thì, có lẽ rằng khi ly khai họ lệnh tôn đã mang theo một bí mật kinh người nào đó nên đã hơn hai mươi năm mà vẫn không thoát khỏi sự truy tầm.

Trước giờ, Tư Đồ Sảng cứ đinh ninh kẻ thù là chú ruột mình. Giờ nghe Tây Môn Giới phân tích, chàng rất hoang mang, bối rối, liền thở dài bảo :

- Tây Môn đại thúc! Thế thì tiểu điệt phải tìm hung thủ ở đâu?

Tây Môn Giới nghiêm giọng :

- Hiện nay trong võ lâm có đến mấy chục cao thủ mang chiêu bài chữ “Quỷ” Còn bang hội thì có những nơi như Quỷ cung ở Giang Tây, Quỷ cốc ở Tứ Xuyên, Quỷ bang ở Sơn Đông. Tuy nhiên, khả nghi nhất là một tổ chức khủng bố thần bí mang tên “Quỷ Ảnh hội”. Ba chục năm nay, “Quỷ Ảnh hội” đã gϊếŧ chết hàng ngàn người, cướp đi mấy trăm vạn lượng vàng. Khổ thay, hành tung của họ cực kỳ bí mật nên không ai biết được chút lai lịch nào. Hiện nay, Tổng đàn võ lâm đã treo giải thưởng năm trăm lượng vàng cho bất cứ ai cung cấp tin tục về sào huyệt của “Quỷ Ảnh hội”!

Tư Đồ Sảng càng thêm thất vọng, đau đớn nói :

- Nếu hung thủ đúng là “Quỷ Ảnh hội” thì mối thù này lại càng vô phương báo phục! Chúng ẩn hiện như ma quỷ làm sao tiểu diệt tìm ra được?

Chàng bỗng ngẩn người vì kinh ngạc khi nghe Tích Dịch Quỷ nói :

-Lão phu có cách giúp ngươi tìm ra “Quỷ Ảnh hội”!

Tư Đồ Sảng mừng đến ứa nước mắt, chắp tay vái dài :

- Nếu được vậy thì tiểu điệt nguyện suốt đời ghi tâm khắc cốt ơn trọng của đại thúc.

Tây Môn Giới xua tay cười nhạt :

- Võ nghệ của ngươi được bao nhiêu mà dám tìm “Quỷ Ảnh hội” đòi nợ máu?

Bản lãnh của mỗi tên sát thủ ấy đều tương đương với một cao thủ nhất lưu trong võ lâm, chưa kể đến bọn thủ lĩnh.

Tư Đồ Sảng chỉnh sắc đáp :

- Đại thúc cứ yên tâm! Tiểu điệt thừa kế nòi thần lực của gia mẫu, sức cử ngàn cân, lại tinh thông quyền chưởng, kiếm thuật và cả phủ pháp của Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm Võ Hồng. Tiểu điệt từng bị gia phụ và Lý thúc công vây đánh mà vẫn chiếm thượng phong.

Tư Đồ Sảng cố tạo niềm tin cho đối phương chứ chẳng phải có ý khoe khoang, mặt chàng buồn rười rượi.

Nhưng Tích Dịch Quỷ thì chấn động vì hiểu rõ bản lãnh của Tứ Xuyên Đại Đạo cũng như của Tư Đồ Quát. Trước khi bị em ruột đuổi chạy khỏi Phúc Châu, Tư Đồ Quát từng nổi danh là Du Long Thần Quyền.

Tây Môn Giới gật gù :

- Tốt lắm? Nếu đúng là võ nghệ của ngươi cao siêu như thế thì lão phu rất an lòng. Bí mật của Quỷ Ảnh hội là trên mặt của các hội viên đều có đúng ba nốt ruồi.

Mặt giả hay thực thì cũng vậy. Bí mật thứ hai là Quỷ Ảnh hội có thói quen tiếp cận những người trẻ tuổi, anh hùng để dụ dỗ thu phục. Do đó, hiền điệt cứ việc dương oai diễu võ rong chơi khắp chốn đô hội, tất có ngày sẽ chộp được một tên tò mò? Sau đó ngươi dùng cực hình tra tấn thì sẽ tìm ra sào huyệt “Quỷ Ảnh hội”.

Hoặc giả, chính gã đó sẽ dẫn ngươi về tổ quỷ.

Đúng là chuyện mò kim đáy biển song Tư Đồ Sảng không còn cách nào khác, đành phải làm theo kế hoạch của Tây Môn Giới. Lạc Dương có Tổng đàn võ lâm nên chắc là Quỷ Ảnh hội không dám bén máng đến. Do đó, Tư Đồ Sảng quyết định sáng mai rời Lạc Dương đi đến Hứa Xương.

Nhưng ngay tối hôm ấy, Tây Môn Giới đã quay lại, đưa chàng về nhà của lão trong một trang viện cổ kính, tao nhã gần cửa đông thành.

Trong vòng một tháng, Tích Dịch Quỷ dạy cho Tư Đồ Sảng công phu Bích Hổ Du Tường và những mánh khóe trong nghề đạo thích. Dù không muốn chàng vẫn phải học để lão vui lòng.

Giữa tháng mười một, khi những bông tuyết đầu tiên rơi xuống thì Tư Đồ Sảng đã rời xa Lạc Dương được vài dặm. Chàng bỗng nảy ra ý nghĩ đến thăm Tổng đàn võ lâm để biết mặt chú ruột. Cha chàng đừng kể rằng hai người khá giống nhau, chỉ khác ở chỗ Tư Đồ Xán mang chiếc mũi ưng gồ cong xấu xí.

Hơn nữa, cách thành danh dễ dàng, mau lẹ nhất là giật những giải thưởng mà võ lâm treo giá thủ cấp những tên cùng hung cực ác.

Tuy Minh chủ có dưới trướng hai trăm thủ hạ thân tín và còn có quyền huy động cao thủ các phái song cũng không thể nào tiêu diệt được hết bọn ác nhân trong thiên hạ. Chúng chẳng dại gì ở yên một chỗ chờ Minh chủ đến hỏi tội.

Bởi thế cho nên một phần ngân sách của võ lâm được dùng đế khuyến khích các bậc hiệp sĩ ra sức trừ gian diệt bạo. Chỉ cần họ mang được thủ cấp và vũ khí của kẻ bị truy nã về đến núi Hương Sơn là có ngay số tiền thưởng. Tùy theo võ nghệ của tên ác ôn mà giải thưởng cao hay thấp.

Từ đó mà trên giang hồ sinh ra một nghề lạ lùng, nghề săn người. Nghề này lạ ở chỗ là những kẻ chuyên nghiệp không bao giờ vỗ ngực xưng. Họ âm thầm theo dõi, hạ thủ con mồi rồi lặng lẽ đem về lãnh thưởng. Tư Đồ Sảng không muốn trở thành kẻ săn người chuyên nghiệp mà chỉ muốn dương danh để dẫn dụ kẻ thù.

Tây Môn Giới đã chọn cho chàng một cái biệt hiệu rất kêu để lòe thiên hạ: “Thần Phủ Lang Quân”.

Tư Đồ Sảng là người trung hậu nên rất ngượng miệng khi phải tự xưng, tự phong.

Tích Dịch Quỷ bèn an ủi chàng rằng người võ sĩ nào cũng phải làm như thế, tuy không được khiêm tốn xong lại tránh được cảnh bị đặt cho những danh hiệu oái oăm như : “Miêu Quyền”, “Phục Cẩu Thần Kiếm”, “Kê Chủy Lang Quân”... lúc ấy thì dở khóc dở cười, nạn thận không còn chút hùng tâm tráng chí nào nữa cả.

Xế trưa, Tư Đồ Sảng đi ngang cánh rừng đào, cách sông Y Thủy ba bốn dặm.

Con đường này tương đối vắng vẻ vì gần đến núi Hương Sơn, nơi là Phật Động chỉ có ở phần sườn núi dọc bờ sông, phần còn lại không có quái gì, ngoài Tổng đàn võ lâm. Thông thường, du khách lên núi Long Môn sau đó dùng thuyến đi dọc sông Y Thủy để tham quan.

Đường vắng thì rừng cũng vắng và vì thế mà xảy ra huyết án, một việc không thể ngờ được bởi rừng đào rất gần thánh địa võ lâm.

Thực ra thi bọn ác ôn kia hành sự rất kín đáo, tít sâu trong rừng chẳng hề lộ liễu. Xui cho chúng là nhĩ lực của Tư Đồ Sảng rất thính nhậy, nghe được tiếng sắt thép va chạm và tiếng rú thất thanh, lảnh lót của nữ nhân.

Tư Đồ Sảng rung động tâm hồn, tưởng như mẹ hiền đang kêu cứu. Chàng dừng phắt lại nghe ngóng rối rẽ ngựa vào lối mòn xuyên rừng. Tán đào không cao nên cản trở người kỵ sĩ. Tư Đồ Sảng liền bỏ ngựa khoác bọc hành lý phi thân đi tiếp. Thanh Giáng Ma thần phủ lúc nào cũng nằm gọn ở hông được áo choàng lông che kín.

Đấu trường chỉ cách bìa rừng hơn dặm. Đấy là một tòa đạo am nhỏ nhưng thanh nhã, trước cứa am là sân cỏ rộng rãi, bằng phẳng. Nhưng giờ đây cỏ xanh lấm tấm phủ tuyết và bị dầy xéo bởi những bàn chân thô bạo. Có tám gã áo xanh bịt mặt, sử dụng loan đạo đang vây chặt hai nữ nhân tóc dài buông xõa.

Hai nữ lang này có thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chập chờn tựa bóng u linh.

Trường kiếm trên tay họ lợi hại phi thường, đánh ra toàn những đòn hiểm ác, nhờ vậy mà họ vẫn còn đứng vững trước sự vây đánh của tám cao thủ. Tuy nhiên, hai nàng đã bị thương, thỉnh thoảng rú lên vì đau đớn và giận dữ.

Tư Đồ Sảng tuy nhân hậu song lại là người cương liệt, ghét ác như kẻ thù. Cái chết thê thảm của song thân đã khiến chàng càng bội phần nóng nảy. Nay chứng kiến cảnh ỷ chúng hϊếp cô, lửa giận bốc lên tâm trí chàng trai trẻ. Tư Đồ Sảng rút Giáng Ma phủ, bấm nút cơ quan cho mũi thép ló ra và kéo dài cán búa.

Rồi chàng lướt đến tấn công bọn thanh y. Có hai tên lập tức quay lại chống cự với màn nhấc quang dày đặc đang ào ào ập đến.

Lần đầu xuất thủ, Tư Đổ Sảng không lượng được sức mình, chỉ sợ không đủ, nên đã dồn toàn lực vào Chiêu “Thần phủ Khai Lâm”. Thần lực kinh hồn của chàng đã làm cho lưỡi búa thép nặng hai chục cân bay với tốc độ của trường kiếm nên đòn đánh nặng tựa ngàn cân. Hai lưỡi đao bị đánh bạt và mũi thép nhọn ở đầu Thần phủ trổ ngay vài lỗ trên người nạn nhân.

Tiếng rú thảm khốc của họ đã khiến sáu gã thanh y còn lại phải giật mình.

Bốn gã bỏ hai nữ lang, nhảy đến vây đánh tiểu tử cầm búa đáng ghét kia.

Kết quả mỹ mãn của chiêu búa đầu tiên đã khiến Tư Đồ Sảng rất tự tin vào bản lãnh, bình thản đối phó với bốn thanh đao cuồng nộ. Chàng vũ lộng thanh Giáng Ma thần phủ tạo thành giải lụa đen mờ quanh thân dũng mãnh ngăn chặn, giải phá những đường đao độc ác của phe đối phương.

Đao nặng gần gấp đôi kiếm nhưng Giáng Ma thần phủ lại nặng gấp đôi thanh đao của bọn Thanh y. Bởi vậy, khi va chạm, Tư Đồ Sảng luôn có lợi thế. Hổ khẩu của các đao thủ rách toạc, rỉ máu tươi và họ vô cùng kinh ngạc, tự hỏi chàng trai trẻ kia lấy đầu ra sức lực mà điều khiển cây búa cổ quái nặng nề nhanh hơn đao của họ ?

Chính bản thân Tư Đồ Sảng cũng không biết vì sao sức lực của mình lại đáng sợ như vậy. Đây là một bí mật, một món quà kỳ diệu mà mẫu thân chàng đã di tặng cho con trai ngay trong những ngày còn trứng nước và ba năm bú mớm.

Giờ đây, Tư Đồ Sảng kiêu dũng như sở Bá Vương, biến thanh Giáng Mạ Phủ thành lưỡi búa sấm sét của thiên lôi. Chàng lại là người cương liệt vô úy nên công nhiều hơn thủ, dũng khí ngút trời khiến kẻ thù phải khϊếp đảm.

Càng đánh càng quen tay, Tư Đồ Sảng hứng chí thi triển pho Du Long thân pháp, giả như tấn công mé tả song lại đảo người sang hữu, lưỡi búa phủ kín một gã bạc mệnh, loan đao của gã gầy rời và thân hình thì đứt đoạn bởi lưỡi búa sắc như dao cạo. Giáng Ma phủ là thần vật trấn sơn của chùa Bố Đà La nên có nước thép rất tốt.

Xong xuôi, Tư Đồ Sảng lập tức đề khí bốc cao, lộn người tấn công gã thứ hai.

Chiêu Hắc Vân Áp Đỉnh này mãnh liệt như núi đổ, Thần phủ hóa thành đám mây thép đen mờ sa thẳng xuống đầu đối thủ.

Lối đánh cương mãnh, vũ bão của Tư Đồ Sảng đã hoàn toàn khắc chế được bọn đao thủ áo xanh. Nạn nhân bị rơi vũ khí và vỡ sọ.

Bên kia, hai nữ lang áo trắng cũng đã gϊếŧ được kẻ địch. Và họ ập đến chặn đứt sinh lộ của hai gã cuối cùng, đang đối diện Tư Đồ Sảng. Một nàng liến láu nói :

- Không được để chúng thoát thân.

Nhưng Tư Đồ Sảng cũng không có ý định đó. Tích Dịch Quỷ Tây Môn Giới cũng như Tứ Xuyên Đại Đạo Lý Tứ đã bắt chàng phải thuộc lòng câu: “Nhổ cỏ nhổ tận gốc”. Chỉ cần một tên chạy thoát là chàng sẽ trở thành mục tiêu săn đuổi của phe đối phương. Do vậy, Tư Đồ Sảng nghiến răng xuất chiều “Toàn Phong Nhất Nộ”, Phủ ảnh cuồn cuộn, xoay tít như con trốt, cuốn lấy cả hai mục tiêu. Hai gã này đang sát cánh để đối phó với chàng nên rơi gọn vào lưỡi búa. Chúng rú lên thê lương, thân hình rách toang, máu hồng văng tung tóe.

Hai ả áo trắng cũng phải rùng mình trước thảm cảnh ấy. Một ả le lưỡi tỏ vẻ sợ hãi và nói :

- Chiêu búa này tàn bạo thực!

Ngược lại, ả kia thì hớn hở khen :

- Thế mới đúng là sở học của bậc anh hùng!

Té ra, hai nàng này có tính cách khác nhau, chỉ giống ở chỗ xấu như ma lem, trán và má loang lổ chỗ đen chỗ trắng. Trên những bớt đen ấy còn có cả những sợi lông kỳ dị.

Loại dị tật này được xem là dấu hiệu của sự luân hối. Kiếp trước bệnh nhân là súc vật, kiếp này thành người xong lột da chưa hết.

Tuy nhiên, hai ả mặt lông dê này đôi mắt rất tinh anh, sống động, biểu lộ một tính cách ranh mãnh nghịch ngợm.

Có lẽ họ là hai chị em ruột vì mũi cũng thẳng dọc dừa, môi anh đào đỏ tựa thoa son.

Giờ đây, dù trên vai và đùi đang có những vết thương rỉ máu mà hai ả cứ nhoẻn miệng cười đắc ý thì thầm với nhau.

Trong lúc ấy, Tư Đồ Sảng mở khăn bịt mặt của bọn áo xanh, xem chúng có mang ba nốt ruồi của Quỷ Ảnh hội hay không? Chẳng thấy gì, chàng đứng lên ngượng ngùng nói :

- Dám hỏi nhị vị cô nương vì sao lại va chạm với bọn đao thủ này, và thực rà họ thuộc bang phái nào?

Chàng có thói quen nhìn thẳng khi đối thoại nên hai nữ lang cổ quái kia nhận ra ánh mắt chàng không hề có chút ghê sợ họ.

Một ả tủm tỉm cười hỏi lại :

- Dường như dung mạo xấu xí như quỷ của bọn ta không làm cho công tử ghế sợ.

Tư Đồ Sảng thực thà đáp :

- Tiên mẫu có gương mặt bị thú dữ cào nát một bên mà tại hạ vẫn không thấy xấu.

Hai ả thích thú nháy nhó nhau rồi bất ngờ lướt đế như tia chớp, mỗi người một bên giữ chặt cánh tay của Tư Đồ Sảng, họ nũng nịu xin chàng nhận mình làm nô tỳ. Họ còn sa cả lệ kể lể rằng mẹ ruột mới lìa trần, cha lấy kế mẫu và đuổi họ ra khỏi nhà, chầng biết nương tựa vào ai!

Tư Đồ Sảng không dám vùng vẫy vì sợ đυ.ng chạm da thịt nõn nà của hai con quỷ cái. Chàng càng bối rối đến mụ cả người khi hai ả chẳng chút ý tứ cứ dán sát đôi bồng đảo vào người chàng.

Mặt khác, vì nghĩ đến mẫu thân nên Tư Đồ Sảng cám cảnh, bất nhẫn cho hai ma lem. Chàng bấm bụng gật đầu chấp thuận để sớm thoát khỏi sự kiềm giữ khó coi này.

Hai ả mừng rỡ nghiêng mình thi lễ :

- Tỷ muội nô tài là Lăng Phi Tuyết và Lăng Phi Hồng xin ra mắt công tử!

Tư Đồ Sảng rầu rĩ đáp :

- Ta là Tư Đồ Sảng, hai mươi tuổi, quê ở Hàm Dương. Nhưng xin hai cô nương hãy giấu kỹ điều ấy.

Lăng Phi Tuyết là chị và cũng là cô ả dữ dằn. Nàng ta thích thú tròn mắt hỏi :

- Nhưng vì sao công tử lại phải che giấu lai lịch?

Tư Đồ Sảng ngao ngán đáp :

- Chuyện rất dài dòng, nhị vị hãy chăm sóc thương tích xong rồi tại hạ sẽ kể cho nghe.

Hai ả gật đầu, quay bước lủi ngay vào tòa đạo am, thân pháp nhanh như điện.

Tư Đồ Sảng thầm khen ngợi và tự an ủi rằng đã tìm được hai trợ thủ đắc lực võ nghệ cao cường. Tuy nhiên, chàng vẫn rầu thúi ruột khi nghĩ đến cảnh mình được hộ tống bởi hai nữ nhân cổ quái. Với chàng thì họ không xấu nhưng tất nhiên là khác thường.