Tây Du Ký

Chương 23: Tam Tạng chẳng quên đạo Tứ Thánh thử lòng thiền

Nói về bốn thầy trò đi dọc đàng bày cạn nguồn lòng mối đạo, chuyện trò vui đẹp, chẳng chút ngại ngùng, mãng xem cỏ nội hoa ngàn, bóng ác dường thoi đưa, ba thu đã gần lụn.

Ngày kia trời tối, Tam Tạng nói với đồ đệ rằng:

– Mặt trời chen lặn, biết nhà nào ngủ đỡ một đêm?

Hành Giả thưa rằng:

– Người tu hành thì uống nước suối, ăn trái cây, ngủ ngoài sương, nằm dưới nguyệt, chỗ nào cũng là nhà hết thảy, hỏi thăm xóm làm chi?

Bát Giới nói:

– Anh đi không, thì thong thả hơn hết, chẳng hề thương kẻ nặng nề, cái gánh đồ nầy, có một Lão Trư ra sức. Anh theo làm học trò lớn, để tôi làm chức trưởng công, tôi biết tánh anh muốn làm tiên, chẳng hề gánh vật, còn ngựa của thầy mập quá, để cho tôi gởi gánh đồ.

Hành Giả nói:

– Ngươi tưởng nó thiệt là ngựa hay sao? Ấy là Thái Tử thứ ba, con vua Long vương Tây hải, bởi vì phạm tội, nhờ Quan Âm xin với Ngọc Hoàng, dạy nó phải biến ra con ngựa kim, mà chở thầy cho tới Tây Phương Phật, ai có phần nấy, ngươi còn xeo nó hay sao?

Sa Tăng nghe nói hỏi rằng:

– Nó là rồng thiệt sao anh?” Hành Giả nói:

– Phải.

Bát Giới nói:

– Thiên hạ đồn rằng: Rồng thì có phép thần thông, phun mây vượt biển, sao mà đi chậm như thường?

Hành Giả nói:

– Ðể ta biểu nó nhảy sải cho ngươi coi.

Nói rồi giá cây thiết bảng, hào quang chiếu sáng đỏ trời, con ngựa sợ đánh nhằm nó, liền chạy bay như tên bắn, Tam Tạng gò cương không lại, phải ôm cổ nó mà nằm. Chạy tới cụm rừng ngừng lại, Tam Tạng mới thở ra hơi, ngó thấy trong rừng có xóm, mừng rỡ nói rằng:

– Các đồ đệ, đây có nhà người, hãy ghé vào mà ngủ đỡ.

Hành Giả ngó lên trời. Thấy mây lành che phủ, rạng chói đỏ trời. Biết là Tiên Phật hiện ra, ngặt thiên cơ không dám lậu.

Liền nói xuôi rằng:

– Tối rồi, may lắm, thầy trò vào đó mà ngủ nhờ.

Tam Tạng liền xuống ngựa. Thấy nhà lầu: Rèm che sáo phủ, cột vẽ rường soi.

Bát Giới trầm trồ rằng:

– Chắc là nhà giàu lớn.

Hành Giả bước tới, Tam Tạng cản rằng:

– Chẳng nên, chẳng nên; mình là người tu hành phải giữ phép luật. Ðợi có ai ra cửa, sẽ xin cho vào đó mà ngủ nhờ.

Cùng nhau ngồi trước ngỏ hèn lâu, không thấy ai ra hỏi.

Hành Giả nóng quá, bước vào cửa ngỏ mà xem, thấy ba căn nhà trở mặt về hướng Nam, trong treo một bức sơn thủy. Trước có một cái bàn độc sơn đen. Trên bàn để cái lư đồng rất lớn.

Cột có đôi liễn xuân rằng:

Gió đưa tơ liễu trời vừa tối,

Tuyết đượm bông mai cảnh gặp xuân.

Trước nhà khách để sáu cái ghế da. Có bức bình phong che gió.

Hành Giả đương nhắm nhía, xảy nghe có tiếng giày.

Thấy có đàn bà chừng ba mươi tuổi, bước ra hỏi tiếng dịu dàng rằng:

– Chẳng hay ai ở đâu mà lén vào nhà đàn bà góa?

Hành Giả hãi kinh nói rằng:

– Tôi là sãi Ðại Ðường bên Ðông Ðộ, vâng chiếu chỉ qua Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh. Bốn thầy trò tôi đến đây, mặt trời chen lặn, nên vào xin phép cho chúng tôi ngụ đỡ một đêm.

Người đàn bà ấy cười và hỏi rằng:

– Còn ba thầy nữa ở đâu? Xin mời vào luôn thể.

Hành Giả cả kêu rằng:

– Xin mời sư phụ đi vô.

Tam Tạng biểu Bát Giới, Sa Tăng dắt ngựa gánh đồ vào cửa.

Người đàn bà ấy bước ra nghinh tiếp, Bát Giới lén xem nhan sắc như vầy:

Trâm cài lược giắt kể đôi từng,

Châu ngọc tai đeo chiếu sáng trưng,

Son phấn chẳng dồi coi cũng đẹp,

Dung nhan chỉ kém gái còn xuân.

Người đàn bà ấy mừng rỡ, rước bốn thầy trò vào nhà, mời ngồi theo thứ tự.

Xảy thấy con đầy tớ gái, bưng kỉ vàng chén ngọc và một mâm trái cây mùi lạ ngọt ngào, trà ngon thơm ngát.

Người đàn bà ấy xăn tay áo rộng, bưng trà trao đủ bốn thầy.

Lại truyền dọn cơm chay thết đãi.

Tam Tạng chắp tay hỏi rằng:

– Chẳng hay bà họ chi? Và xứ nầy gọi là xứ gì; xin cho tôi biết.

Người đàn bà ấy đáp rằng:

– Ðây thuộc về phương Tây gọi là Ðông Ấn độ. Còn tôi họ Giả, chồng tôi họ Mạc. Cha mẹ chồng tôi mất sớm, vợ chồng tôi coi sóc gia cang. Sự nghiệp muôn vàng, ruộng vườn ngàn khoảnh. Vợ chồng tôi có ba đứa con gái, không đặng chút trai, chồng tôi bỏ mình năm xưa, nay đà mãn phục. Không bà con chi hết, mẹ con tôi giữ gìn gia tài. Muốn gã con lấy chồng, lại sợ không ai coi sự nghiệp. Nay gặp bốn thầy trò ghé lại, bốn mẹ con tôi đương đóng cửa kén chồng. Không biết đại sự có hoan hỉ hay không? Xin cho tôi biết?

Tam Tạng nghe nói, giả điếc làm câm. Cứ lim dim ngồi tưởng Phật.

Người đàn bà ấy nói rằng:

– Tôi có ba trăm dãy ruộng gò, ba trăm dãy ruộng bưng, ba trăm ngôi vườn thanh hoa đẳng vật. Dê heo vô số, trâu ngựa cả bầy, đồng cỏ trái cây hơn bảy chục sở, lúa gạo ăn chín năm không hết, hàng lục mặc mười năm có dư, bạc vàng dùng mãn đời cũng không thiếu. Kể chi nữ trang y phục nệm gấm màn thêu. Nếu bốn thầy trò bằng lòng ở đây, thiệt hưởng phước thanh nhàn khoái lạc. Tội gì chịu cực mà đi không tới Tây Phương?

Tam Tạng cứ làm thinh không nói.

Người đàn bà ấy nói rằng:

– Ngày sanh tôi là giờ dậu, ngày mồng ba tháng tám, năm Ðinh hợi. Chồng tôi lớn hơn tôi ba tuổi. Tôi năm nay đã bốn mươi lăm, con gái lớn tôi tên Chơn Chơn, đặng hai mươi tuổi. Con giữa tên Ái Ái, mười tám tuổi. Con gái út tên Liên Liên, mười sáu tuổi, đều chưa có nơi nào. Tôi tuy xấu xa, chớ ba đứa nhỏ đều xinh tốt. Nghề nữ công cũng chẳng thua ai. Bởi chồng tôi không có con trai, nên cưng chúng lắm. Cho ba đứa ăn học, đều biết làm thi phú văn chương. Tuy ở sơn lâm, mà không thô tục. Tài có sắc cũng có, xứ quê người chẳng quê; nhắm cũng xứng đôi với mấy thầy lắm. Nếu bằng lòng ở đây mà để tóc, thời làm chủ cái nhà nầy. Lại được mặc hàng lụa, ăn thịt thà, chẳng hơn đi Tây Phương, thì mặc vải bô, ăn cực khổ?

Tam Tạng ngồi trơ trơ, như vịt nghe sấm, tợ ếch mắc mưa, cứ lộn thinh con mắt. Còn Bát Giới nghe nói giàu sang thì mê, nghe nói nhan sắc cũng muốn, ngứa nghề nóng họng, ngồi trên ghế không yên, khác nào trong nệm có dồn kim, cứ nhỏm lên nhỏm xuống.

Dằn lòng chẳng đặng, bước lại vỗ Tam Tạng mà nói rằng:

– Thầy không nghe bà chủ nói hay sao? Ngồi lim dim giả điếc. Lẽ nào người nói phải mà làm cách chẳng chịu trả lời?

Tam Tạng giựt mình, trợn mắt và xí một tiếng.

Bát Giới lui về chỗ.

Tam Tạng nói rằng:

– Mi là nghiệp chướng. Người tu hành lẽ nào nghe giàu sang mà dời chí, thấy sắc mà động lòng?

Người đàn bà ấy cười rằng:

– Tội nghiệp thì thôi! Ði tu hành mà có ích chi đó?

Tam Tạng hỏi:

– Vậy chớ bà ở thế lại có ích chi?

Người đàn bà ấy nói rằng:

– Vậy thầy nghe tôi nói việc sung sướиɠ cả đời. Xin đọc bài thơ làm chứng.

Thơ rằng:

Xuân đồi đồ mới dạo xem hoa,

Hạ thưởng sen xanh mặc nhổ nha

Thu có rau thơm và thịt sốt,

Ðông thì nệm ấm với dầu thoa

Tư niên ngủ kỹ không mãi,

Cả kiếp ăn ngon mặc tốt mà

Trút cạn nguồn tình vui một bữa,

Khá hơn tìm tõi kiếm Di Ðà.

Tam Tạng nói:

– Bà hưởng vinh hoa phú quý. Có ăn có mặc, con cái đầy nhà. Bà gọi là tử tế cũng phải. Còn tôi tu hành lại có ít theo tôi. Hãy nghe thử bài thơ thì biết.

Thơ rằng:

Tu hành theo phận chí không nguôi,

Trăng gió phường kia dạ phủi rồi

Ngoài thể tham lam là thể tục,

Trong mình đạo đức biết mình vui

Gắn cóng cầu Phật xin qua đó,

Mở lối từ bi trở lại thôi

Gẫm kẻ ở trần ăn mặc sướиɠ,

E sau đọa xuống chốn tanh hôi.

Người đàn bà ấy nghe nói nổi giận đáp rằng:

– Thầy này thiệt vô lễ. Nếu tôi không vị tình ở Ðông Ðộ, thì chắc đuổi ra ngoài. Tôi thiệt tình muốn dâng sư phụ quý khoái lạc cho mấy thầy, thầy lại nói biếm tôi như vậy! Dầu thầy mắc thọ phép tình nguyện không ưa việc thế thời thôi. Còn đệ tử của thầy, cũng cho đỡ một người làm rễ. Có đâu nói gắt như vậy?

Tam Tạng thấy người ấy giận dữ, liền nói xuôi rằng:

– Thôi, Ngộ Không ở lại.

Hành Giả bạch rằng:

– Tôi từ bé đến lớn không biết việc đời. Xin nhượng cho Ngộ Năng là người thông thạo.

Bát Giới nói:

– Anh đừng trao gánh cho tôi, thủng thẳng luận bàn mới đặng.

Tam Tạng nói:

– Hai đứa bây không chịu, thì để Ngộ Tịnh lại cho.

Sa Tăng bạch rằng:

– Tôi nhờ ơn Bồ Tát dạy biểu tu hành. Tôi tình nguyện theo thầy, chớ không tham phú quý. Có gϊếŧ thì chịu, chớ không làm trái lẽ như vậy.

Người đàn bà ấy thấy ai nấy không chịu liền bước vào trong, đóng cửa bỏ bốn thầy ở ngoài, không trà nước chi hết.

Bát Giới than thở rằng:

– Thầy không thạo việc, nói một lời bất lợi biết dường nào? Phải chi thầy nói lòng vòng, cũng đặng ăn no ngủ ấm. Rạng ngày chịu không chịu, ai lại ép ai. Chẳng hơn không có cơm ăn, chịu một đêm sao nổi?

Sa Tăng nói:

– Thôi anh ở lại mà làm rễ cho xong.

Bát Giới nói:

– Em đừng trao gánh cho ta, thủng thẳng tính đi tính lại đã.

Hành Giả rằng:

– Không nói dài vắn chi hết. Như ngươi chịu ở lại, thì thầy làm xui với người ấy cho rồi. Ngươi làm rễ nhà giàu mặc sức ăn ngon bận tốt. Chắc dọn tiệc đãi họ, thầy trò ăn một bữa cũng no. Còn ngươi ở lại đây, thì lương toàn vô hại.

Bát Giới nói:

– Anh luận cũng cao, song không khỏi tiếng này: Ra trân rồi về trần. Ðể vợ còn cưới chồng.

Sa Tăng nghe nói hỏi rằng:

– Nói vậy nhị ca đà có vợ hay sao?

Hành Giả nói:

– Em không hay việc ấy. Nguyên là con rễ ông Cao Thái Công ở nước Ô Tư Tạng, bị ta bắt được mới theo. Vả lại Quan Âm có độ trước, nên cũng chẳng đã, phải bỏ vợ theo thầy. Nay cũng lâu ngày muốn bỏ thầy mà cưới vợ. Bát Giới ngươi lạy ta vài lạy, thì ta tính dùm chuyện đó mới xuôi.

Bát Giới đáp rằng:

– Ðừng có nói xàm. Ý ai cũng như nấy, muốn bắt tôi chịu xấu một mình. Lời thường rằng: Thầy chùa đắm sắc, như ma đói thèm cơm. Ai lại gan dạ nào mà nói tốt. Ðiều muốn làm lớn thì làm láo, nói ra thì sợ chúng cười. Ðến nay, dầu đèn cũng không, cơm nước cũng vắng. Người ta rán một đêm còn được, báo hại con ngựa nhịn cỏ, mai đi sao thấu đường xa. Thôi, để tôi dẫn nó đi ăn ba miếng.

Nói rồi mở cương ngựa dắt đi một nước.

Hành Giả nói nhỏ với Sa Tăng rằng:

– Ngươi ngồi đây với thầy, ta theo coi nó đi đâu cho biết.

Nói rồi ra khỏi nhà khách, dùn mình biến ra con chuồn chuồn đỏ, bay theo Bát Giới coi chơi. Thấy Bát Giới dắt ngựa gặp cỏ không cho ăn, cứ dắt ra phía sau đứng đó. Xảy thấy người đàn bà dắt ba đứa con gái, đứng coi bông cúc nơi cửa sau.

Bát Giới dắt ngựa đi trờ tới, ba nàng kia bước trái vào trong.

Người đàn bà ấy hỏi rằng:

– Thầy đi đâu đó?

Bát Giới buông dây cương bước tới, bái và nói rằng:

– Thưa mẹ, tôi đi cho ngựa ăn.

Người đàn bà ấy nói:

– Thầy ngươi không biết tính, ở nhà ta thì sung sướиɠ, chẳng hơn đi tới Tây Phương?

Bát Giới cười rằng:

– Mấy người ấy vâng lệnh vua Ðường đi thỉnh kinh, nên không dám ở đây. Song tôi còn ngại lắm. Sợ mẹ chê tôi mỏ dài tai lớn, không chịu gả con.

Người đàn bà ấy nói:

– Ta không chê đâu. Bởi vì nhà không có đàn ông, miễn đặng một người cầm lái. Song ngại vì ba đứa nhỏ, sợ tánh con gái hay chê.

Bát Giới thưa rằng:

– Xin mẹ nói dùm với mấy cổ: Ðừng chê mập chê ốm. Tuy thầy tôi tốt mã, song cũng chẳng đặng mà ham, chớ như tôi diện mạo xấu xa, mà có ích lắm.

Người đàn bà ấy hỏi rằng:

– Ngươi có tài chi, thì nói cho ta nghe thử.

Bát Giới ca rằng:

Tuy vấn sanh tướng xấu, Song cũng có tài năng

Ðào giếng chừng ba khắc. Câu mưa nội nửa ngày,

Giữ nhà hơn chó sủa: Cào đất quá trâu cày,

Trăm việc đều thông cả: Siêng năng ít ai tày.

Người đàn bà ấy nghe nói khen rằng:

– Giỏi như vậy thì xong lắm. Song ngươi về thưa lại với thầy. Nếu thầy ngươi bằng lòng thì ta bắt rễ.

Bát Giới nói:

– Thầy ấy không phải cha mẹ chi tôi, mà phải thưa đi thưa lại, ưng không là tại nơi tôi.

Người đàn bà ấy nói rằng:

– Như vậy thì xong lắm, để ta tính lại với con ta.

Nói rồi bước vào đóng cửa.

Bát Giới không cho ngựa ăn cỏ, cứ việc dắt về.

Chẳng ngờ Hành Giả bay theo nghe đủ các việc, liền bay về hiện hình như cũ, thưa với thầy rằng:

– Bát Giới dắt ngựa về đó.

Tam Tạng nói:

– Ngựa thì phải dắt mới đặng, nếu buông khơi thì nó chạy đi.

Hành Giả cười, rồi thuật hết các việc.

Khi ấy Bát Giới về tới, buộc ngựa xong rồi Tam Tạng nói:

– Ngươi thả ngựa ăn cỏ rồi chưa?

Bát Giới nói:

– Chẳng có cỏ non nên không thả ngựa.

Hành Giả nói:

– Không thả ngựa mà có quần ngựa hay không?

Bát Giới nghe hỏi biết chuyện lậu rồi, làm thinh không nói lại, ngồi ngoẻo đầu nhiều mỏ thở ra.

Giây lâu nghe tiếng mở cửa, những thế nữ cầm hai cặp đèn sáp, một cái lư hương, tiếng ngọc len ken, mùi thơm bát ngát, người đàn bà ấy dắt ba người con gái ra kêu mà nói rằng:

– Chơn Chơn, Ái Ái, Liên Liên mau ra mắt Ðường Tăng ở Ðông Ðộ.

Ba nàng ấy ra làm lễ, coi lịch sự như tiên.

Có bài ca làm chứng:

Mày như kiểng chẩu, mặt tợ phấn dồi

Sắc sảo đành ngiêng nước, nết na dễ động người

Liễu dịu dàng chân bước, huê chúm chím miệng cười

Nếu không Tiên nữ vì trần đọa thì cũng Hằng Nga xuống thế chơi.

Tam Tạng chắp tay cúi mặt, Sa Tăng nhắm mắt day lưng.

Hành Giả làm ngơ không ngó tới, có một mình Bát Giới coi không nháy mắt, nhìn muốn rớt tròng, mất vía, bay hồn, bấm gan tím ruột, liền bỏ nhỏ rằng:

– Chào các tiên cô giáng hạ, thôi, mẹ biểu mấy cổ lui vào.

Ba nàng ấy đều lui vô hết, để lại một cặp đèn.

Người đàn bà ấy hỏi rằng:

– Bốn thầy trò, ông nào thương con tôi mà bằng lòng ở lại?

Sa Tăng nói:

– Chúng tôi đà nhứt định, người họ Trư ở lại đã xong.

Bát Giới nói:

– Em đừng đổ án cho anh, để tính đi tính lại.

Hành Giả nói:

– Còn tính nổi gì nữa? Ngươi đã giao ước tại cửa sau rồi, bây giờ thầy làm Nam chủ hôn, ta đứng trưởng tộc. Sa Tăng làm mai, chẳng coi lịch làm chi, nay là ngày thiên ân tốt lắm, hãy lạy thầy vài lạy, rồi đi làm rễ cho mau.

Bát Giới nói:

– Ðừng nói chơi không đặng, có đâu làm trái lẽ như vầy?

Hành Giả nói:

– Ngươi đừng có chối, miệng kêu mẹ đà chẳng biết mấy lần, chuyện gì mà nói chơi không được? Mau mau vào trong cho ta ăn đám cưới.

Nói rồi tay mặt kéo Bát Giới, tay trái kéo áo người đàn bà ấy nói rằng:

– Thôi, mẹ vợ dắt chàng rễ vào trong.

Người đàn bà ấy hối đầy tớ gái dọn cơm chay thiết đãi ba thầy.

Tam Tạng, Hành Giả, Sa Tăng ăn no rồi ngủ.

Còn người đàn bà ấy dắt Bát Giới đi không biết mấy phòng, Bát Giới nói:

– Thưa mẹ, tôi đã đói lòng, xin ghé phòng nầy một chút.

Người đàn bà ấy đáp rằng:

– Ðây là kho lúa và hà để cối xay, chớ nhà bếp còn cách xa lắm.

Bát Giới nói:

– Thiệt nhà nhiều ngăn nắp quá!

Ði quanh co hơn một buổi, mới tới phòng nằm.

Người đàn bà ấy nói rằng:

– Nay nhằm ngày thiên ân, nhập phòng tốt lắm. Ngươi làm lễ cho mau.

Bát Giới nói:

– Mẹ nói phải lắm, xin mẹ ngồi ngay bàn án ngó ra, đặng tôi lạy một lần luôn thể. Người đàn bà ấy cười rằng:

– Bợ thì muốn cưới cho mau, mà tiếc từ cái lạy! Tuy vậy cũng đặng, khỏi mất công nhiều lần.

Nói rồi ngồi lên, Bát Giới cúi đầu làm lễ.

Lạy rồi hỏi rằng:

– Thưa mẹ, tính gả người thứ mấy cho tôi?

Người đàn bà ấy nói rằng:

– Chuyện ấy chưa nhất định, muốn gả con lớn thì sợ con giữa nó phiền, muốn gả con giữa thì sợ con út nó giận. Bằng gả con út, chắc hai đứa nó hờn, nên chưa định chắc.

Bát Giới nói:

– Thưa mẹ, nếu sợ phàn nàn xin gả cho tôi hết thảy, thì khỏi lo việc ghen tuông. Người đàn bà ấy nói rằng:

– Không lẽ ba đứa con, mà có một thằng rễ?

Bát Giới thưa rằng:

– Nói như mẹ thì người ta không có hai ba vợ hay sao? Rất đổi là vua Nghiêu còn gả hết hai con cho ông Thuấn. Tôi khéo ở lắm, chẳng hề bỏ phép công bình?

Người đàn bà ấy nói:

– Không đặng, ta đưa cái khăn vuông cho ngươi đội, chụp con nào thì con ấy phải ưng, ấy là lối bói thiên hôn đó.

Bát Giới nghe lời lấy khăn che mặt, rồi nói rằng:

– Xin mẹ kêu mấy cổ ra đây.

Người đàn bà ấy nói rằng:

– Chơn Chơn, Ái Ái, Liên Liên. Ra cho rể mới choàn thiên hôn mà kết duyên gá nghĩa.

Nói rồi nghe ba nàng đều dạ, đeo vàng ngọc khua rổn rảng, mùi xạ hương bay bát ngát. Lòng mừng khấp khởi, chụp trước rồi chụp sau. Chụp chẳng đặng người nào, té ngiêng rồi té ngửa! Rán sức đổ mồ hôi hột, té đập mặt u đầu! Chụp cột nầy rồi ôm cột kia, đυ.ng vách nầy nhào vách nọ!

Mệt ngồi thở dốc và nói rằng:

– Mẹ ôi! Ba cô ấy qủy quyệt quá! Chụp không nhằm biết tính sao?

Người đàn bà ấy nói:

– Không phải nó qủy quyệt đâu, ấy là mắc nhượng cho nhau, nên không đứa nào chịu hết.

Bát Giới nói:

– Mấy cô không chịu, thì mẹ chịu cho rồi.

Người đàn bà ấy nạt rằng: Ðừng nói bậy nà! Mi là bộ mặt heo, nên đυ.ng đâu muốn đó. Không chừa nhạc mẫu hay sao? Bởi ba đứa con ta đều khéo léo, dệt ba cái áσ ɭóŧ mồ hôi bằng gấm đều có nhận hột trân châu. Như người bận áo nào vừa, thì gả đứa ấy.

Bát Giới nói:

– Xong lắm, xong lắm, nếu bận đặng ba cái, thì gả hết cho tôi!

Người đàn bà ấy vào phòng lấy một cái áo đưa ra.

Bát Giới xem qua mừng lắm, bèn cởi trần mà mặc áo vào. Bận rồi nhào xuống đất; coi lại là dây buộc riết mình, chớ không phải áo, nó riết gần gãy ba sườn, thở không muốn đặng. Coi lại bốn mẹ con đi mất chẳng còn.

Nói về thầy trò Tam Tạng ngủ tới hừng đông, Tam Tạng mở mắt ra thấy mình ngủ trong rừng tòng bá, không biết nhà cửa đâu mất, lấy làm lạ lùng!

Tam Tạng thất kinh, dậy kêu đồ đệ, Sa Tăng nói với Ngộ Không rằng:

– Anh ôi! Không xong rồi! Chúng ta đã gặp quỹ!

Hành Giả biết trước, cười chúm chím mà nói rằng:

– Tuy là ngủ trong rừng tòng, mà vui quá sức. Song không rõ Bát Giới bị hành tội ra thể nào?

Tam Tạng hỏi:

– Nó bị tội chi?

Hành Giả cười rằng:

– Bốn mẹ con người đàn bà hồi hôm đó, chắc là Tiên Phật hiện ra mà thử chúng ta. Nên nửa đâm biến mất. Còn Bát Giới phải mắc nạn chẳng sai.

Tam Tạng nghe qua, liền lạy thinh không mà niệm Phật.

Xảy thấy trên cây tòng bay xuống một lá thiệp.

Sa Tăng lấy đem cho Tam Tạng.

Trong lá thiệp có tám câu thơ rằng:

Lê Sơn lão mẫu tu hành

Vị tiếng Quan Âm thỉnh xuống trần

Cậy Phổ Hiền kia làm thục nữ,

E¨p Văn Thù nọ giả gia nhân

Thánh Tăng giữ phép đà trọn đạo,

Bát Giới tham hoa muốn gãy lưng

Từ ấy sắp sau chừa các lỗi

Bằng quen thói cũ khó thành thần.