Thậm chi cả hôn nhân của nàng, đúng vậy, Irony xuân xanh đã hai mươi, nàng phải tìm lấy một tấm chồng rồi, một người trượng phu hoàn toàn phù hợp giáo điều Cơ Đốc, tuân thủ nghiêm ngặt chế độ một vợ một chồng, mà không phải dị giáo đồ phương đông sở hữu một đống nữ nhân như Lý Khánh An.
Đại vương tử Charlie của vương triều Caroling rõ ràng chính là một đối tượng làm cho nàng hài lòng, bởi vị hắn sở hữu đảo Corsica, Genova và Nice - một mảnh đất khiến người ta thèm nhỏ dãi. Đương nhiên, là Charlie gả cho nàng, nữ hoàng Byzantium của tương lai, mà không phải là nàng gả cho Charlie, còn Charlie cũng hứa hẹn tuyệt sẽ không can thiệp sinh hoạt riêng tư của nàng, điều này làm cho nàng vô cùng hài lòng, nàng cần phải giữ gìn một tấm thân tự do đi triều Đường tìm Lý Khánh An bàn việc mua bán vũ khí quân sự.
Buổi sáng, nàng thường sẽ ở hoàng cung bận rộn xử lý chính vụ, buổi chiều, nàng sẽ tiếp kiến đại thần và quan viên các nơi, đây là quy cú mỗi ngày bắt di bắt dịch của nàng, nàng cần phải giành được càng nhiều sự ủng hộ của đại thần và trên địa phương.
Buổi chiều, nàng cũng như thường ngày vậy, vừa đi đến chính vụ cung, bèn có thị vệ đến bẩm báo, đặc sứ của An Tây đã đến, cần cầu kiến nàng.
“Mời bọn họ vào đây!”
Irony ngồi xuống, nàng mặc một chiếc váy dài dùng tơ lụa phương đông may nên, trên ngực cài một ghim hoa có đính kim cương, lấp lánh phát sáng, đầu đội vương miện bằng vàng có đính đầy kim cương và châu báu, đây là điểm đặc thù của trữ quân, lại càng thể hiện sự cao quý mà tao nhã của nàng, ngay cả chiếc ghế mà nàng ngồi cũng là dùng vàng và gỗ trầm hương quý giá chế tạo nên, nàng đã hoàn toàn không phải là vị thiếu nữ tự do cầm lấy cung tên đi thiên hạ du lịch kia như hồi xưa nữa.
Lát sau, Trần Thiếu Du và Đỗ Minh Bồi dưới sự dẫn dắt của thị vệ, bước vào trong hoàng cung, Đỗ Minh Bồi đã rất tây hóa rồi, hắn nhã nhặn đặt tay lên trước ngực thi lễ với Irony: “Chúc nguyện công chúa vĩnh viễn trẻ trung xinh đẹp.”
Câu nói này Trần Thiếu Du nghe hiểu, hắn có chút không vui nhìn Đỗ Minh Bồi một cái, vốn dĩ là muốn hắn làm phiên dịch, nhưng bây giờ Trần Thiếu Du đã thay đổi chủ ý, hắn khom người thi lễ với Irony, dùng tiếng Đột Quyết nói: “Tham quân sự dưới trướng An Tây tiết độ sứ đại tướng quân Trần Thiếu Du tham kiến công chúa điện hạ!”
Hắn nói chuyện không kiêu ngạo không siểm nịnh, cũng không sợ đắc tội với Irony, bởi vì hắn biết rằng, kết minh là do lợi ích chung của đôi bên mà nên, mà không phải là dựa vào lời nói hoa mỹ nịnh nọt.
‘Thì ra là Trần tham quân, đại tướng quân các ngươi có khỏe không? Nghe nói vai trái của hắn vào đầu năm trong chiến tranh với người Ả Rập đã bị thọ thương, bây giờ đã khỏi chưa?” Irony lo lắng hỏi thăm.
“Đa tạ công chúa điện hạ quan tâm, đại tướng quân bọn ta rất tốt, vết thương ở vai cũng trên cơ bản đã bình phục rồi.”
“Ài! Ta cũng là quá bận rộn, nếu không ta phải đi Toái Hiệp đích thân đến thăm hắn một chút.”
Irony cảm khái một câu, đề tài bèn từ từ chuyển đến trên vấn đề chính, hỏi: “Không biết Trần tham quân lần này xuất sứ nước ta, có phụ trách sử mệnh gì không?”
Trần Thiếu Du do dự một chút, vốn dĩ những lời này là gặp được hoàng đế Byzantium mới nói, nhưng lúc giữa trưa uống rượu Đỗ Minh Bồi nói với hắn, bây giờ thực quyền quân sự của đế quốc Byzantium là nắm trong tay của công chúa Irony, quyết định là có xuất chiến với Đại Thực hay không, cũng là do nàng ấy quyết định.
Vì thế, Trần Thiếu Du sau khi do dự một chút, vẫn là thẳng thắn nói ra: “Đại tướng quân nhà ta mệnh ta bí mật xuất sứ đế quốc Byzantium, là hi vọng ở một thời khắc nào đó trong tương lai, đế quốc Byzantium thực thi áp lực quân sự đối với người Ả Rập.”
“Một thời điểm nào đó trong tương lai, cụ thể là vào lúc nào?” Irony ở trên sự vụ quân sự một chút cũng không hàm hồ.
“Đại tướng quân nhà ta nói, đại khái là mùa xuân hoặc mùa hạ năm sau.”
Vừa nói, Trần Thiếu Du vừa lấy ra thư thân bút của Lý Khánh An, giao cho Irony. Nàng từ tay của thị vệ đón nhận lấy thư, nhìn da thư một cái, Lý Khánh An là dùng tiếng Đột Quyết để viết, gửi cho phụ thân nàng, nhưng nàng vẫn là bóc thư ra xem, trong thư là bút tích cương mãnh của Lý Khánh An, nhưng ý nghĩa rất rõ ràng, An Tây sẽ tác chiến với một toán thế lực lớn mạnh của phía tây triều Đường, địa điểm sẽ ở Thổ Hỏa La, để đề phòng người A Rập vào lúc tác chiến thừa cơ hội của, Lý Khánh An hi vọng đế quốc Byzantium có thể thực hiện những điều quy định trên minh ước quân sự của bọn họ, ở thời khắc mấu chốt tiến hành tạo áp lực quân sự với vương triều A Bạch Tư (*Abbsid).
Quyền lực tạo áp lực quân sự đối ngoại quả thật đã chuyển dời đến trong tay của Irony, nàng trầm tư chốc lát, bèn cười nói: “Đương nhiên, chúng ta đôi bên đã có minh ước từ trước, bọn ta tự nhiên sẽ toàn lực ủng hộ triều Đường, ngoài ra, để hai bên hợp tác vui vẻ, cá nhân ta còn có hai yêu cầu nho nhỏ.”
Đối phương có yêu cầu là nằm trong sự dự liệu, Trần Thiếu Du bèn nói: “Công chúa điện hạ mời nói!”
Irony nhã nhặn mỉm cười nói: ‘Xin ngươi chuyền cáo Lý tượng quân, ta hi vọng có thể nhận được ba món trang bị của ba vạn bộ quân đội, có thể ở trong ba năm cung hàng dần, đương nhiên, ta sẽ thông qua mậu dịch bình thường thu mua, nhưng ta hi vọng có được giá cả ưu đãi nhất, dùng sáu thành của giá cả lần trước, còn nữa, ta hi vọng triều Đường có thể nghiêm ngặt tuân thủ giao dịch xuất khẩu của quân giới, ta không muốn nhìn thấy quốc gia phương tây khác cũng trang bị vũ khí của quân Đường, chi hai điều kiện này thôi.”
Bọn người Hồi Hột chẳng qua là kiểu tấn công của cường đạo, bọn họ trên mặt nào đó chỉ là vì báo thù rửa hận, chứ không có trông mong đánh đến Toái Hiệp thật sự, Cùng với trận tuyết đầu tiên ập đến An Tây, những kỵ binh Hồi Hột đã gϊếŧ sạch người Cát La Lộc bắt đầu nhớ nhà.
Nhưng lúc đến thì dễ dàng, lúc về lại khó, Quân Đường đã từ ba hướng bao vây lấy bọn chúng; phía nam là hai vạn quân Đường Toái Hiệp tinh nhuệ, gác thủ mấy tòa thành trì như Y Lệ thành, hơn nữa dưới sự liên hợp của liên quân tam Hồ, bắt đầu tiến dần về phía bắc; hai vạn quân Đồng La tại Cung Nguyệt thành và một vạn quân Sa Đà đã chặn đứng con đường đông tiến của Hồi Hột; còn phía bắc Kim Sơn là ba vạn quân Cát La Lộc mang mối hận tày trời đánh đến, người Hồi Hột đã gϊếŧ sạch phụ mẫu chị em của họ, bọn họ đến là để liều mạng.
Người Hồi Hột cuối cùng cũng lựa chiến đánh với người Cát La Lộc, Đây là tâm trạng diệt cỏ phải diệt tận gốc, cũng là để tránh sau này người Cát La Lộc còn quay lại báo thù, nên nói đây là trận chiến lấy độc trị độc, theo quy tắc của người thảo nguyên, quân Đồng La và Sa Đà không có tham chiến, đế người Cát La Lộc tự giải quyết hận thù, Quân Đường cũng dừng lại từ ngoài một trăm dặm, Lý Khánh An có mặt lệnh phát đến: không được can thiệp nội chiến của người Hồ.
Đây là một chiến dịch phụ thù và phản phục thù, song phương binh lực tương đương, thế lực tương đối, sau trận ác chiến hai ngày hai đêm, xác chết chất đầy thảo nguyên, Và đây cũng là trận đấu không chết không thôi, người Cát La Lộc thề không tiếc giá nào phải gϊếŧ sạch tất cả người Hồi Hột, còn người Hồi Hột cũng bị giữ chặt chân không cách nào thoát ra được, Sau song phương đều bị tổn thất gần bảy phần binh lực, người Hồi Hột cuối cùng không cầm cự nổi bị đánh bại, năm ngàn tàn binh còn lại bỏ chạy trên thảo nguyên, người Cát La Lộc chỉ còn lại bảy tám ngàn người vẫn đuổi theo không tha, Bọn chúng cử đuổi theo mãi, tác chiến mãi, cho đến khi đuổi đến ngàn dặm xa xãm, vô số chiến mã mệt chết, cuối cùng người Hồi Hột chỉ còn không đến hai ngàn người chạy thoát, còn người Cát La Lộc cũng chỉ còn lại không đến năm ngàn tàn binh mỏi mệt.
Kết quả của việc người Hồi Hột nam xâm là sự hùy diệt của một dân tộc, cuối cùng năm ngàn người Cát La Lộc kia quay trở lại, Lý Khánh An bèn xếp luôn năm ngàn tàn quân này vào đội ngũ quân Đường, lại nạp cả thảo nguyên của Cát La Lộc vào Toái Hiệp châu, tại nơi đó tu kiến Huyền Trì huyện, Từ đó trở đi, người Kim Sơn Cát La Lộc bị biến mất trên dòng lịch sử Trung Đường.
Tháng ngày dần trôi, lại đến đầu tháng mười một, trận tuyết lớn thứ hai lại một lần nữa ập đến An Tây, báo hiệu mùa đông băng giá thật sự đã đến, Chiến tranh An Tây cũng tạm thời ngủ đông cùng băng tuyết, đi vào thời kỳ tu chinh, Lúc này, dân đoàn An Tây chinh binh lại bắt đầu bận rộn, các tỉnh các huyện đâu đâu đều dán đều bố cáo trưng binh, Chế độ mộ binh của An Tây thi hành khác nội địa, mà là chế độ quân hộ, mỗi nhà mỗi hộ đều có nghĩa vụ xuất binh, theo quy định mỗi hộ chỉ xuất một binh, cha mẹ có con vào quân đội sẽ được hưởng đãi ngộ miễn thuế, Lúc nông vụ bận rộn, quan phụ mẫu địa phương còn phải tổ chức nhân lực và trâu cày đến chi viện.
Nhưng chế độ quân hộ này chỉ áp dụng cho người Hán, nhưng lần này An Tây tiết độ sứ phủ đã ban bố lệnh thoái ân, đó là phạm vị trưng binh sẽ được mở rộng ra toàn An Tây, gồm cả các dân tộc. Đương nhiên, phụ mẫu vợ con của các quân dân người dân tộc đều cũng sẽ được hưởng đãi ngộ như quân hộ người Hán.
Quan viên An Tây cũng đã ước đoán theo cách trưng binh như thế thì chỉ trong một mùa đông này chí ít có thể gia tăng thêm mười vạn đại quân.
Và đồng thời, hai mươi mấy quân giới công phường tại Toái Hiệp và Thạch Quốc cũng bắt đầu bận rộn, Bọn họ phải chuẩn bị rèn đúc binh khí, phối chế hòa khí, ngoài ra mỗi nhà mỗi hộ tại An Tây đều nhận được nhiệm vụ mùa đông, quan phủ sẽ cung cấp nguyên liệu, mỗi hộ nhất thiết phải may một chiếc túi ngủ, ba đôi giày đế giày quân dụng.
Với công cuộc chuẩn bị cho trận chiến sắp tới triều đình cũng biểu thị toàn lực ủng hộ, Đầu tháng mười một, mười vạn bộ giáp quang minh khải và hai mươi vạn cây hoành đao cùng mười vạn bộ cung nỏ đã được chuyên đến từ Trường An, Đội xe ngựa đã đến Bắc Đình, đây chẳng khác chi là giúp quân Đường An Tây như hổ thêm cánh, thực lực gia tăng rất nhiều.
Trong lúc Toái Hiệp đang ngày đêm không ngừng chuẩn bị cho trận chiến, sự chủ ý của Lý Khánh An lại lẳng lặng được chuyên hướng, Việc bị chiến hắn chỉ cần đưa ra phương hướng, các phương án thực thi cụ thể ắt có thuộc hạ của hắn tiến hành, điều hắn suy ngẫm nhiều hơn là việc tại Trường An.
Xe ngựa tức tốc đi qua phố lớn thành Toái Hiệp, Lý Khánh An bình thản ngồi trong xe ngắm nhìn phố phường náo nhiệt bên ngoài. Bây giờ đã là đầu tháng mười một, thêm hai tháng nữa sẽ là tết, phố phường Toái Hiệp cũng chẳng khác chi phúc địa Quan Trung, nơi nơi đều là xe ngựa của khắp nơi đến Toái Hiệp để sắm hàng tết, rất nhiều đều là các hộ gia đình người Hán đến mua sắm, Bọn họ phần lớn đều đến từ cứ điểm định cư người Hán, Các cứ điểm định cư tuy không không thiếu thốn cái ăn cái uống, nhưng các vật dụng phẩm hàng ngày cùng trang sức châu báu thì vẫn thua xa Toái Hiệp.
Trên phố phường đã được mùa đông phủ lên lớp tuyết trăng, trước hai điểm trưng binh đã xếp một hàng dài, mấy tên Hồ thương dẫn theo đản lạc đà dài đang hỏi han dò la điều chi đó tại đầu đường, trên lạc đà chồng chất nào là túi bông vải và da thảm da, Đấy đều là vật phẩm dễ bán, quân phương và dân gian đều cần rất nhiều.
Trong lòng Lý Khánh An lại càng nhiều xúc cảm hơn. E rằng sau trận chiến Thổ Phồn này, cơ hội trở về An Tây của hắn chắc đã không còn nhiều, Làm sao tăng cường liên hệ giữa nội địa với An Tây chính là vấn đề hắn suy nghĩ mấy hôm nay. Tất nhiên, hắn giờ đã xây dựng được một hệ thống liên lạc bằng bồ câu hoàn chỉnh, dọc đường từ Trường An đến Toái Hiệp có đến hai mươi mấy trạm trung chuyển bồ câu, lại cho dựng năm mươi mấy dịch trạm, như thế có thể đảm bảo thư bồ câu trong vòng mười lăm ngày, còn thư đường ngựa trong vòng năm mươi ngày sẽ có thể đến Toái Hiệp.
Nhưng nội dung thư bồ câu quá ít quả thực là điều khiến người khác đau đầu, Như hai tháng trước đây, một quản sự tại dịch trạm nhận thư bồ câu đã thông minh phát minh ra một loài “cáp ngữ"" (*ngôn ngữ viết tắt cô đọng ghi trên bồ câu, hay có thể gọi là câu ngữ), dùng chữ cái Đột Quyết để thay thế, một chữ có thể thể dùng để biền đạt một câu nói thường dùng, chỉ cần song phương đều có cùng bộ giải mã thì trên một tờ giấy quyên nhỏ cũng có thể viết được lượng lớn thông tin.
Đây chính là tiền thân của mật mã hậu thế, phương pháp này đã bị phía quân đội quan tâm và đem ra nghiên cửu, có lẽ sau này binh xích hầu đưa thư sẽ không còn sợ bị quân địch chặn, như thế sẽ được gia tăng nhiều tính bảo mật của tình báo, Vì thế Lý Khánh An đặc cách hạ lệnh, trọng thưởng cho người phát minh ra “cáp ngư’ , và đã điều người đó vào làm việc tại hành quân tư mã thự của quân An Tây.
Nhưng như thế vẫn chưa đủ, vật tư gửi đến vẫn còn khó khăn, Từ Trường An vận chuyển vật tư đến An Tây cần năm mươi ngày đến hai tháng, trên đường vận chuyển phải tốn rất nhiều sức người sức của, muốn gia tăng giao lưu hai vùng, tu kiến Đường trực đạo trở thành nhiệm vụ quan trọng hơn cả thường, Để gia tăng tiến độ tu đường, Lý Khánh An lại lệnh quân phương điều hai vạn năm ngàn tên tù binh Thổ Phồn bị bắt cóc trong trận chiến Thả Mạt thành vào đại quân xây đường, Hắn hi vọng nội trong năm sau có thể hoàn thành công trình gian khổ này.
Chính sự đường An Tây kiểm tính qua lại nhiều lần, nếu như dùng Đường trực đạo từ Lũng Hữu cưỡi ngựa đến An Tây Y Châu, nhanh nhất chỉ cần mười lăm ngày, rồi từ Hội Châu, Cam Châu, Y Châu cho tu sửa lượng lớn kho trung chuyên cùng dịch trạm, không nghi ngờ gì chắc chắn có thể tăng cường liên hệ thư từ cùng vật tư giữa An Tây và Trung Nguyên, Đây đúng là một tiền cảnh khiến mọi người mong đợi.
Chỉ có giải quyết được vấn đề giao thông giữa An Tây và phúc địa thì hắn mới có thể thật sự đạt được ý nghĩa chiến lược trong việc đông tiến.
Trong lúc Lý Khánh An đang trầm tư thì bỗng nghe tiếng xôn xao tự điểm trưng binh đầu đường vọng đến: “Ta không đạt tiêu chuẩn điểm nào cơ chứ? Ta tuy hơi gầy hơi nhỏ người, nhưng ta đã mười tám tuổi rồi, ta không lừa các ngươi.”
“Thiếu lang quán, ngươi rõ ràng chỉ là một đứa trẻ! Bọn ta có quy định, mười sáu tuổi trở xuống sẽ không thể nhận.”
“Ta có thể đọc gách viết chữ, có thể làm văn chức, ta xin các ngươi, ta từ vạn dặm đường xa Trường An đến đây chính là để kiến công lập nghiệp tại An Tây. Xin các ngươi hãy nhận ta đi!”
Lý Khánh An nghe giọng nói của cậu thiếu niên này có vẻ hơi quen tai, bèn lập tức hạ lệnh: “Dừng xe!”
Xe ngựa dừng lại, Lý Khánh An lúc này mới nhìn kỹ bên điểm trưng binh đang có không ít người vây quanh, hắn bèn nói với một thân binh: “Ngươi đi xem thử, xem đã xảy ra việc gì.”
Mấy tên thân binh nghe lệnh cưỡi ngựa phóng đi, bọn người vây quanh cũng lũ lượt tránh ra, thán binh lớn tiếng hỏi: “Đại tướng quân hỏi bên đây rốt cuộc xảy ra việc gì?”
Hiệu úy phụ trách trưng binh chỉ vào cậu thiếu niên ăn mày một bên chấp tay nói: “Người thiếu niên này muốn tòng quân, nhưng thuộc hạ thấy hắn tuổi hình như vẫn chưa đến mười sáu, nên đã không chấp nhận.”
Lúc này, cậu thiếu niên mà hốt hoảng nhìn nhìn phía xe ngựa của Lý Khánh An, xong bèn vội quay lưng bỏ chạy, nhưng đã bị mấy tên binh sĩ trưng binh bên cạnh nhanh tay tóm lấy.
“Các ngươi thả ta ra, ta không đi tòng quân nữa!” Cậu thiếu niên liều mình vùng
vẫy.
Thân binh liếc nhìn hắn một cái, thấy mắt hắn lộ rõ kinh hoảng; trong lòng thắc nghi hoặc bèn huơ tay hỏi: “Đều dẫn hết đi! Đại tướng quân có lời muốn hỏi!”
Hiệu úy phụ trách trưng binh nghe xong bèn dẫn cậu thiếu niên đi đến trước xe ngựa Lý Khánh An. Thiếu niên quay đầu sang một bên không chịu nhìn thẳng Lý Khánh An.
Lúc này này Lý Khánh An đã nhận ra cậu thiếu niên trông như ăn mày này, cái khuôn mặt xấu xí dị thường của cậu chính là chiêu bài không lẫn vào đâu được. Cậu thiếu niên này hóa ra lại là Lư Ký con trai của ngự sử trung thừa Lư Dịch. Mấy tháng trước hắn từng gặp hắn một lần trong Lư phủ, Lúc ấy Lý Khánh An đã động viên hắn đến An Tây một chuyến, không ngờ cậu đã đến An Tây thật, hơn nữa còn là đến Toái Hiệp, trông bộ dạng cậu có vẻ như là lén trốn ra khỏi nhà.
Trong lòng Lý Khánh An không khỏi có vài phần thán phục quyết tâm của thiếu niên, nhưng trên mặt hắn vẫn không biểu lộ gì, vẫn trầm mặt lại thét lên: “Lư Ký, ngươi có biết mình đã phạm phải tội gì không?”
Cậu thiếu niên này chính là Lư Ký. Hắn hôm đó do được Lý Khánh An khích lệ, trong lòng bèn hạ quyết tâm, Sau vài lần thương lượng với phụ thân đều bị cự tuyệt, cuối cùng hắn chỉ để lại một lá thư, trong người mang theo mấy chục đồng tiền bạc, cười thêm còn la sầy một mình xuất phát đến An Tây.
Qua vài tháng dặm trường, tiền hắn đã tiêu sạch, con lửa gây gò của mình cũng đã bán, cuối cùng là làm giúp việc cho một Hồ thương mới đến được An Tây, Hồ thương không dám tiếp tục dẫn theo hắn tây hành, bèn tặng cho hắn ít tiền rồi hai người chia tay từ đó, Lư Ký muốn đi tìm Lý Khánh An, nhưng lại không dám, vì thế hắn đã lang thang hai mươi mấy ngày nay tại Toái Hiệp, lại đương gặp lúc Toái Hiệp trưng binh, hắn bèn sinh ý tòng quân.
Trong lòng Lư Ký quả thật sợ hãi, hắn chỉ đành thật thà đi lên thi lễ nói: “Tham kiến thế thúc!”
“Ta hỏi ngươi, ngươi đến An Tây, phụ thân và bá phụ của ngươi có biết không?”
“Không biết!” Lư Ký sợ hãi cúi đầu nói.
“Giờ ngươi còn sống là do ngươi may mắn, nếu không cái tội bất hiếu của ngươi đã rành rành.”
Cảm phục là cảm phục, nhưng trong lòng Lý Khánh An cũng không khỏi cáu bực với hành động lỗ mãng của cậu thiếu niên này. Nếu như Lư Ký chết tại An Tây, vậy mối thù giữa hắn và Lư gia cũng sẽ được định, may mà ông trời còn để hắn gặp được cậu thiếu niên này.
Lư Ký mấp máy môi, hắn bỗng dưng dốc hết can đảm nói : “Đại tướng quân, ta muốn tòng quân, ta biết ta không thể đánh trận, nhưng ta có thể làm văn chức, chép văn thư chẳng hạn.”
Lý Khánh An lắc lắc đầu nói: “An Tây quân không cho phép thiếu niên dưới mười sáu tuổi tòng quân, đây là quy củ thép, dù là văn chức hay võ chức đi chăng nữa. Ta thân là An Tây chi chủ, càng không thể đi đầu làm trái. Năm nay ngươi mới mười hai tuổi còn thiếu bốn tuổi, dù ngươi có chí lớn cũng không được, ngươi hãy về Trường An trước, chăm chỉ dùi mài binh thư vài năm, đợi khi ngươi mười sáu tuổi ta sẽ cho người tòng quân tại Lũng Hữu, Giờ ngươi hãy viết một lá thư thỉnh tội với phụ thân ngươi đã, ngươi đã nghe rõ chưa?”
Lư Ký ủ rũ cúi sầm mặt, hắn biết minh không có hi vọng rồi, Lý Khánh An khoát tay nói với hai thân binh: “Hãy mau dẫn hắn đến phủ của ta giao cho tam phu nhân, nói đây là cháu ta, để tam phu nhân sắp xếp chỗ ăn ở cho hắn.”
Thân binh nhận lệnh bèn nhường ra một ngựa để đưa Lư Ký lên, xong dẫn hắn đi về, Lý Khánh An vẫn có phần không yên tâm, lại dặn dò một thân binh khác: “Ngươi sáng tối canh chừng lấy hắn, đừng để hắn có cơ hội trốn lần nữa.”
Thân binh gật gật đầu, cũng đi theo sau đuôi bọn Lư Ký từ xa xa, Tính nông nổi của Lư Ký khiến Lý Khánh An không khỏi đau đầu, xem ra hắn phải đích thân viết một lá thư cho huynh đệ Lư thị để giải thích mới xong.
Hắn lắc lắc đầu nói: “Tiếp tục xuất phát thôi!”
Xe ngựa lại tiếp tục đi về phía trước, đi thêm được vài con phố, nó lần nữa dừng lại trước cửa một tòa đại trạch, Trước cửa đã có mười mấy người bọn La Phẩm Phương chờ sẵn, Thấy Lý Khánh An đến bèn cùng đi ra nghênh đón.
Tòa đại trạch này chính là tổng đà của Ẩn Long hội năm xưa, bài vị của Ẩn thái tử Lý Kiến Thành được đặt ngay trong phủ. Từ khi năm trước Hán Đường hội chính thức bị Lý Khánh An đổi thành nội vụ tư An Tây, Hán Đường hội đã không còn, nhưng Ẩn Long hội hạch tâm của Hán Đường hội vẫn tồn tại.
Lý Khánh An vẫn là hội chủ, hai mươi mấy hội viên đại diện cho thập bát gia tướng của Kiến Thành, có điều trong hai mươi mấy hội viên này có khong ít người đều nhậm chứ trong nội vụ tư, nếu không là đích thân người đó thì cũng là người nhà người đó làm việc trong nội vụ tư.
Nhưng người còn lại hơi lớn tuổi thì đều đặt tâm tư vào việc làm ăn của gia tộc mình, như La Phẩm Phương, hắn và Thường Tiến cùng là phó hội trường của Ẩn Long hội, nhưng Thường Tiến là tổng quản nội vụ tư An Tây, còn La Phẩm Phương vì tuổi đã lớn không muốn tòng chính, nên con trai trường của hắn La Khải Minh được bố nhiệm làm Hà Trung đại đô đốc phủ trưởng sứ, còn bản thân La Phẩm Phu lại cùng thứ tử làm mậu dịch áữa An Tây và Byzantium, thành lập La Ký thương hãng, là một trong ba thương hãng tư nhân lớn của An Tây.
Dù cho bọn La Phẩm Phương tâm tư đều đã chuyển hết về thương trường, nhưng tôn chi trăm năm của Ẩn Long hội và mục tiêu ban đầu họ vẫn không dám quên, Mấy năm nay thực lực của Lý Khánh An từng bước lớn mạnh cũng khiến họ an ủi phần nào, nhưng Lý Khánh An được phong làm Triệu vương mới thực sự là việc khiến họ sướиɠ điên lên, Đây cũng có nghĩa là tông thất Lý Đường chính thức thừa nhận hậu duệ của Kiến Thành, Đây cũng là một mục tiêu đầu tiên mà gần trăm năm nay Ẩn Long hội mới đạt được, chí ít triều điều thừa nhận hậu nhân Ẩn thái tử.
La Phẩm Phương đi lên trước chấp tay cười nói: “Hiện tại trên dưới An Tây đều đang bận rộn chuẩn bị chiến sự, điện hạ sao có thời gian rành rỗi đến gặp bọn ta thế?”
La Phẩm Phương trên danh nghĩa chí ít cũng là ông ngoại của Lý Khánh An, nên lúc nói chuyện khẩu khí cũng khác với mọi người, có thể tùy ý một chút.
Lý Khánh An cười nói: “Hôm nay là ngày gì, không lẽ mọi người nghĩ ta đã quên sao?
Hôm nay là ngày mười một tháng mười một, vào ngày hôm nay của một trăm hai mươi tám năm trước, mười tám gia tướng của Kiến Thành đã bảo vệ thái tử phi Thường thị cùng đứa con trong bụng mẹ của Kiến Thành đi xa vạn dặm đến Toái Hiệp này, Ngày hôm nay cũng trở thành một trong hai ngày kỷ niệm quan trọng nhất của Ẩn Long hội; một là ngày mùng bốn tháng sáu biến sự Huyền Vũ Môn, một nữa là mười một tháng mười một ngày Ẩn Long tái sinh.
Mười hai người hội viên ở Toái Hiệp của Ẩn Long hội hôm nay cùng tụ tập từ đường, Vốn dĩ cũng muốn thông báo cho Lý Khánh An, nhưng mấy ngày nay Toái Hiệp bị chiến căng thẳng, mọi người thấy cũng không có việc chi trọng đại, do La Phàm Phương kiến nghị nên không thông báo cho Lý Khánh An biết, chi mọi người cùng tụ lại là được.
Giờ nghe Lý Khánh An nói hắn vẫn nhớ hôm nay là ngày gì mọi người nhìn nhau mà không giấu nỗi cảm động trong lòng, La Phẩm Phương khom người nói: “Kỳ thực năm nào cũng có kỳ niệm, cũng không phải việc gì đặc biệt, điện hạ công vụ bận bịu, nên không đến cũng không sao.”
“Nếu như ta đã ở Toái Hiệp rồi sao lại có thể không đến dự?”
Lý Khánh An thấy mọi người đều đứng trước cửa lớn, bèn cười nói: “Mọi người đều cùng vào thôi! Hôm nay là ngày quan trọng của Ẩn Long hội, chúng ta vẫn phải cử hành theo đủng nghi thức truyền thống chứ.”
Mọi người cùng vào cửa, mấy mươi thân binh tâm phúc của Lý Khánh An cũng đi vào theo. Cánh cửa to đen tuyền từ từ được đóng lại.
Hậu trạch chính là từ đường, mọi người đều thay một bộ hắc bào viền bạc, đầu đầu mũ quán, trên tay cầm một cây ngọc bài có khắc tên tô tiên của họ đang từng bước từng bước đi vào cửa lớn từ đường.
Đại môn từ đường đã được mở to, trên lư đồng đã khói lam phảng phất, chiếc bàn ngay đằng sau hương nhang đã đặt linh vị của Lý Kiến Thành, đề: “Đại Đường hoàng đế bốn tông Chính Nguyên Kiến Thành thái tử chi linh”, đằng sau linh vị này là dãy linh vị dài, trong đó có thái từ phi Thương thị chi linh, và còn có bài vị của Lý Thừa Tự hội chủ đầu tiên của Ẩn Long hội, và cả linh vị của thập bát gia tướng.
Bên cạnh lư đồng là một ông lão tuổi đã cao, hắn là Thường Tịch, là tổ phụ của Thường Tiến, và cũng là nguyên đời thứ hai duy nhất của Ẩn Long hội đến này vẫn còn sống, Năm nay cụ đã gần chín mươi, đầu tóc đã bạc phơ, trên mặt trải đầy cái nếp nhăn dấu tích thời gian.
Lưng cụ đã gù, đứng còn không mấy vững vàng tại đó, ngỡ như chỉ cần một cơn gió thoảng cũng có thể làm cụ ngã. Dù cho là thế, cụ vẫn mặc trường bào viền bạc, tay cằm ngọc bài, sắc mặt nghiêm túc hơn thường, trong đôi mắt đã từng trải sóng gió cuộc đời lúc này lại rơm rớm nước mắt, Cụ nhìn Lý Khánh An tự tin đắc ý đang từ từ đi lên mà phảng phất mình nhìn thấy hơn trăm năm trước, chủ hội đầu tiên Lý Thừa Tư tuổi trẻ được thập bát gia tướng hộ tống đến đây cử hành nghi thức này.
Tuy đã hơn một trăm năm qua đi, các đấng tổ tiên đã trở về với cát bụi, nhưng tinh thần của họ,tính ngưỡng vẫn trường tồn, mà ước mơ của tổ tiên cũng đã từng bước được thực hiện.
Thường Tịch lặng lẽ chùi đi nước mắt khỏe mắt, hắn giơ cao chiếc búa đồng nhỏ, nhẹ nhàng gõ lên chuông đồng, kéo dài giọng hơi khàn của mình nói: “Lên nhang! Quỳ lạy...”
Lý Khánh An nhận lấy ba nén nhang từ tay Thường Tiến, quỳ xuống khấu bái vài lần rồi cắm nhang vào lư đồng, Tiếp theo sau đó các thành viên của Ẩn Long hội cũng lần lượt quỳ xuống bậc thềm bạch ngọc, Họ một lòng khấu bái ba lạy cho các linh vị. Giờ phút này Lý Khánh An đã thật sự xem mình là con cháu của Lý Kiến Thành, hắn lẩm bẩm nói: “Tiên tổ tại thượng, cháu đời thứ tư Lý Khánh An xin thề với vong linh của tiên tổ, rồi sẽ có một ngày, cháu sẽ dẫn linh bài của tiên tổ trở lại Huyền Vũ Môn!”
Sau nghi thức, cửa lớn từ đường sau hậu viện lại từ từ đón lại, mọi người lại mặc lại bộ áo quần thường ngày trở lại khách đường, ngồi thành hai hàng trong khách đường, Lý Khánh An ngồi ở chủ vị, hắn rút long phụng song bội ra đặt trên bàn, mấy tên thân binh của hắn cũng nhanh chân nhanh tay dâng trà lên cho mọi người.
Lúc này có cảm giác ngày hôm nay cũng như một buổi trà hội gặp mặt, Kỳ thực đây cũng là một trong số nghi thức, gọi là “vấn trách”, Từ tên gọi có thể đoán được, chính là thời gian ngồi ngẫm nghĩ lại một năm qua, bao gồm cả việc chất vấn của mọi người với chủ hội, và cả vặn hỏi của chủ hội với mọi người.
Đại loại như ‘Một năm rồi ngươi đã làm được những việc gì? Ngươi có kế hoạch dự định eì cho một năm tới? Thấm thoát một năm đã qua mà chúng ta vẫn chưa làm gì, biết nói thế nào với tổ tiên chúng ta đây…’
Năm xưa còn làm hội chủ Lý Đang sợ nhất chính là nghi thức này, hắn thường xuyên phải nghĩ đủ trò để cho qua cái nghi thức này, như thể bị mọi người hỏi thì sẽ vờ ngất ngay tại chỗ, khóc lóc bù lu bù loa, hay thề thốt này nọ… Mọi người cũng biết hắn chỉ là công tử bột phá gia chi tử nên cũng không có truy cứu gì hắn.
Nhưng từ khi Lý Khánh An lên làm chủ hội thì nghi thức vấn trách này đã trở nên khác hẳn. Quan trọng là Lý Khánh An quá mạnh, mọi người không ai dám cùng lên chất vấn khó dễ hắn, chỉ là đưa một đại biểu lên hỏi vài câu tượng trưng.
Ánh mắt mọi người lúc này cùng nhìn về hướng Thường Tiến, hôm nay hắn là người đại diện vấn trách, Thường Tiến có phần thấy đau đầu, tổ phụ hắn có mặt đây mà, thế kêu hắn làm sao dám chất vấn?
Lúc này, Thường Tịch bỗng nói: “ vấn trách hôm nay hãy để ta hỏi vậy!”
Hắn run rẩy đứng lên, quỳ trước Lý Khánh An, từ từ nói: “Thuộc hạ muốn hỏi hội chủ, thiên hạ chi thế chúng ta đã được mấy phần?”
Lý Khánh An khom người trả lời: “Hồi bẩm vấn trách, thiên hạ chi thế chi được ba phân.”
“Còn bảy phân khác tại đâu?”
“Thành Đô Thục chủ ba phân, thiên hạ chư hầu và tông thất ba phân, còn một phân tại nhân tâm chưa đắc.”
“Nhân tâm lúc nào có thể đắc?”
“Khi Ẩn Long không ẩn, nhân tâm ắt sẽ quy phụ.”
Lần này Thường Tịch đã cười, cười như một đứa trẻ, “Hội chủ nói chí phải, khi Ẩn Long không ẩn, nhân tâm ắt sẽ quy phụ.”
Hắn lại quay sang nói với mọi người: “Từ khi hội chủ lên ngôi luôn bao dung với chúng ta, cũng chẳng bao giờ cặn hỏi, nhưng Ẩn Long xuất thế tuyệt không phải việc của một mình hội chủ, Ẩn Long hội chúng ta tuyệt không có việc trốn tránh trách nhiệm, ta đề nghị Ẩn Long hội chính thức di dời về Trường An, hai mươi hội viên Ẩn Long hội sẽ bỏ đi nhiệm vụ đời trần, dùng hết vật tư trong tay chúng ta có để Ẩn Long không còn phải ẩn, dồn hết sức chúng ta!”