Trấn Thủ Thành Meereen

Chương 15: Jon

Val chờ ở gần cổng trong cái lạnh trước bình minh, người cô cuộn trong chiếc áo choàng da gấu rộng thùng thình đến nỗi Sam cũng mặc vừa. Bên cạnh cô là một con ngựa nhỏ đã được thắng yên và buộc dây cương, với bộ lông xám xù và một bên mắt màu trắng. Đứng cùng cô gái là Mully và Edd U Sầu, cặp vệ sĩ bất đắc dĩ của cô. Râu họ phủ kín băng trong đêm đen lạnh lẽo.

“Cậu cho cô ấy con ngựa mù à?” Jon ngờ vực.

“Nó chỉ mù một mắt thôi mà lãnh chúa,” Mully nói. “Ngoài ra thì nó vẫn là một con ngựa tốt.” Cậu ta vỗ lên cổ con ngựa.

“Con ngựa có thể mù một mắt, nhưng tôi thì không,” Val nói. “Tôi biết mình phải đi đâu.”

“Tiểu thư, cô không cần phải làm việc này. Rủi ro…”

“... tôi chịu, Lãnh chúa Snow. Và tôi không phải là một quý cô phương nam, mà là một phụ nữ du mục. Tôi hiểu khu rừng đó hơn tất cả đám biệt kích áo đen các anh. Đối với tôi nó chẳng có gì ma mị và đáng sợ cả.”

Tôi cũng mong như vậy. Jon rất hy vọng vào điều đó và tin rằng Val sẽ thành công trong khi Jack Bulwer Đen và các bạn đồng hành của ông ta thất bại. Cô ấy sẽ không gặp nguy hiểm gì từ đám dân du mục, anh hy vọng như thế… mặc dù cả hai đều biết quá rõ rằng du mục không phải là những kẻ duy nhất đợi họ ngoài khu rừng kia. “Cô có đủ lương thực chưa?”

“Bánh mì cứng, pho mát cứng, bánh yến mạch, cá thu muối, thịt bò muối, thịt cừu muối, và một bì rượu ngọt để nhấn chìm vị muối trong miệng tôi. Tôi sẽ không chết đói đâu.”

“Vậy thì đến giờ cô phải lên đường rồi.”

“Tôi đảm bảo với ngài, Lãnh chúa Snow. Tôi sẽ trở lại, dù có Tormund đi cùng hay không.” Val liếc nhìn bầu trời. Vầng trăng bán nguyệt treo trên đầu họ. “Ngày đầu tiên trăng tròn, nếu tôi chưa về thì hãy đi tìm tôi.”

“Tôi sẽ làm như vậy.” Đừng phụ ta, nếu không Stannis sẽ không để cho cái đầu ta ở yên trên cổ. “Ngươi hứa sẽ luôn giữ công chúa của chúng ta bên mình chứ?” Nhà vua nói như vậy, và Jon đã hứa với ông. Tuy nhiên Val đâu phải là công chúa. Ta đã nói với ông ấy cả trăm lần. Đó là một kiểu thoái thác nhu nhược và yếu ớt, một mảnh giẻ rách tội nghiệp buộc quanh vết thương của anh. Cha anh sẽ không bao giờ đồng ý. Ta là thanh gươm bảo vệ vương quốc loài người, Jon tự nhủ, và cuối cùng, chắc chắn nó

sẽ giá trị hơn danh dự của một người đàn ông.

Con đường bên dưới Tường Thành tối tăm và lạnh giá như trong bụng rồng băng, ngoằn ngoèo như một con rắn. Edd U Sầu dẫn họ qua đường hầm với ngọn đuốc trong tay. Mully có chìa khóa mở ba cánh cổng chắn ngang đường hầm, với các chấn song bằng sắt đen dày như cẳng tay đàn ông. Lính cầm giáo đứng canh cổng cúi đầu chào Jon Snow nhưng trố mắt nhìn Val và con ngựa nhỏ của cô.

Khi họ bước qua cánh cổng dày bằng gỗ xanh mới đốn và xuất hiện ở phía bắc Tường Thành, công chúa du mục dừng lại một lúc, mắt nhìn xa xăm về phía bên kia cánh đồng tuyết phủ, nơi vua Stannis giành chiến thắng. Bên ngoài, khu rừng ma ám đang chờ đợi, tối tăm và im ắng. Ánh trăng bán nguyệt dát bạc lên mái tóc màu vàng mật ong của Val và khiến hai má cô trắng bệch như tuyết. Cô hít một hơi dài. “Vị của không khí ngọt ngào quá.”

“Lưỡi tôi đông cứng nên chẳng cảm nhận được gì. Tôi chỉ nếm được mỗi vị lạnh thôi.”

“Lạnh ư?” Val cười nhạt. “Không. Lạnh là khi thở cũng đau kia. Khi Ngoại Nhân đến…”

Suy nghĩ đó khiến người ta bất an. Sáu lính biệt kích Jon cử đi do thám vẫn đang mất tích. Vẫn quá sớm để nói như vậy. Có thể họ chưa quay về thôi. Nhưng một phần khác trong anh tin rằng họ đã chết, tất cả bọn họ. Ngươi cử họ đi để chết, và ngươi chuẩn bị làm điều tương tự với Val. “Nói với Tormund những gì tôi vừa nói nhé.”

“Có thể hắn sẽ chẳng thèm quan tâm anh nói gì, nhưng chắc chắn hắn sẽ nghe.” Val khẽ hôn lên má anh. “Cảm ơn anh, Lãnh chúa Snow. Vì đã cho tôi con ngựa mù một mắt, cho tôi cá thu muối, cho tôi không khí trong lành. Và cho tôi hy vọng.”

Hơi thở của họ trộn lẫn vào nhau, tạo thành màn sương trắng trong không khí. Jon Snow lùi lại và nói, “Lời cảm ơn duy nhất tôi muốn là…”

“…Tormund Giantsbane. Tôi biết rồi.” Val kéo mũ trùm đầu của chiếc áo choàng da gấu lên. Tấm da sống màu nâu điểm màu xám lấm tấm. “Trước khi đi, tôi chỉ có một câu hỏi. Anh có gϊếŧ Jarl không, thưa lãnh chúa?”

“Tường Thành gϊếŧ Jarl.”

“Tôi cũng nghe vậy. Nhưng tôi muốn hỏi lại cho chắc.”

“Cô nghe rồi đấy. Tôi không gϊếŧ anh ta.” Nhưng rất có thể tôi sẽ làm như thế nếu mọi chuyện khác đi.

“Vậy thì đây là lời giã biệt,” cô nói, giọng có phần bông đùa.

Jon Snow không có tâm trạng nào cho những lời đùa cợt. Trời quá tối tăm và lạnh lẽo, vả lại cũng đã muộn lắm rồi. “Chỉ một thời gian ngắn thôi mà. Cô sẽ trở lại. Nếu không còn lý do gì khác thì ít nhất cũng vì thằng bé chứ.”

“Con trai Craster ấy à?” Val nhún vai. “Nó có họ hàng gì với tôi đâu.” “Tôi đã nghe thấy cô hát cho nó nghe.”

“Tôi hát cho tôi nghe đấy chứ. Nó hóng hớt thì là lỗi của tôi à?” Một nụ cười nhạt thoảng qua trên môi cô. “Nó cười khanh khách khi nghe tôi hát. À, đúng rồi. Thằng nhóc đúng là một con quái vật bé xíu đáng yêu.”

“Quái vật?”

“Tên ở nhà. Tôi phải gọi nó bằng cái tên nào đó chứ. Anh để ý giữ thằng bé ấm áp và an toàn nhé. Vì mẹ nó, vì tôi. Và giữ thằng bé tránh xa nữ tu đỏ ra. Cô ta biết thằng bé là ai. Cô ta nhìn thấy mọi thứ trong ngọn lửa.”

Arya, anh nghĩ và hy vọng đó là sự thật. “Tro và than.” “Các vị vua và những con rồng.”

Lại là những con rồng. Trong giây lát Jon dường như nhìn thấy chúng đang cuộn mình trong đêm, đôi cánh đen của chúng nổi bật giữa một biển lửa. “Nếu biết sự thật thì cô ta đã giằng thằng bé khỏi tay chúng ta rồi. Đó là con của Dalla, không phải con quái vật của cô. Chỉ cần một lời đến tai nhà vua thì tất cả sẽ chấm hết.” Và tôi cũng tiêu đời. Stannis sẽ bảo đó là phản bội. “Nếu đã biết sự thật, tại sao cô ta lại làm ngơ?”

“Vì điều đó có lợi cho cô ta. Lửa là thứ không kiên định. Không ai biết một ngọn lửa sẽ đi theo hướng nào.” Val đặt một chân vào bàn đạp ngựa, vung chân trèo lên lưng ngựa và ngồi trên yên nhìn xuống. “Anh có nhớ chị gái tôi đã nói gì với anh không?”

“Có.” Một thanh kiếm không chuôi, sẽ chẳng có cách nào an toàn để cầm nó. Nhưng Melisandre có cái lý của cô ta. Một thanh gươm không chuôi vẫn tốt hơn là không có gì trong tay khi kẻ thù bao vây tứ phía xung quanh.

“Tốt lắm.” Val quay ngựa về phía bắc. “Vậy thì đêm trăng tròn đầu tiên nhé.” Jon nhìn theo bóng cô cưỡi ngựa đi xa dần và tự hỏi có bao giờ anh nhìn thấy cô lần nữa. Tôi không phải là một quý cô phương nam, dường như anh vẫn nghe thấy giọng nói của cô, mà là một phụ nữ du mục.

“Tôi chẳng quan tâm cô ta nói gì,” Edd U Sầu lẩm bẩm khi Val biến mất đằng sau một hàng cây thông lính. “Không khí lạnh đến nỗi hít thở cũng đau. Tôi muốn ngừng thở, nhưng như vậy còn đau hơn.” Cậu ta xát hai tay vào nhau. “Chuyện này sẽ không đem lại kết cục gì tốt đẹp.”

“Lúc nào cậu chẳng nói thế.”

“Vâng, thưa lãnh chúa. Và hầu như lúc nào cũng đúng.”

Mully hắng giọng. “Thưa lãnh chúa, công chúa du mục, để cô ta đi như vậy, mọi người sẽ nói…”

“…rằng ta cũng mang một nửa dòng máu du mục, một tên phản bội định bán cả vương quốc cho kẻ cướp, lũ ăn thịt người và bọn khổng lồ, đúng không.” Jon chẳng cần dán mắt vào ngọn lửa cũng biết họ đang nói gì về mình. Và phần tồi tệ nhất là những gì họ nói không hoàn toàn sai. “Lời nói như gió thoảng, và gió thì luôn thổi trên Tường Thành. Đi nào.”

Trời vẫn còn tối khi Jon quay trở lại nơi ở của anh đằng sau kho vũ khí. Bóng Ma vẫn chưa quay trở lại. Nó vẫn đang đi săn. Con sói tuyết trắng to lớn gần đây vắng mặt nhiều hơn; nó đi săn mỗi lúc một xa. Giữa người của Đội Tuần Đêm và đám du mục ở Thị Trấn Chuột Chũi, những quả đồi và đồng cỏ gần Hắc Thành đều đã sạch bách và hầu như chẳng còn lại gì cho con sói săn mồi. Mùa đông đang đến, Jon ngẫm nghĩ. Và sẽ rất, rất sớm thôi. Anh không biết họ có còn cơ hội nhìn thấy mùa xuân hay không.

Edd U Sầu xuống bếp và nhanh chóng quay lại với một cốc bia nâu và một đĩa ăn đậy kín. Dưới cái nắp, Jon thấy có ba quả trứng vịt rán mỡ, một dải thịt lợn muối xông khói, hai cái xúc xích, một bát tiết và nửa ổ bánh mì còn ấm mới lấy từ trong lò ra. Anh ăn bánh mì và nửa quả trứng. Lẽ ra anh sẽ ăn cả thịt xông khói, nhưng con quạ đã tha miếng thịt đi mất trước khi anh kịp động tay. “Đồ ăn trộm,” Jon nói khi con chim đập cánh bay lên thanh rầm đỡ trên cửa đi và ngấu nghiến chiến lợi phẩm của nó.

“Đồ ăn trộm,” con quạ đồng ý.

Jon cố ăn một miếng xúc xích. Anh đang tráng miệng bằng một ngụm rượu thì Edd quay lại báo với anh rằng Bowen Marsh đang đợi ở ngoài. “Đi cùng ông ta còn có Othell và septon Cellador nữa.”

Nhanh quá. Anh tự hỏi ai là người để lộ câu chuyện, và liệu có phải chỉ có một người? “Cho họ vào.”

“Vâng, thưa lãnh chúa. Nhưng ngài sẽ phải trông chừng cái xúc xích trước đám người này đấy. Trông mặt họ đều có vẻ đói khát lắm.”

Nhưng Jon sẽ không dùng từ đói khát để miêu tả bọn họ. Septon Cellador có vẻ bối rối, chuếnh choáng và đang rất cần vài cái vảy của con rồng dám thiêu đốt ông, trong khi Thợ Cả Othell Yarwyck trông như vừa nuốt phải cái gì đó không tiêu hóa nổi.

Bowen Marsh giận dữ. Jon có thể thấy điều đó ở đôi mắt ông ta, ở cái miệng đanh lại và hai má đỏ bừng. Không phải đỏ vì lạnh. “Xin mời ngồi,” anh nói. “Các vị muốn ăn uống gì không nhỉ?”

“Chúng tôi ăn sáng trong sảnh chung rồi,” Marsh nói. “Tôi vẫn có thể ăn thêm.” Yarwyck ngồi phịch xuống một chiếc ghế. “Cảm ơn ngài đã mời.”

“Có thể một chút rượu cũng được?” Septon Cellador nói. “Ngô,” con quạ từ trên lanh-tô cửa hét lên. “Ngô, ngô.”

“Rượu cho tu sĩ và một đĩa thức ăn cho thợ cả,” Jon bảo với Edd U Sầu. “Còn con quạ thì mặc kệ nó đi.” Anh quay lại với các vị khách của mình. “Ta biết mọi người đến đây vì Val.”

“Và những chuyện khác nữa,” Bowen Marsh nói. “Các anh em có rất nhiều mối quan tâm, thưa lãnh chúa.”

Vậy ai chỉ định ông nói thay cho họ thế? “Ta cũng vậy. Othell, công việc ở Pháo Đài Đêm diễn ra đến đâu rồi? Ta nhận được một lá thư từ Ser Axell Florent, người tự nhận là Quân sư của Hoàng hậu. Ông ta nói hoàng hậu Selyse không hài lòng với các doanh trại ở Trạm Đông Bên Bờ Biển và muốn được chuyển vào cơ ngơi mới của chồng bà ngay lập tức. Liệu như vậy có được không?”

Yarwyck nhún vai. “Chúng tôi đã khôi phục lại pháo đài gần như hoàn chỉnh và lợp mái cho khu bếp. Lãnh chúa hãy nhớ là bà ấy sẽ cần thực phẩm, đồ đạc và củi nữa, nhưng pháo đài đó cơ bản là ở được rồi. Tất nhiên là không dễ chịu như ở Trạm Đông. Và cách xa bờ biển, nếu hoàng hậu không muốn ở chỗ chúng tôi nữa, nhưng… đúng vậy, bà ấy có thể chuyển tới đó, dù phải mất vài năm nữa nơi đó mới trông giống như một tòa lâu đài tử tế. Sẽ nhanh hơn nếu tôi có nhiều thợ xây hơn.”

“Ta có thể cho ông một người khổng lồ.” Othell giật mình. “Con quái vật trên sân kia á?”

“ Leathers bảo tên hắn là Wun Weg Wun Dar Wun. Líu hết cả lưỡi. Leathers gọi hắn là Wun Wun, nghe có vẻ cũng ổn.” Wun Wun không giống như những người khổng lồ trong chuyện kể của Già Nan chút nào. Trong những câu chuyện đó, chúng là lũ sinh vật to lớn và hoang dã, trộn máu vào cháo để ăn sáng và ngấu nghiến hết cả một con bò, từ lông cho đến sừng và da. Người khổng lồ này không ăn tí thịt nào, nhưng hắn vẫn rất đáng sợ khi ăn hết vài xô rễ cây, nhai ngấu nghiến hành tây, củ cải, thậm chí nhai rau ráu loại củ cải cứng sống bằng hai hàm răng vuông vĩ đại. “Hắn rất sẵn lòng làm việc, nhưng để hắn hiểu được ông muốn gì thì không phải lúc nào cũng dễ. Hắn nói được một chút Ngôn Ngữ Cổ, còn tiếng phổ thông thì hoàn toàn mù tịt. Tuy nhiên, hắn làm việc không biết mệt mỏi và có sức khỏe phi thường. Hắn có thể làm

việc bằng hàng chục người khác đấy.”

“Tôi… thưa lãnh chúa, mọi người sẽ không đời nào… bọn khổng lồ ăn thịt người, tôi nghĩ… thôi, cảm ơn lãnh chúa, nhưng tôi sẽ không có người trông chừng một sinh vật như vậy đâu, hắn…”

Jon Snow không lấy gì làm ngạc nhiên. “Tùy ông thôi. Vậy chúng ta sẽ giữ tên khổng lồ đó lại đây.” Thật tình mà nói, bất đắc dĩ anh mới phải chia tay với Wun Wun. Anh chẳng biết gì cả, Jon Snow, Ygritte từng nói như vậy, nhưng Jon nói chuyện với người khổng lồ bất cứ khi nào có thể, thông qua Leathers hoặc một trong các cư dân tự do họ đem về từ khoảnh rừng thưa, và anh đã biết thêm rất nhiều điều về người khổng lồ và lịch sử của họ. Anh chỉ ước Sam ở đây để viết lại tất cả những câu chuyện đó.

Nói như vậy không có nghĩa là anh không biết Wun Wun có thể nguy hiểm như thế nào. Người khổng lồ sẽ phản ứng rất mãnh liệt khi bị đe dọa, và hai bàn tay vĩ đại kia đủ khỏe để xé một người ra từng mảnh. Hắn khiến Jon nhớ đến Hodor. Hodor to gấp đôi, khỏe gấp đôi, nhưng trí khôn thì chỉ bằng một nửa. Một ý nghĩ khiến ngay cả septon Cellador cũng phải tỉnh rượu. Nhưng nếu Tormund có người khổng lồ đi theo thì Wun Weg Wun Dar Wun có thể giúp chúng ta thương thuyết với chúng.

Con quạ của Mormont càm ràm khó chịu trên cánh cửa mở phía sau anh, báo trước việc Edd U Sầu trở lại với một bình rượu cùng một đĩa trứng và xúc xích. Bowen Marsh kiên nhẫn chờ đợi khi Edd rót rượu, và chỉ tiếp tục khi cậu ta đã rời đi. “Tollett là người tốt và rất được lòng kẻ khác, còn Emmett Sắt là một hiệp sĩ cấp cao tài giỏi,” ông ta nói. “Vậy mà có lời đồn rằng ngài định đẩy họ đi.”

“Chúng ta cần người giỏi ở Long Barrow.”

“Mọi người bắt đầu gọi nơi đó là Ổ Gái Điếm,” Marsh nói. “Cứ cho là thế đi, nhưng có đúng là ngài định cho tên Leathers hoang dã lên làm hiệp sĩ cấp cao của chúng tôi, thay cho Emmett không? Đó là một vị trí hầu như chỉ dành cho các hiệp sĩ, hoặc ít nhất cũng là lính biệt kích.”

“Leathers đúng là kẻ hoang dã,” Jon ôn tồn nói. “Ta thừa nhận điều đó. Ta vừa thử đấu với hắn trên sân tập. Với cây rìu đá, hắn cũng nguy hiểm như bất kỳ hiệp sĩ nào cầm kiếm thép rèn trong lâu đài. Ta đảm bảo với các ông, hắn không kiên nhẫn như ta đâu, một số cậu nhóc rất sợ hắn… nhưng đó vẫn chưa phải là điều tệ nhất. Một ngày nào đó họ sẽ bước vào cuộc chiến thật sự, và một chút kinh hãi sẽ tốt hơn cho họ.”

“Nhưng hắn là dân du mục.”

“Đã từng thôi, cho đến khi hắn nói lời tuyên thệ. Giờ hắn là anh em của chúng ta. Một người có thể dạy các cậu nhóc không chỉ thuật đánh kiếm. Học thêm vài từ trong

Ngôn Ngữ Cổ và một chút phong tục của cư dân tự do cũng có chết ai.”

“Tự do,” con quạ lầm bầm. “Ngô. Vua.”

“Nhiều người không tin tưởng hắn.”

Người nào? Jon định hỏi như vậy. Bao nhiêu người? Nhưng những câu hỏi đó sẽ đẩy anh vào con đường anh không muốn đi. “Ta rất tiếc vì điều đó. Còn gì nữa không?”

Septon Cellador lên tiếng. “Còn cậu nhóc Satin nữa. Nghe nói ngài định cho cậu ta làm cận vệ, thay thế cho Tollett. Thưa lãnh chúa, cậu ta là đĩ điếm… là một… tôi xin phép được nói thẳng… là một tên đồng tính đến từ nhà thổ ở Oldtown.”

Còn ông là một gã say xỉn. “Thằng nhóc làm gì ở Oldtown không phải chuyện của chúng ta. Thằng bé học rất nhanh và cũng rất thông minh. Các tân binh khác ban đầu khinh bỉ cậu ta, nhưng cuối cùng cậu ta đã được lòng và làm bạn với tất cả bọn họ. Cậu ta dũng cảm trong chiến đấu và thậm chí còn biết đọc biết viết. Chắc chắn cậu ta đủ khả năng đem đồ ăn và thắng yên ngựa cho ta, các ông không nghĩ vậy sao?”

“Có thể,” Bowen Marsh nói, mặt lạnh như đá, “nhưng người của chúng ta không thích như vậy. Theo truyền thống, cận vệ của tướng chỉ huy phải là những cậu nhóc gia đình dòng dõi và được huấn luyện để chỉ huy. Lãnh chúa có tin rằng người của Đội Tuần Đêm sẽ theo một tên đĩ đực ra chiến trường không?”

Cơn giận của Jon bốc lên. “Họ từng đi theo những kẻ tồi tệ hơn đấy thôi. Gấu Già để lại vài lời cảnh báo cho người kế vị của ông về một số kẻ trong Đội Tuần Đêm. Chúng ta có một đầu bếp ở Tháp Đêm, kẻ có sở thích hãʍ Ꮒϊếp các nữ tu. Hắn dí sắt nung hình một ngôi sao bảy cánh lên da mỗi khi có được một nữ tu. Cánh tay trái của hắn chi chít sao từ cổ tay lên đến khuỷu, và cả trên bắp chân cũng có. Ở Trạm Đông chúng ta có một người đốt nhà cha ruột và chèn cửa không cho ai thoát ra ngoài. Cả chín người trong gia đình cậu ta bị thiêu chết hết. Dù Satin đã làm gì ở Oldtown thì giờ cậu ấy cũng là một trong các anh em của chúng ta, và cậu ấy sẽ là cận vệ của ta.”

Septon Cellador uống một chút rượu. Othell Yarwyck xiên một cái xúc xích bằng con dao. Bower Marsh ngồi mặt đỏ tía tai. Con quạ vỗ cánh phành phạch và nói, “Ngô, ngô, gϊếŧ.” Cuối cùng, Lãnh Chúa Quản Gia hắng giọng. “Tôi dám chắc lãnh chúa là người hiểu biết nhất. Vậy tôi có thể hỏi về mấy cái xác trong ngục băng được không? Chúng làm người của chúng ta không thoải mái. Chúng lại còn được canh chừng nữa chứ! Rõ ràng chúng ta đang để phí phạm hai lính gác, trừ khi ngài sợ rằng họ sẽ…”

“… sẽ sống dậy ấy à? Ta cũng đang cầu mong như vậy.”

Septon Cellador tái mặt. “Thất Diện Thần nhân từ.” Rượu chảy xuống cằm ông thành một dòng đỏ rực. “Thưa tướng chỉ huy, xác sống là những sinh vật kỳ dị, gớm ghiếc không thuộc về tự nhiên. Chúng là nghiệt chủng trước con mắt của các vị thần. Ngài… ngài không định nói chuyện với chúng đấy chứ?”

“Họ nói được không?” Jon Snow hỏi. “Ta nghĩ là không, nhưng làm sao ta dám chắc chắn điều gì. Họ có thể là quái vật, nhưng họ là con người trước khi chết. Vậy bao nhiêu phần người còn ở lại? Ta tiêu diệt một cái xác khi nó định ám sát tướng chỉ huy Mormont. Hẳn nó phải nhớ ông ấy là ai và phải tìm ông ấy chỗ nào.» Jon chắc chắn Maester Aemon sẽ hiểu mục đích của anh; Sam Tarly sẽ thấy kinh hãi, nhưng rồi cậu ấy cũng sẽ hiểu. “Lãnh chúa cha ta luôn nói một người phải hiểu rõ kẻ thù của mình. Chúng ta hầu như chẳng biết gì về xác sống, và Ngoại Nhân lại càng không. Chúng ta cần phải nghiên cứu thêm.”

Câu trả lời không làm họ hài lòng. Septon Cellador đưa mấy ngón tay lên sờ viên pha lê trên cổ và nói, “Tôi nghĩ đây là quyết định dại dột nhất, Lãnh chúa Snow. Tôi sẽ cầu nguyện để Bà Già thắp sáng đèn và dẫn ngài đi trên con đường thông thái.”

Lòng kiên nhẫn của Jon Snow đã cạn. “Tất nhiên một chút thông thái sẽ tốt hơn cho chúng ta.” Ngươi chẳng biết gì cả, Jon Snow. “Giờ chúng ta nói về Val được chưa?”

“Vậy đó là sự thật sao?” Marsh nói. “Ngài đã thả cô ta.” “Ra ngoài Tường Thành.”

Septon Cellador hít vào một hơi. “Chiến lợi phẩm của nhà vua. Nhà vua sẽ nổi cơn lôi đình nếu cô ấy biến mất.”

“Val sẽ trở lại.” Trước khi Stannis về, nếu các vị thần tốt bụng.

“Sao ngài biết chắc thế?” Bowen Marsh hỏi.

“Cô ấy đã hứa như vậy.”

“Nếu cô ấy nói dối thì sao? Nhỡ cô ấy gặp phải chuyện không may thì sao?”

“Có sao đâu. Vậy thì lúc đó ông có cơ hội chọn cho mình một tướng chỉ huy thích hợp hơn. Từ giờ đến lúc đó, ta sợ rằng ông sẽ vẫn phải chịu đựng ta đấy.” Jon uống một ngụm bia. “Ta cử cô ấy đi tìm Tormund Giantsbane và đem cho hắn những điều khoản của ta.”

“Liệu chúng tôi có được biết đó là những điều khoản gì không?”

“Vẫn là những điều khoản ta đưa ra ở Thị Trấn Chuột Chũi thôi. Thức ăn, chỗ ở và hòa bình, nếu hắn tập trung sức mạnh với chúng ta để chống lại kẻ thù chung, giúp chúng ta bảo vệ Tường Thành.”

Bowen Marsh không hề tỏ vẻ ngạc nhiên. “Ngài định cho hắn qua cổng thành.” Giọng nói thể hiện ông đã biết điều đó từ lâu. “Mở cổng cho hắn và những kẻ đi theo hắn. Hàng trăm, hàng nghìn người.”

“Nếu hắn còn nhiều người như vậy.”

Septon Cellador làm dấu hình ngôi sao. Othell Yarwyck khụt khịt. Bowen Marsh nói, “Một số người sẽ bảo đó là phản bội. Bọn chúng là dân du mục, là lũ người hoang dã, cướp của gϊếŧ người, hãʍ Ꮒϊếp, phần thú nhiều hơn phần người.”

“Tormund không phải kẻ như vậy,” Jon nói, “cũng như Mance Rayder. Nhưng kể cả khi những lời ông nói là thật thì họ vẫn là người, Bowen ạ. Là người sống, là con người giống như ông và ta. Mùa đông đang đến rồi, thưa các lãnh chúa, và khi mùa đông đến, người sống chúng ta sẽ cần phải đoàn kết lại với nhau để chống lại cái chết.”

“Snow,” con quạ của Lãnh chúa Mormont thét lên. “Snow, Snow.”

Jon không đoái hoài gì đến con vật. “Chúng ta vẫn đang tra vấn đám du mục được đem về từ khu rừng trống. Một vài người kể những câu chuyện rất thú vị về một phù thủy rừng rậm tên là Mẹ Chuột Chũi.”

“Mẹ Chuột Chũi à?” Bowen Marsh nói. “Một cái tên kỳ quặc.”

“Có thể là do bà ta sống trong hang dưới một thân cây rỗng nào đó. Dù sự thật là gì thì bà ta cũng nhìn được trước tương lai, và bà ta nhìn thấy một hạm đội thuyền tới chở dân du mục an toàn qua biển hẹp. Hàng ngàn cư dân tự do chạy trốn khỏi chiến tranh, họ tin hoàn toàn những lời bà ta nói trong cơn tuyệt vọng. Mẹ Chuột Chũi dẫn tất cả bọn họ tới Hardhome, ở đó cầu nguyện và chờ đợi một người cứu rỗi đến từ bên kia biển hẹp.”

Othell Yarwyck cau có. “Tôi không còn là lính biệt kích, nhưng… nghe nói Hardhome là một nơi xấu xa tội lỗi. Nó bị nguyền rủa. Ngay cả chú của ngài trước đây cũng thường nói như vậy, thưa Lãnh chúa Snow. Tại sao họ lại tới đó?”

Jon có một cái bản đồ để trên bàn ở trước mặt. Anh quay cái bản đồ để tất cả cùng nhìn thấy. “Hardhome nằm trong một vịnh kín và có cảng tự nhiên đủ sâu để một con thuyền lớn nhất cũng nổi được. Gỗ và đá cũng dồi dào, mà lại ở rất gần. Biển thì đầy cá, hải cẩu và bò biển cũng tập trung từng bầy.”

“Tất cả đều đúng, tôi không có ý kiến gì về việc đó,” Yarwyck nói, “nhưng tôi sẽ không bao giờ muốn qua đêm ở đó. Ngài cũng nghe những câu chuyện kể rồi đấy.”

Đúng là anh đã nghe. Hardhome đang được xây dựng dở để trở thành thị trấn, một thị trấn thực sự duy nhất phía bắc Tường Thành, cho đến một đêm sáu trăm năm trước

khi địa ngục nuốt trọn nó. Người dân ở đó bị đem làm nô ɭệ hoặc bị gϊếŧ lấy thịt, tùy thuộc vào mỗi câu chuyện kể. Nhà cửa, lâu đài chìm trong đám cháy bừng bừng, nóng đến nỗi các lính canh trên Tường Thành ở tít phía nam còn tưởng mặt trời mọc ở phương bắc. Sau đó là một cơn mưa tro bụi phủ lên khu rừng ma ám và biển Run Rẩy trong suốt nửa năm. Theo thông tin từ các lái buôn, nơi từng là Hardhome giờ là một bãi hoang tàn như trong cơn ác mộng, một vùng toàn cây hóa thành than, xương cháy, sông ngòi nghẹn lại vì những xác chết trương phềnh, những tiếng rít kinh dị vọng lên các cửa động lỗ chỗ trên vách đá vĩ đại trên đầu.

Sáu thế kỷ đã trôi qua kể từ đêm đó, nhưng Hardhome vẫn bị xa lánh. Jon nghe nói nơi đó đã biến thành bãi hoang, theo lời các lính biệt kích thì bãi đổ nát giờ mọc đầy cỏ dại, một nơi bị ám ảnh bởi quỷ dữ, ma cà rồng và những con ma lửa khát máu xấu xa. “Ta cũng sẽ không chọn một chỗ như thế làm nơi ẩn náu,” Jon nói, “nhưng theo lời thuyết giáo của Mẹ Chuột Chũi thì dân du mục sẽ tìm thấy kẻ cứu rỗi ở nơi trước đây từng là địa ngục.”

Septon Cellador bĩu môi. “Chỉ Thất Diện Thần mới có thể cứu rỗi chúng sinh. Ả phù thủy này chỉ đưa họ vào chỗ chết.”

“Và có thể còn giúp bảo vệ Tường Thành nữa,” Bowen Marsh nói. “Chúng chính là những kẻ thù chúng ta đang nói đến. Cứ để chúng cầu nguyện trong đống đổ nát đó, và nếu các vị thần cho thuyền đến đưa chúng tới một thế giới tốt đẹp hơn thì càng tốt. Nói cách khác, chúng ta không có thức ăn cho họ.”

Jon gập các ngón tay cầm kiếm lại. “Đoàn thuyền ga-lê của Cotter Pyke đi qua đi lại Hardhome rất nhiều lần. Ông ấy nói ở đó chẳng có nhà cửa gì để ẩn náu, ngoại trừ hang động. Những chiếc hang gào thét, người của ông đặt tên cho chúng như vậy. Mẹ Chuột Chũi và những người đi theo bà ta sẽ chết ở đó, vì lạnh và vì đói. Hàng trăm. Hàng nghìn.”

“Hàng nghìn tên địch. Hàng nghìn dân du mục.”

Hàng nghìn con người, Jon nghĩ. Đàn ông, phụ nữ, trẻ em. Cơn giận dữ dâng lên trong anh, nhưng khi cất tiếng, giọng anh vẫn nhỏ nhẹ và lạnh lùng. “Các ngươi mù hết rồi hay sao, hay là các ngươi không muốn thấy? Các ngươi nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra khi tất cả kẻ thù đó của các ngươi chết hết?”

Trên chốc cánh cửa, con quạ lẩm bẩm, “Chết, chết, chết.”

“Để ta nói cho các ngươi chuyện gì sẽ diễn ra nhé,” Jon nói. “Người chết sẽ sống lại, hàng trăm, hàng nghìn tên. Chúng sẽ sống lại dưới lốt xác sống, với đôi tay đen kịt và đôi mắt xanh nhợt nhạt, chúng sẽ tìm đến chúng ta.” Anh đứng lên, các ngón tay cầm kiếm mở ra rồi nắm lại. “Các ngươi đi được rồi.”

Septon Cellador đứng dậy, mồ hôi nhễ nhại và mặt xanh như đít nhái, Othell Yarwyck đứng dậy một cách khó khăn, còn Bowen Marsh mím chặt môi, mặt mày trắng bệch. “Cảm ơn ngài đã dành thời gian cho chúng tôi, Lãnh chúa Snow.” Họ ra đi, không nói thêm một lời nào.