Vị học sĩ của Galbart Glover mang thư đến cho Asha Greyjoy khi cô đang ngồi trong sảnh dài của Galbart Glover và uống rượu của Galbart Glover.
“Thưa tiểu thư.” Giọng vị học sĩ vẫn lo lắng như thường lệ mỗi lần nói chuyện với cô. “Một con quạ vừa đến từ Barrowton.” Ông giơ một cuộn giấy da trước mặt cô như thể muốn tống khứ nó đi lắm rồi. Cuộn giấy được cuộn chặt và niêm phong bằng dấu sáp cứng màu hồng.
Barrowton. Asha cố nhớ lại xem ai đang cai quản Barrowton. Một lãnh chúa phương bắc nào đó, không phải bạn của ta. Và con dấu này… Nhà Bolton ở Dreadfort ra trận dưới lá cờ nền hồng, bên trên là những giọt máu nhỏ bắn vung vãi. Rất có thể họ cũng sử dụng sáp niêm phong màu hồng.
Mình đang cầm thuốc độc trong tay, cô nghĩ. Mình phải đốt nó. Nhưng thay vào đó, cô bẻ dấu niêm phong. Một mẩu da rơi xuống đùi cô. Khi đọc những dòng chữ màu nâu khô lại trên giấy, tâm trạng cô vốn đã tồi tệ giờ lại càng tệ hơn. Đôi cánh đen đem
theo tin xấu. Lũ quạ chẳng bao giờ đem về những điều tốt đẹp. Thông điệp gần đây nhất gửi đến Deepwood là thư yêu cầu thần phục của Stannis Baratheon. Tin này còn tệ hại hơn. “Người phương bắc đã chiếm được Moat Cailin.”
“Con Hoang Nhà Bolton à?” Qarl đứng bên cạnh cô hỏi.
“Ramsay Bolton, Lãnh chúa Winterfell, hắn tự ký tên như vậy. Nhưng còn có vài cái tên khác nữa.” Phu nhân Dustin, phu nhân Cerwyn cùng bốn người Nhà Ryswell đã ký tên họ bên dưới chữ ký của hắn. Bên cạnh đó là hình vẽ một người khổng lồ lỗ mãng, biểu tượng của một gã nào đó Nhà Umber.
Tất cả chữ ký được viết bằng mực của vị học sĩ, làm từ mồ hóng và bột than, nhưng thông điệp phía trên có màu nâu và được viết nguệch ngoạc bằng một bàn tay vĩ đại và cục súc. Bức thư nói về việc Moat Cailin thất thủ, về danh hiệu Người Bảo Hộ Phương Bắc vẻ vang trở về tay hắn và về một cuộc hôn nhân sắp sửa diễn ra. Dòng đầu tiên là, “Ta viết lá thư này bằng máu của người sắt,” và dòng cuối, “Ta gửi cho mỗi người các ngươi một phần da thịt của hoàng tử. Còn nán lại vùng đất của ta, các ngươi sẽ chịu chung số phận với hắn.”
Lâu nay Asha cứ tưởng em trai cô đã chết. Chết còn tốt hơn thế này. Mảnh da vụn rơi xuống đùi cô. Asha đốt nó trên ngọn nến và nhìn khói cuộn lên, cho đến khi mảnh da cháy hết và lửa liếʍ vào ngón tay.
Vị học sĩ của Galbart Glover quanh quẩn bên khuỷu tay cô chờ đợi. “Chúng ta sẽ không trả lời,” cô nói với ông.
“Tôi có thể báo tin tức này cho phu nhân Sybelle không?”
“Nếu ông muốn.” Mặc dù Sybelle Glover có thấy vui mừng trước sự thất thủ của Moat Cailin hay không thì Asha không rõ. Phu nhân Sybelle suốt ngày chỉ sống trong khu rừng thiêng, cầu nguyện cho chồng và các con an toàn trở về. Có vẻ lại một lời cầu nguyện nữa không được đáp ứng. Cây đước của bà ấy cũng điếc và mù chẳng khác gì vị Thần Chết Chìm của chúng ta. Robett Glover và anh trai Galbart cùng Sói Trẻ cưỡi ngựa xuống phương nam. Dù tin tức về Đám Cưới Đỏ chỉ có một nửa là sự thật thì cũng gần như chắc chắn bọn họ sẽ không bao giờ quay về phương bắc nữa. Ít nhất nhờ có ta mà các con bà ấy vẫn còn sống. Asha đã để chúng lại lâu đài Mười Tòa Tháp để các cô, các dì của cô chăm sóc. Đứa con gái mới lọt lòng của phu nhân Sybelle vẫn còn đang bú mẹ. Một bé gái mong manh như vậy khó có thể chịu đựng thêm một cuộc hành quân bão táp nào nữa. Asha ấn lá thư vào tay vị học sĩ. “Này. Hãy để bà ấy tìm chút niềm an ủi ở đây nếu có thể. Ông đi được rồi.”
Vị học sĩ cúi đầu chào và rời đi. Sau khi ông đi khỏi, Tris Botley quay sang nói với Asha, “Nếu Moat Cailin đã thất thủ thì sẽ nhanh chóng đến lượt Torrhen’s Square. Và
tiếp đó là chúng ta.”
“Vẫn còn lâu nữa. Hàm Ếch sẽ khiến chúng phải đổ máu.” Torrhen’s Square không phải là đống hoang tàn như Moat Cailin, và Dagmer thực sự là người sắt từ trong xương tủy. Ông ta thà chết chứ không bao giờ chịu đầu hàng.
Moat Cailin sẽ không bao giờ thất thủ nếu cha còn sống. Balon Greyjoy biết Moat là chìa khóa để nắm giữ phương bắc. Euron cũng chẳng lạ gì điều đó; nhưng đơn giản ông ấy không quan tâm. Ông ta cũng chẳng cần biết chuyện gì đã xảy ra với Deepwood Motte hay Torrhen’s Square. “Euron không hứng thú với những cuộc chinh phạt của Balon. Chú của ta đang mải đuổi theo những con rồng.” Mắt Quạ đã triệu tập tất cả lực lượng của Quần đảo Iron tới Old Wyk và ra khơi trên vùng biển Sunset, với em trai Victarion đi theo đuôi như một con chó theo gót chủ. Chẳng còn ai ở lại Pyke để yêu cầu trợ giúp, ngoại trừ chồng cô. “Chúng ta chỉ có một mình.”
“Dagmer sẽ đập tan bọn chúng,” kẻ vừa quả quyết là Cromm, một người đàn ông yêu chiến trận hơn mọi phụ nữ ông ta gặp trên đời. “Chỉ là lũ sói thôi mà.”
“Sói đã bị gϊếŧ hết rồi.” Asha dùng móng tay cái cậy vết sáp hồng. “Đây là những kẻ lột da đã gϊếŧ chết bọn họ.”
“Chúng ta nên tới Torrhen’s Square và tham gia cuộc chiến,” Quenton Greyjoy thúc giục. Ông là họ hàng xa của cô và là thuyền trưởng của thuyền Ả Nhà Quê Sắc Sảo.
“Đúng đấy,” Dagon Greyjoy, một người họ hàng thậm chí còn xa hơn, tỏ vẻ đồng tình. Mọi người gọi anh ta là Dagon Say Xỉn, nhưng dù say hay tỉnh, anh ta luôn thích đánh nhau. “Sao lại để cho Hàm Ếch nhận mọi vinh quang về mình như vậy?”
Hai người hầu của Galbart Glover đem món thịt quay lên, nhưng mảnh da đó khiến Asha chẳng thiết ăn gì nữa. Người của ta đã từ bỏ mọi hy vọng chiến thắng, cô buồn rầu nghĩ. Tất cả những gì họ cần bây giờ là một cái chết vẻ vang. Lũ sói sẽ cho họ điều đó, cô tin là vậy. Sớm hay muộn chúng cũng sẽ tới lấy lại tòa lâu đài này.
Mặt trời đang lặn dần đằng sau những ngọn thông cao vυ't trong rừng sói khi Asha trèo lên cầu thang gỗ dẫn lên phòng ngủ của Galbart Glover trước đây. Đầu cô đau buốt vì uống rượu quá nhiều. Asha Greyjoy yêu quý các thuộc hạ của mình, dù là thuyền trưởng hay thuyền viên, nhưng một nửa trong số họ lại quá ngốc nghếch. Những tên ngốc dũng cảm, nhưng dù sao vẫn là lũ ngốc. Đến chỗ Hàm Ếch ư? Cứ như dễ lắm vậy…
Dagmer đang ở cách xa Deepwood, giữa họ là đồi núi trập trùng, rừng rậm, sông sâu và chắc chắn nhan nhản người phương bắc đến mức cô không còn muốn nghĩ đến nữa. Asha có bốn con thuyền dài và chưa đến hai trăm người… tính cả Tristifer Botley; và cô không hy vọng có thể dựa dẫm gì vào gã. Với tất cả những câu chuyện
về tình yêu của anh ta, cô không nghĩ Tris dám chạy đến Torrhen’s Square để chết với Dagmer Hàm Ếch.
Qarl theo cô lên phòng ngủ của Galbart Glover. “Ra ngoài đi,” cô nói với anh. “Ta muốn ở một mình.”
“Không, em muốn tôi đấy chứ.” Anh cố hôn cô.
Asha đẩy anh ra. “Thử chạm vào ta lần nữa xem, ta sẽ…”
“Sẽ làm gì?” Anh rút dao. “Cởϊ qυầи áo ra.”
“Đi mà tự xử, đồ nhóc con không râu.”
“Tôi muốn làʍ t̠ìиɦ với em hơn.” Một nhát rạch làm dây buộc chiếc áo da của cô mở tung. Asha với lấy chiếc rìu nhưng Qarl bỏ dao xuống và túm lấy tay cô, vặn cho đến khi chiếc rìu rơi xuống đất. Anh đẩy cô xuống giường của Glover, hôn cô thô bạo và xé toạc chiếc áo chùng khiến ngực cô sổ ra ngoài. Khi Asha cố lên gối vào hạ bộ anh, anh tránh sang một bên và tách đùi cô ra bằng đầu gối. “Tôi sẽ làʍ t̠ìиɦ với em ngay bây giờ.”
“Thế thì làm đi,” cô quát, “và ta sẽ gϊếŧ ngươi khi ngươi ngủ.”
Cửa mình cô ướt sũng khi anh vào bên trong cô. “Đồ khốn,” cô nói. “Đồ khốn, đồ khốn, đồ khốn.” Anh bú ngực cô cho đến khi cô rêи ɾỉ nửa vì đau nửa vì sung sướиɠ. Cô chẳng còn thiết nghĩ đến điều gì khác ngoài kɧoáı ©ảʍ trào lên nơi đó. Cô quên hết Moat Cailin hay Ramsay Bolton và mảnh da hắn gửi, quên lễ bầu chọn vua, quên hết những thất bại của cô, quên việc cô đang phải tha hương, quên mọi kẻ thù và quên cả việc đã có chồng. Giờ những gì quan trọng với cô chỉ là bàn tay anh, miệng anh, cánh tay anh đang ôm cô và anh đang ở trong cô. Anh làʍ t̠ìиɦ một hồi lâu đến mức cô phải hét lên, và sau đó một lần nữa khiến cô khóc thét trước khi phun tất cả hạt giống vào trong bụng cô.
“Ta là phụ nữ đã có chồng,” cô nhắc anh sau khi xong xuôi. “Ngươi đã cưỡng đoạt ta, đồ nhóc con không râu. Lãnh chúa chồng ta sẽ thiến hai hòn bi của ngươi và cho ngươi mặc váy.”
Qarl lăn xuống từ trên người cô. “Được thôi, nếu hắn có thể đứng được dậy khỏi ghế.”
Căn phòng lạnh lẽo. Asha rời khỏi chiếc giường của Galbart Glover và nhặt bộ quần áo rách mướp của cô lên. Áo da sẽ cần dây buộc mới, nhưng chiếc áo dài chùng đã nát te tua. Đằng nào ta cũng không thích nó. Cô ném chiếc áo vào ngọn lửa. Những gì cô để lại là một vũng nước trên giường. Ngực vẫn đau, và tϊиɧ ɖϊ©h͙ của Qarl đang chậm chạp bò xuống đùi cô. Cô sẽ phải ủ trà mặt trăng để uống, hoặc rất có thể một
con thủy quái kraken nữa sẽ ra đời. Vậy cũng có sao đâu? Cha ta đã chết, mẹ ta đang hấp hối, em trai ta đang bị lột da, trong khi ta ngồi đây bất lực. Và ta cũng đã có chồng. Đã làm đám cưới và đã lên giường… chỉ là không phải với cùng một người đàn ông.
Khi cô quay lại và chui vào dưới đống da lông thú, Qarl lúc này đã ngủ. “Giờ mạng sống của anh là của ta. Ta để con dao đâu rồi nhỉ?” Asha áp người vào lưng anh và vòng tay ôm. Trên Quần đảo Iron, mọi người gọi anh ta là Qarl Thiếu Nữ, một phần để phân biệt với Qarl Chăn Cừu, Qarl Kenning Kỳ Quặc, Qarl Tay Rìu Nhanh Nhẹn, và Qarl Đầy Tớ, nhưng chủ yếu là vì khuôn mặt nhẵn nhụi của anh. Khi Asha gặp anh lần đầu, Qarl đang cố nuôi râu. Cô phá lên cười và gọi đó là “lông đào”. Qarl thú nhận rằng anh chưa bao giờ nhìn thấy một quả đào, nên cô bảo anh nên đi cùng cô trong chuyến hải trình tiếp theo về phương nam.
Khi đó vẫn đang là mùa hạ; Robert đang ngồi trên Ngai Sắt, Balon vẫn ngự trên Ngai Đá Biển, và Bảy Phụ Quốc vẫn đang yên bình. Asha đưa thuyền Gió Đen dọc theo bờ biển về phía nam buôn bán. Họ đậu thuyền ở đảo Fair, Lannisport và hơn một chục cảng nhỏ khác trước khi tới Arbor, nơi có những quả đào ngọt ngào và vĩ đại. “Thấy không,” cô nói khi lần đầu tiên giơ một quả đào lên má Qarl. Khi cô bảo anh thử cắn một miếng, nước quả chảy xuống cằm anh và cô hôn sạch nó.
Họ dành cả đêm hôm đó ngấu nghiến ăn đào và ngấu nghiến lẫn nhau, và khi mặt trời lên, cả người cô nhớp nháp. Asha chưa bao giờ cảm thấy thỏa mãn và hạnh phúc đến thế. Sáu năm đã trôi qua, hay là bảy năm nhỉ? Mùa hè giờ chỉ là ký ức nhạt nhòa trong cô, và đã ba năm nay cô chưa được ăn một quả đào nào. Tuy nhiên cô vẫn có Qarl. Các thuyền trưởng và các tiểu vương có thể không cần cô, nhưng Qarl thì có.
Asha còn nhiều người tình khác; có người chung giường với cô nửa năm, có người chưa nổi một đêm. Nhưng Qarl làm cô thỏa mãn hơn tất cả bọn họ cộng lại. Nửa tháng anh ta mới cạo râu một lần, nhưng một bộ râu xồm xoàm không làm nên nam tính. Cô thích cảm nhận làn da trơn mượt và mềm mại của anh dưới ngón tay. Cô thích bộ tóc dài thẳng của anh rủ xuống chấm vai. Cô thích cách anh hôn cô. Cô thích cách anh cười nhăn nhở khi cô chà ngón cái lên núʍ ѵú anh. Đám lông giữa hai chân anh có màu cát đậm so với màu tóc, nhưng mềm mại hơn đám lông đen thô ráp và rậm rạp của cô. Cô cũng thích cả điều đó nữa. Anh có thân hình của một người giỏi bơi lội, cao gầy và một vết sẹo cũng không có.
Nụ cười bẽn lẽn, đôi cánh tay chắc khỏe, những ngón tay khéo léo và hai tay kiếm tự tin. Phụ nữ còn mong gì hơn thế? Đáng lẽ cô sẽ vui mừng lấy Qarl, nhưng cô là con gái Lãnh chúa Balon, trong khi anh ta xuất thân quá tầm thường, chỉ là cháu trai của một nô ɭệ. Quá thấp hèn để có thể cưới cô, nhưng đủ cao để cô ngậm của quý của anh
ta vào miệng. Trong người đang sẵn hơi men, cô mỉm cười bò xuống dưới tấm chăn và ngậm lấy thằng nhỏ của anh. Qarl trở mình trong giấc ngủ, và sau một hồi anh lại bắt đầu rạo rực. Cho đến khi cô làm anh cương cứng, anh đã tỉnh giấc còn cô thì ướt nhẹp. Asha cuốn tấm lông lên đôi vai trần và cưỡi lên người anh, đưa anh vào trong sâu đến nỗi họ như hòa làm một. Lần này hai người lêи đỉиɦ cùng một lúc.
“Tiểu thư đáng yêu của ta,” anh lẩm bẩm, giọng vẫn còn đặc quánh vì ngái ngủ. “Nữ hoàng ngọt ngào của ta.”
Không, Asha nghĩ, ta không phải nữ hoàng, và sẽ không bao giờ là nữ hoàng. “Ngủ tiếp đi.” Cô hôn lên má anh rồi nhón chân ra mở cửa sổ chớp. Mặt trăng đã gần tròn, màn đêm trong trẻo đến nỗi cô có thể nhìn thấy những rặng núi phía xa và những đỉnh núi phủ tuyết. Lạnh lẽo, hoang vắng và khắc nghiệt, nhưng thật đẹp đẽ dưới ánh trăng. Những đỉnh núi xám mờ lởm chởm như hàm răng sắc nhọn. Phần chân núi và những đỉnh núi thấp mất hút trong bóng đêm.
Biển đã ở gần hơn, chỉ 15 dặm về phía bắc, nhưng Asha không nhìn thấy. Đồi núi trùng điệp chắn trước mặt cô. Và cả cây cối nữa, rất nhiều cây. Người phương bắc đặt tên cho khu rừng là rừng sói. Hầu như đêm nào người ta cũng nghe thấy tiếng sói gọi nhau trong bóng tối. Một đại dương bằng lá cây. Ước gì đó là đại dương thật với nước biển mênh mông.
Deepwood có thể gần biển hơn so với Winterfell thật, nhưng nó vẫn ở quá xa nên cô không cảm nhận được vị của nó. Không khí đầy mùi thông thay vì mùi muối. Phía đông bắc của những rặng núi xám ngắt dữ tợn kia là bức Tường Thành phấp phới cờ của Stannis Baratheon. Người ta bảo kẻ thù của kẻ thù là bạn, nhưng ngược lại, kẻ thù của bạn cũng là kẻ thù. Người sắt là kẻ thù của các lãnh chúa phương bắc mà gã Baratheon yêu sách kia thèm muốn vô cùng. Ta có thể dâng hiến cho ông ta thân xác trẻ trung này, cô nghĩ và hất một lọn tóc xòa xuống mắt, nhưng Stannis đã có vợ và cô cũng đã có chồng, hơn nữa ông ta và người sắt còn là kẻ thù truyền kiếp. Trong cuộc nổi loạn đầu tiên của cha cô, Stannis đã đập tan hạm đội sắt của đảo Fair và đánh bại Great Wyk dưới cờ của anh trai.
Bức tường thành phủ đầy rêu của Deepwood bao quanh một quả đồi tròn và rộng, trên đỉnh đồi bằng phẳng là căn sảnh dài như một chiếc hang, với một đầu là tháp canh nhô cao 15 mét. Bên dưới quả đồi là sân trong với chuồng gia súc, bãi giữ ngựa, lò rèn, giếng, bãi nhốt cừu, tất cả được bảo vệ bởi một con hào sâu, một con đê dốc bằng đất và một hàng rào cọc gỗ. Lớp bảo vệ phía ngoài hình ô-van bao lấy khu đất. Tòa lâu đài có lối đi trên đỉnh tường thành và hai cổng thành, mỗi cổng được bảo vệ bởi một cặp tháp canh vuông bằng gỗ. Phía nam tòa lâu đài, rêu mốc mọc dày đặc trên hàng rào và bò lên các tòa tháp. Phía đông và phía tây là những vùng đất trống.
Lúa mỳ và yến mạch từng mọc ở đó khi Asha chiếm nơi này, nhưng tất cả đều nát bét dưới gót giày trong cuộc tấn công của cô. Sương giá liên tục và dày đặc khiến những hoa màu họ trồng sau đó không mọc nổi, những gì còn lại chỉ là bùn, tro, những thân cây héo úa và mục ruỗng.
Tòa lâu đài tuy cổ nhưng không vững chãi. Cô đã cướp nó từ tay Nhà Glover, và Con Hoang Nhà Bolton rồi sẽ lấy lại nó từ tay cô. Tuy nhiên, hắn sẽ không thể lột da cô được. Asha Greyjoy sẽ không để bị bắt. Cô sẽ chết hiên ngang như đã sống, với cây rìu trong tay và nụ cười nở trên môi.
Cha cô cho cô ba mươi con thuyền dài để chiếm Deepwood. Giờ cô chỉ còn lại bốn, tính cả thuyền Gió Đen của cô, và một trong số chúng thuộc về Tris Botley, kẻ gia nhập với cô khi tất cả những người khác đều bỏ chạy. Không. Không đúng. Họ trở về nhà để thần phục trước vị vua mới của mình. Nếu có kẻ nào chạy trốn thì đó hẳn là ta. Ký ức vẫn còn là nỗi hổ thẹn đối với cô.
“Cháu phải đi đi,” Mọt Sách thúc giục khi các thuyền trưởng đang khiêng chú Euron của cô xuống đồi Nagga để đội cho ông ta vương miện gỗ trôi.
“Chó chê mèo lắm lông kìa. Hãy đi với cháu. Cháu cần cậu quy phục mọi người ở Harlaw.” Hồi đó, cô vẫn còn muốn chiến đấu.
“Mọi người ở Harlaw đều ở đây cả rồi. Tất cả những kẻ có tiếng nói. Một số người đang tung hô tên Euron. Ta sẽ không để người Harlaw đấu đá lẫn nhau đâu.”
“Euron là kẻ điên rồ. Và còn nguy hiểm nữa. Cái tù và ma quỷ đó…”
“Ta đã nghe thấy rồi. Đi đi, Asha. Một khi Euron đội vương miện, ông ta sẽ tìm kiếm cháu. Cháu sẽ không muốn ông ta chú ý đến mình đâu.”
“Nếu cháu có các ông chú khác ở bên cạnh nữa…”
“… Cháu sẽ chết trong cô quạnh, trong khi mọi người xung quanh đều chống lại cháu. Khi cháu đưa tên mình ra trước các thuyền trưởng nghĩa là cháu đã tự nạp mình cho họ phán quyết. Giờ cháu không thể chống lại những phán quyết đó của họ. Lựa chọn trong lễ bầu vua chỉ bị phản bác một lần duy nhất. Hãy đọc về Haereg.”
Chỉ có Rodrik Mọt Sách mới lảm nhảm về một cuốn sách cổ, trong khi mạng sống của họ đang ở đầu mũi kiếm. “Nếu cậu ở lại thì cháu cũng ở lại,” cô bướng bỉnh nói.
“Đừng ngốc nghếch như thế. Tối nay Euron cho cả thế giới thấy bên mắt cười của hắn, nhưng sáng mai thôi… Asha, cháu là con gái của Balon, và vị trí của cháu xứng đáng hơn của ông ta. Chỉ cần còn thở thì cháu vẫn là mối đe dọa với Euron. Nếu ở lại, cháu sẽ bị gϊếŧ hoặc phải lấy Tay Chèo Tóc Đỏ. Ta cũng không biết trường hợp nào sẽ tồi tệ hơn. Cháu sẽ không có thêm cơ hội nữa đâu.”
Asha đậu thuyền Gió Đen ở phía xa hòn đảo để đề phòng mọi tình huống xảy ra. Nhưng Old Wyk chẳng rộng lớn gì. Cô có thể quay về thuyền trước khi mặt trời mọc và lên đường tới Harlaw trước khi Euron nhận ra cô biến mất. Nhưng cô vẫn lưỡng lự, cho đến khi cậu cô nói. “Hãy nghe lời đi, nếu cháu còn yêu quý ta. Đừng để ta phải nhìn cháu chết.”
Và thế là cô đi. Tới Mười Tòa Tháp trước để nói lời tạm biệt với mẹ cô. “Chắc con sẽ đi lâu đấy,” Asha nói với bà. Phu nhân Alannys không hiểu gì. “Theon đâu rồi?” Bà hỏi. “Con trai bé bỏng của ta đâu rồi?” Phu nhân Gwynesse chỉ muốn biết khi nào Lãnh chúa Rodrik trở về. “Ta hơn nó 7 tuổi. Mười Tòa Tháp đáng lẽ phải thuộc về ta.”
Asha vẫn còn đang ở Mười Tòa Tháp để tiếp quân lương khi tin tức về đám cưới của cô truyền tới. “Phải có người thuần hóa cô cháu gái bướng bỉnh của ta mới được,” Mắt Quạ nói như vậy, “và ta biết người đàn ông nào có thể thuần hóa con bé rồi.” Ông ta bắt cô kết hôn với Erik Ironmaker và giao cho Đập Vỡ Đe cai quản Quần đảo Iron trong khi ông ta lên đường đuổi theo những con rồng. Khi còn trẻ, Erik từng là người đàn ông vĩ đại, một kẻ cướp phá không biết sợ hãi là gì, là kẻ vẫn khoe khoang mình từng ra khơi với ông nội của ông nội cô, hay còn gọi là Dagon Greyjoy mà sau này Dagon Say Xỉn được đặt tên theo đó. Các bà già trên đảo Fair vẫn dọa dẫm các cháu mình với những câu chuyện về Lãnh chúa Dagon và đội quân của ông. Ta đã làm tổn thương niềm kiêu hãnh của Eric trong buổi lễ bầu vua, Asha nhớ lại. Chắc hẳn ông ta sẽ không quên điều đó.
Cô phải đáp trả công bằng với ông chú của mình. Chỉ với một đòn, Euron đã biến một đối thủ thành người ủng hộ, bảo vệ quần đảo khi ông ta đi vắng và loại bỏ mối nguy hiểm mang tên Asha. Đã thế ông ta còn được trận cười đau ruột nữa. Tris Botley nói Mắt Quạ đã dùng một con hải cẩu để thế vào chỗ của cô trong đám cưới. “Erik không khăng khăng đòi động phòng đấy chứ,” cô đã hỏi như vậy khi được nghe câu chuyện.
Mình không thể về nhà, cô nghĩ, nhưng mình cũng không dám ở lại đây lâu hơn. Khu rừng im ắng khiến cô bồn chồn lo lắng. Asha sống cả đời trên đảo và trên những con thuyền. Biển cả không bao giờ im lặng. Tiếng sóng xô bờ đá đã ăn vào trong máu cô, nhưng ở Deepwood Motte không có sóng… chỉ có cây cối, cây cối bạt ngàn, thông lính, tần bì và những cây sồi cổ đại, hạt dẻ, thiết mộc và linh sam. Những âm thanh chúng tạo ra nhẹ nhàng hơn biển rất nhiều, và cô chỉ nghe thấy khi gió thổi; sau đó những bài hát của chúng dường như ở khắp mọi nơi xung quanh cô, như thể những cái cây thì thầm với nhau bằng một ngôn ngữ xa lạ.
Đêm nay, tiếng rì rầm dường như to hơn mọi khi. Là tiếng xào xạc của lá khô, Asha tự nhủ, tiếng những cành cây khẳng khiu kẽo kẹt trong gió. Cô rời cửa sổ, bỏ lại khu
rừng sau lưng. Ta muốn lại được đứng trên boong thuyền. Hoặc nếu không thì cũng phải có chút thức ăn vào bụng. Tối nay cô đã uống quá nhiều rượu, nhưng lại ăn quá ít bánh mì và không ăn chút thịt nướng nào.
Ánh trăng đủ sáng để cô tìm quần áo. Cô mặc quần ống túm dày màu đen, áo dài chùng chần bông và một chiếc áo da màu xanh lá có một lớp vảy thép phủ bên ngoài. Mặc Qarl nằm đó mơ mộng, cô bước xuống cầu thang ngoài của pháo đài, từng bậc thang cọt kẹt dưới đôi chân trần. Một lính gác trên tường thành nhìn thấy cô đi xuống và giơ giáo lên chào. Asha huýt sáo chào lại. Khi cô băng qua khoảnh sân trong để vào bếp, đàn chó của Galbart Glover bắt đầu sủa. Tốt lắm, cô nghĩ. Tiếng chó sủa sẽ át đi tiếng thì thầm của rừng cây.
Cô đang cắt một miếng từ khoanh pho mát to như bánh xe bò thì Tris Botley bước vào, người cuộn trong chiếc áo choàng dày bằng lông thú. “Nữ hoàng của tôi.”
“Đừng nói móc ta.”
“Em sẽ luôn trị vì trái tim tôi. Lũ ngốc có hò hét thế nào ở lễ bầu vua cũng không thay đổi được điều đó.”
Ta phải làm gì với chàng trai này đây? Asha không nghi ngờ gì lòng trung thành của anh ta. Anh ta không chỉ là một trong ba trợ thủ của cô trên đồi Nagga và hô vang tên cô, mà sau đó anh còn băng qua biển để nhập hội với cô, bỏ lại vị vua chính đáng, quê nhà và những người thân thuộc. Tất nhiên anh ta không dám chống lại Euron ra mặt. Khi Mắt Quạ đem hạm đội ra biển, Tris đi tụt lại phía sau và chỉ chuyển hướng khi khuất bóng những con thuyền khác. Tuy nhiên ngay cả điều đó cũng đòi hỏi một lòng can đảm nhất định; anh ta sẽ không thể nào trở về quần đảo được nữa. “Pho mát không?” Cô hỏi. “Có cả thịt lợn muối và mù tạt nữa đấy.”
“Tôi không cần đồ ăn, tiểu thư của tôi. Em biết điều đó mà.” Ở Deepwood, Tris đã nuôi bộ râu dày màu nâu và nói rằng nó giúp anh ta giữ ấm. “Tôi nhìn thấy em từ trên tháp canh.”
“Nếu đang phải canh gác thì anh đến đây làm gì?”
“Cromm đang ở trên đó, cả Hagen Sừng nữa. Chúng ta cần bao nhiêu người ngồi nhìn lá cây xào xạc dưới ánh trăng? Chúng ta cần nói chuyện.”
“Lại nữa à?” Cô thở dài. “Anh biết con gái của Hagen chứ, cô bé tóc đỏ ấy. Cô ta điều khiển thuyền giỏi chẳng kém người đàn ông nào, mà còn xinh đẹp nữa. 17 tuổi, và ta đã thấy con bé liếc nhìn anh.”
“Tôi không muốn con gái Hagen.” Anh định chạm vào cô nhưng rồi lại thôi. “Asha, đến lúc phải đi rồi. Moat Cailin là tuyến phòng thủ duy nhất. Nếu ở lại đây, người
phương bắc sẽ gϊếŧ tất cả chúng ta. Em biết điều đó mà.”
“Anh muốn ta bỏ chạy sao?”
“Tôi muốn em sống. Tôi yêu em.”
Không, cô nghĩ, người anh yêu là một thiếu nữ ngây thơ nào đó chỉ tồn tại trong đầu anh, một đứa trẻ sợ hãi cần được anh bảo vệ. “Ta không yêu anh,” cô nói cụt lủn, “và ta sẽ không bỏ chạy.”
“Có gì ở đây khiến em lưu luyến thế, ngoại trừ những cây thông, bùn đất và kẻ thù? Chúng ta có thuyền. Hãy dong thuyền ra khơi với tôi, và chúng ta sẽ có một cuộc sống mới lênh đênh trên biển.”
“Làm cướp biển sao?” Lời gợi ý có vẻ rất hấp dẫn với cô. Hãy vứt trả khu rừng ảm đạm tối tăm này cho lũ sói và quay lại với biển khơi.
“Chúng ta sẽ làm thương nhân,” anh khẳng định. “Chúng ta cũng đi về phía đông như Mắt Quạ, nhưng sẽ trở về với lụa là và gia vị thay vì một cái sừng rồng. Chỉ cần một chuyến tới biển Ngọc thôi là chúng ta sẽ có vàng đầy ắp túi. Chúng ta sẽ có một cung điện ở Oldtown hoặc một trong các Thành Phố Tự Trị.”
“Anh, tôi và Qarl?” Cô thấy anh ta có vẻ do dự khi cô nhắc đến tên Qarl. “Có thể con gái của Hagen sẽ muốn dong thuyền đến biển Ngọc cùng anh. Nhưng ta vẫn là con gái của một kraken. Chỗ của ta là…”
“… là ở đâu? Em không thể quay lại quần đảo, trừ khi chịu chấp nhận chồng mình.”
Asha cố tưởng tượng hình ảnh cô nằm trên giường cùng Erik Ironmaker, bẹp dí dưới sức nặng và chịu đựng những cái ôm nghẹt thở của ông ta. Nhưng thà lấy ông ta còn hơn là Tay Chèo Tóc Đỏ hoặc Lucas Codd Tay Trái. Đập Vỡ Đe từng là một người đàn ông vĩ đại, ồn ào, khỏe mạnh như vâm, rất mực trung thành và hoàn toàn không biết sợ hãi. Thế nên cũng không tệ lắm. Rất có thể ông ta sẽ lăn quay ra chết ngay lần đầu tiên cố thực hiện nghĩa vụ làm chồng. Như thế cô sẽ là góa phụ của Erik thay vì vợ của Erik, và điều đó có thể tốt hoặc xấu, tùy thuộc vào các cháu trai của ông ta. Và chú của ta nữa. Cuối cùng, mọi cơn gió đều thổi ta trở về với Euron. “Ta còn có con tin ở Harlaw,” cô nhắc. “Và vẫn còn Mũi Biển Rồng… nếu không thể có được vương quốc của cha ta, tại sao không tự dựng lên một vương quốc cho chính mình?” Mũi Biển Rồng chưa bao giờ thưa thớt dân cư như lúc này. Những đống đổ nát vẫn nằm đó giữa đồi núi và bãi lầy, tàn tích của những pháo đài cổ của Tiền Nhân. Trên những điểm cao là các vòng tròn bằng gỗ đước mà lũ trẻ rừng rậm để lại.
“Em đang bám vào Mũi Biển Rồng giống như người sắp chết đuối bám chặt vào
một mảnh gỗ trôi. Biển Rồng có ai thèm đâu? Ở đó chẳng có mỏ, chẳng có bạc, chẳng có vàng, thậm chí thiếc hay sắt cũng không có nốt. Đất đai ở đó quá ẩm ướt nên không thể trồng được lúa mỳ hay ngô.”
Ta không định trồng lúa mỳ, cũng chẳng định trồng ngô. “Ở đó có gì? Để tôi nói cho anh biết. Hai bờ biển dài, hàng trăm vịnh kín, hồ có rái cá, sông có cá hồi, trai sò trên bờ biển, vương quốc của hải cẩu ngoài khơi, và rừng thông cao để đóng thuyền.”
“Ai sẽ là người đóng những con thuyền, nữ hoàng của tôi? Nữ hoàng sẽ tìm đâu ra thần dân của mình, kể cả khi người phương bắc để lại nó cho em? Hay em định trị vì một vương quốc toàn hải cẩu và rái cá?”
Cô phá lên cười sầu não. “Ta dám chắc trị vì lũ rái cá dễ hơn trị vì con người đấy. Và hải cẩu cũng thông minh hơn. Nhưng anh nói đúng, có lẽ lựa chọn đúng đắn nhất cho ta lúc này là trở về Pyke. Có những người ở Harlaw sẽ chào đón ta trở về. Ở Pyke cũng thế. Và Euron không có bạn bè nào ở Blacktyde khi ông ta gϊếŧ Lãnh chúa Baelor. Ta có thể tìm chú Aeron, xây dựng quần đảo.” Không ai nhìn thấy Damphair kể từ sau buổi lễ bầu vua, nhưng những người theo giáo phái Chết Chìm của ông nói ông ấy đang ẩn náu ở Great Wyk và sẽ nhanh chóng lộ diện để trút cơn giận dữ của Thần Chết Chìm lên Mắt Quạ và lũ tay sai của hắn.”
“Đập Vỡ Đe cũng đang tìm Damphair. Ông ta đang săn đuổi những người thuộc giáo phái Chết Chìm. Thầy tu Beron Blacktyde Mù bị bắt và tra khảo. Ngay cả Mòng Biển Xám Già cũng bị đeo cùm. Làm sao em có thể tìm được vị thầy tu đó khi người của Euron không ai tìm được?”
“Ông ấy là máu mủ của ta. Là em trai của cha ta.” Một câu trả lời nhu nhược, Asha biết điều đó.
“Em có biết tôi đang nghĩ gì không?”
“Có lẽ ta sẽ biết ngay bây giờ chăng.”
“Tôi nghĩ Damphair đã chết. Tôi nghĩ Mắt Quạ đã cắt cổ ông ấy rồi. Cuộc tìm kiếm của Ironmaker chỉ để chúng ta tin rằng vị thầy tu đã trốn mất mà thôi. Euron sợ bị coi là kẻ gϊếŧ người thân.”
“Đừng bao giờ để chú ta nghe thấy những lời đó. Thử bảo Mắt Quạ rằng ông ta sợ gϊếŧ người thân xem, ông ta sẽ gϊếŧ một trong các con trai của mình ngay lập tức để chứng minh anh sai lầm.” Lúc này Asha đã tỉnh rượu hoàn toàn. Tristifer Botley có khả năng đặc biệt đó đối với cô.
“Ngay cả khi tìm được chú Damphair của em rồi, hai người cũng vẫn sẽ thất bại thôi. Cả hai đều tham gia cuộc bầu vua, vì thế hai người không thể nói đó là buổi lễ
bất hợp pháp giống như Torgon ngày trước. Hai người phải chấp nhận mọi quyết định trong cuộc bầu chọn đó, theo luật của các vị thần và của con người. Cả hai…”
Asha nhíu mày. “Chờ đã. Torgon à? Torgon nào nhỉ?” “Torgon Người Đến Muộn.”
“Một vị vua trong Kỷ Nguyên Anh Hùng.” Cô chỉ nhớ được chừng đó về ông ta, ngoài ra không có gì hơn. “Ông ta làm sao?”
“Torgon Greyiron là con trai cả của nhà vua. Nhưng vị vua già cứ ngồi mãi trên ngôi, mà Torgon lại không muốn ở yên một chỗ, vì thế khi vua cha ông ta chết, ông ta đang mải mê đi cướp dọc dòng Mander, bắt đầu từ pháo đài của ông ở Greyshield. Các anh em trai không nói với ông lời nào mà nhanh chóng kêu gọi một buổi lễ bầu vua, và nghĩ rằng một trong số họ sẽ được chọn để đội vương miện gỗ trôi. Nhưng thay vào đó các thuyền trưởng và tiểu vương lại chọn Urragon Anh Em Tốt lên trị vì. Việc đầu tiên vị vua mới làm là gϊếŧ tất cả con trai của vị vua cũ. Kể từ đó mọi người gọi hắn là Anh Em Tồi, dù thực sự họ chẳng có họ hàng gì với hắn. Hắn trị vì trong khoảng gần hai năm.”
Giờ thì Asha nhớ ra rồi. “Torgon trở về nhà…”
“… và nói rằng cuộc bầu vua không hợp lệ vì ông ta không ở đó để đòi vương vị của mình. Anh Em Tồi đã chứng minh hắn đúng là một kẻ xấu xa và chẳng có mấy bạn bè ở quần đảo. Các thầy tu tố cáo hắn, các lãnh chúa đứng lên chống lại hắn, và các thuyền trưởng của chính hắn chặt hắn thành từng mảnh. Torgon Kẻ Đến Muộn trở thành vua và trị vì suốt bốn mươi năm.”
Asha nắm lấy tai Tris Botley và hôn ngấu nghiến lên môi anh. Khi cô buông ra, Tris mặt đỏ tía tai và thở hổn hển. “Nghĩa là sao vậy?” Anh hỏi.
“Một nụ hôn. Ta thật ngu ngốc, Tris, lẽ ra ta phải nhớ chuyện đó chứ…” Cô đột ngột dừng lại. Khi Tris định lên tiếng, cô huýt gió bảo anh im lặng và lắng nghe. “Đó là tiếng tù và chiến. Hagen.” Đầu tiên cô nghĩ đó là chồng mình. Erik Ironmaker lặn lội đến tận đây để đem cô vợ ương bướng của mình về hay sao? “Cuối cùng thì Thần Chết Chìm cũng yêu quý ta. Ta đang không biết làm gì ở đây thì ông ta bèn cử ngay kẻ thù đến cho ta đánh nhau.” Asha đứng dậy và đút xoẹt dao vào vỏ. “Đến lúc phải ra trận rồi.”
Cô phi ngựa nước kiệu ra sân trong với Tris theo sát phía sau, nhưng dù vậy cô vẫn đến quá muộn. Cuộc chiến đã kết thúc. Asha thấy hai người phương bắc máu me be bét bên cạnh bức tường phía đông, cách cửa hậu không xa, đứng cạnh họ là Lorren Rìu Dài, Harl Sáu Ngón và Ác Khẩu. “Cromm và Hagen nhìn thấy chúng trèo qua tường thành,” Ác Khẩu giải thích.
“Chỉ có hai tên này thôi à?” Asha hỏi.
“Năm người. Chúng tôi gϊếŧ được hai tên trước khi chúng vào bên trong, và Harl gϊếŧ một tên nữa trên đỉnh tường thành. Hai tên này xuống được dưới sân.”
Một tên đã chết, máu và não của hắn đóng cứng lại trên chiếc rìu dài của Lorren, nhưng tên thứ hai vẫn đang thở một cách khó nhọc, dù cây thương của Ác Khẩu đã ghim hắn xuống đất giữa một vũng máu. Cả hai đều mặc da thuộc và áo choàng lốm đốm màu nâu, xanh và đen, trên đầu và vai buộc cành, lá và bụi cây.
“Ngươi là ai?” Asha hỏi người đàn ông bị thương.
“Một người Nhà Flint. Còn ngươi là ai?”
“Asha của Nhà Greyjoy. Đây là lâu đài của ta.”
“Deepwood là của Galbart Glover. Không phải nhà cho lũ mực ống.”
“Các ngươi còn nhiều người không?” Asha hỏi. Khi hắn không chịu trả lời, cô chộp lấy thương của Ác Khẩu và xoáy. Gã người phương bắc thét lên vì đau khi máu tiếp tục trào ra từ vết thương. “Các ngươi đến đây làm gì?”
“Phu nhân,” hắn rùng mình nói. “Trời ơi, dừng lại đi. Chúng ta đến đây vì phu nhân. Để cứu bà ấy. Chúng ta chỉ có năm người.”
Asha nhìn vào mắt hắn. Khi phát hiện ra sự dối trá trong đó, cô ấn cây thương mạnh hơn và vặn xoắn nó. “Còn bao nhiêu người nữa?” Cô hỏi. “Nói cho ta nghe, nếu không ngươi sẽ phải chết dần từ giờ đến sáng.”
“Rất nhiều,” cuối cùng câu trả lời cũng bật ra giữa những tiếng hét. “Hàng nghìn. Ba, bốn nghìn… aaaaaaa… xin đừng…”
Cô rút cây thương ra và dùng hai tay đâm mạnh nó qua cổ họng dối trá của hắn. Học sĩ của Galbart Glover cho rằng các bộ tộc trên núi hay gây gổ, nên họ sẽ không thể đồng hành cùng nhau mà không có một người Nhà Stark dẫn đầu. Có thể ông ta không nói dối. Có thể chỉ là ông ta phán đoán sai. Cô đã được nếm mùi vị đó trong lễ bầu vua của chú cô. “Năm tên này được cử đến để mở cửa trước cuộc tấn công chính,” cô nói. “Lorren, Harl, mang phu nhân Glover và học sĩ của bà ta lại đây.”
“Nguyên vẹn hay bầm dập?” Lorren Rìu Dài hỏi.
“Nguyên vẹn. Ác Khẩu, lên cái tòa tháp chết tiệt đó và bảo Cromm với Hagen quan sát phía ngoài kỹ vào. Chỉ cần nhìn thấy một con thỏ rừng cũng phải báo cho ta biết.”
Những con người sợ hãi nhanh chóng túa ra sân trong của Deepwood. Người của cô lật đật mặc áo giáp hoặc trèo lên hành lang trên đỉnh tường thành. Dân cư của Galbart Glover ngơ ngác, sợ sệt và thì thầm với nhau. Quản gia của Glover được khiêng từ
tầng hầm lên, vì hắn đã mất một chân khi Asha chiếm tòa lâu đài. Vị học sĩ luôn mồm phản đối cho đến khi Lorren đấm mạnh vào mặt ông ta bằng nắm đấm bọc giáp. Phu nhân Glover được một hầu gái dìu ra từ trong rừng thiêng. “Tôi đã cảnh báo cô là ngày này sẽ đến mà, tiểu thư,” bà ta nói khi nhìn thấy những cái xác trên mặt đất.
Vị học sĩ lao lên phía trên, máu chảy ròng ròng từ một bên mũi. “Tiểu thư Asha, tôi xin cô, hãy hạ cờ xuống để tôi xin tha cho mạng sống của cô. Cô đã đối xử với chúng tôi một cách công bằng và tôn trọng. Tôi sẽ nói với họ như vậy.”
“Chúng tôi sẽ đổi các người lấy lũ trẻ.” Mắt Sybelle Glover đỏ ngầu vì khóc và những đêm không ngủ. “Gawen giờ mới có bốn tuổi. Ta đã để lỡ ngày lễ đặt tên của nó. Và con gái đáng yêu của ta… hãy trao chúng lại cho ta, và cô sẽ không sao cả. Người của cô cũng vậy.”
Asha biết phần cuối là bịa đặt. Có thể cô sẽ được tha và được tống trở lại vòng tay yêu thương của chồng cô ở Quần đảo Iron. Các anh em họ của cô cũng sẽ được chuộc, chẳng hạn như Tris Botley và vài người nữa trong nhóm, những kẻ có gia đình đủ giàu có để chuộc họ. Nhưng tất cả những kẻ còn lại sẽ chết dưới lưỡi rìu, thòng lọng hoặc trên Tường Thành. Tuy nhiên, họ vẫn có quyền lựa chọn.
Asha trèo lên một cái thùng để tất cả bọn họ có thể nhìn rõ cô. “Lũ sói đang nhe nanh tìm đến chỗ chúng ta. Chúng sẽ tiến tới cổng thành trước khi trời sáng. Chúng ta có nên vứt giáo, buông rìu và cầu xin chúng tha mạng hay không?”
“Không.” Qarl Thiếu Nữ rút kiếm ra. “Không,” Lorren Rìu Dài hòa giọng. “Không,” giọng Rolfe Người Lùn trầm vang. Anh ta to như một con gấu và cao hơn bất cứ ai trong nhóm của cô một cái đầu. “Không bao giờ.” Tiếng tù và của Hagen một lần nữa vang lên từ trên điểm cao và vọng khắp khoảnh sân.
Àhúúúúúúúúúúúúúúú, tiếng tù và chiến ngân dài và trầm lắng, một âm thanh khiến máu như đông đặc lại. Asha bắt đầu thấy ghét tiếng tù và. Ở Old Wyk, tiếng tù và địa ngục của chú cô vang lên cũng là hồi chuông báo tử cho những giấc mơ của cô, và giờ đây, rất có thể tiếng tù và của Hagen vừa báo hiệu những giờ khắc cuối cùng của cô trên thế giới này. Nếu phải chết, ta sẽ chết với chiếc rìu trong tay và câu chửi thề trên miệng.
“Tới tường thành,” Asha Greyjoy nói với người của mình. Cô quay người và rảo bước tới tháp canh, với Tris Botley ngay phía sau.
Tháp canh bằng gỗ là thứ cao nổi bật nhất ở phía bên này rặng núi. Nó nhô lên hẳn sáu mét so với những cây sentinel và thông lính lớn nhất trong rừng xung quanh. “Kia kìa, Thuyền Trưởng,” Cromm nói khi cô đang bước lên bục. Asha chỉ nhìn thấy cây cối và những cái bóng đen sì, những ngọn đồi sáng mờ ảo trong ánh trăng và những
đỉnh núi phủ tuyết phía xa. Sau đó, cô nhận ra những cái cây dường như đang bò đến gần hơn. “Ôhô,” cô cười phá lên, “lũ dê núi này ngụy trang bằng cành thông kìa.” Cả khu rừng như đang di chuyển, chúng bò dần về phía tòa lâu đài như cơn thủy triều xanh chậm chạp dâng lên. Cô nhớ lại một câu chuyện được nghe từ hồi niên thiếu, về những đứa trẻ rừng rậm và các trận chiến của họ với Tiền Nhân, khi những người mơ giấc mơ xanh biến rừng cây thành các chiến binh.
“Chúng ta không thể đánh lại nhiều người như vậy được,” Tris Botley nói.
“Bọn chúng đông cỡ nào cũng không thành vấn đề, chàng trai ạ,” Cromm khăng khăng. “Chúng càng đông thì chiến thắng càng vẻ vang. Người đời sẽ hát về chúng ta.”
Đúng, nhưng họ sẽ hát về lòng can đảm của anh hay sự ngu dốt của ta? Biển còn cách xa nơi này những 15 dặm. Liệu họ ở lại và chiến đấu bên trong những con hào sâu và tường gỗ của Deepwood có tốt hơn không? Tường thành gỗ của Deepwood chẳng bảo vệ được Nhà Glover khi ta chiếm tòa lâu đài của họ, cô tự nhủ. Vậy thì với ta, chúng cũng đâu có tác dụng gì hơn?
“Ngày mai thôi chúng ta sẽ được tiệc tùng dưới nước.” Cromm vuốt ve chiếc rìu như thể anh ta không đợi lâu hơn được nữa.
Hagen hạ chiếc tù và xuống. “Nếu chết ở nơi khô cạn này, làm sao chúng ta có thể tìm đường tới thủy cung của Thần Chết Chìm đây?”
“Khu rừng đầy rẫy những dòng suối nhỏ,” Cromm trấn an. “Tất cả đều đổ ra cửa sông, và tất cả sông đều đổ ra biển.”
Asha vẫn chưa sẵn sàng để chết, không phải ở đây, không phải lúc này. “Người sống tìm đường ra biển dễ hơn người chết chứ. Hãy cứ để lũ sói giữ lấy khu rừng tối tăm của chúng. Chúng ta sẽ về với những con thuyền.”
Cô tự hỏi ai là kẻ chỉ huy kẻ thù của cô. Nếu là ta, ta sẽ chiếm lấy bờ biển và đốt cháy hết đám thuyền dài của chúng ta trước khi tấn công Deepwood. Tuy nhiên lũ sói sẽ không dễ gì làm được việc đó nếu bọn chúng không có thuyền dài. Asha không bao giờ đậu toàn bộ thuyền một chỗ. Nửa số thuyền còn lại đang an toàn ở vùng biển nước sâu, sẵn sàng giương buồm tới Mũi Biển Rồng nếu người phương bắc phong tỏa hết bờ biển. “Hagen, hãy thổi tù và cho khu rừng rung chuyển đi. Tris, mặc giáp vào, đã đến lúc thử thanh kiếm đáng yêu của anh rồi.” Khi nhìn thấy khuôn mặt xám ngoét của Tris, cô véo má anh. “Cùng ta đi té chút máu lên mặt trăng nào, ta hứa mỗi mạng sẽ được đổi bằng một nụ hôn.”
“Nữ hoàng của tôi,” Tristifer nói, “ở đây chúng ta có tường thành chống đỡ, nhưng nếu chúng ta ra đến biển và thấy lũ sói đã chiếm thuyền của chúng ta hoặc đưa chúng
đi mất thì…”
“… chúng ta sẽ chết,” cô vui vẻ kết thúc, “nhưng ít nhất chúng ta được chết trong nước. Người sắt chiến đấu tốt hơn khi có nước muối bay vào mũi và có tiếng sóng biển sau lưng.”
Hagen thổi ba hồi tù và liên tiếp, ra hiệu cho người sắt quay trở lại thuyền. Từ bên dưới vọng lên tiếng hò hét, tiếng giáo và kiếm leng keng, cùng tiếng hí của lũ ngựa. Cô có quá ít ngựa và quá ít kỵ binh. Asha đi ra phía cầu thang. Ở sân trong, cô thấy Qarl Thiếu Nữ đang đợi bên cạnh con ngựa cái màu hạt dẻ, cùng với mũ giáp và đôi rìu ném của cô. Người sắt đang dắt ngựa từ trong chuồng của Galbart Glover ra.
“Gỗ phá thành!” Một giọng nói từ trên tường thành vọng xuống. “Bọn chúng có gỗ phá thành!”
“Cổng nào?” Asha hỏi và leo lên ngựa.
“Phía bắc!” Phía sau bức tường thành phủ rêu của Deepwood vang lên tiếng kèn trumpet.
Kèn Trumpet à? Sói thổi kèn trumpet sao? Không thể nào, nhưng Asha không có thời gian để suy nghĩ về chuyện đó. “Mở cổng phía nam,” cô ra lệnh, dù cổng phía bắc rung lên bần bật vì bị gỗ phá thành thúc vào. Cô lôi một chiếc rìu ném cán ngắn ra khỏi dây đai vắt trên vai. “Thời gian ẩn nấp như cú quạ đã qua rồi, các anh em. Giờ là thời khắc của thương, kiếm và rìu. Lập đội hình. Chúng ta sẽ về nhà.”
Tiếng hô vang “Về nhà!” và “Asha!” phát ra từ hàng trăm cổ họng. Tris Botley phi lên cạnh cô trên lưng con ngựa lang vĩ đại. Ở sân trong, người của cô tụ tập với nhau, khiên giáo sẵn sàng. Không cưỡi ngựa, Qarl Thiếu Nữ đứng giữa Ác Khẩu và Lorren Rìu Dài. Khi Hagen bò xuống từ cầu thang tháp canh, mũi tên của một con sói đâm trúng bụng khiến ông ta ngã chúi đầu xuống đất. Con gái ông nhào tới thảm thiết khóc than. “Đỡ cô ta lên,” Asha ra lệnh. Đây không phải lúc để khóc lóc. Rolfe Người Lùn kéo cô gái lên ngựa, mái tóc đỏ của cô ta tung bay trong gió. Asha nghe thấy tiếng rêи ɾỉ của cổng thành phía bắc khi bị phiến gỗ phá thành tông vào. Có thể phải mở đường máu xuyên qua chúng để thoát thân, cô nghĩ khi cánh cổng phía nam bật mở trước mắt họ. Con đường quang đãng và không một bóng kẻ thù. Nhưng sẽ được bao lâu?
“Ra ngoài!” Asha thúc gót vào sườn con ngựa.
Người và ngựa cùng phi thục mạng cho đến khi họ gặp rừng cây ở phía bên kia cánh đồng sũng nước, nơi những chồi lúa mỳ non ủng rữa dưới ánh trăng. Asha để các kỵ sĩ đi cuối cùng để canh chừng những người tụt hậu và đảm bảo không có ai bị bỏ lại phía sau. Thông lính cao vυ't và sồi già xương xẩu vây quanh họ. Deepwood1 quả thực là một cái tên quá phù hợp. Cây nào ở đây cũng vĩ đại, tối tăm và có cái gì
đó rờn rợn. Cành của chúng đan vào nhau và kẽo kẹt mỗi khi gió thổi, trong khi những cành cao nhô lên cọ vào mặt trăng. Càng rời xa nơi này ta sẽ càng thấy dễ chịu hơn, Asha nghĩ. Cây cối cũng ghét chúng ta, từ tận trong trái tim gỗ sâu thẳm của chúng.
Họ đi về phía nam và tây nam, cho đến khi những tòa tháp gỗ của Deepwood Motte khuất hẳn tầm mắt và tiếng kèn trumpet bị nuốt trọn bởi rừng cây. Lũ sói đã đòi lại được tòa lâu đài của chúng, cô nghĩ, có lẽ chúng sẽ hài lòng để chúng ta đi.
Tris Botley thúc ngựa tiến lên bên cạnh cô. “Chúng ta đang đi nhầm đường rồi,” anh ta nói và chỉ về phía mặt trăng lấp ló đằng sau tán lá cây. “Chúng ta phải đi về phía bắc, tới chỗ những con thuyền.”
“Phía tây trước,” Asha khăng khăng. “Đi về phía tây cho đến khi mặt trời lên. Sau đó đi về phía bắc.” Cô quay về phía Rolfe Người Lùn và Roggon Râu Sắt, hai kỵ binh cừ khôi nhất của cô. “Hai người hãy do thám phía trước để đảm bảo con đường chúng ta đi quang đãng. Ta không muốn bị đánh bất ngờ khi chúng ta đến gần bờ. Nếu nhìn thấy lũ sói thì quay về báo cáo ngay nhé.”
“Xin tuân lệnh,” Roggon râu đỏ xồm xoàm nói.
Sau khi hai lính trinh sát biến mất đằng sau rặng cây, toàn bộ người sắt còn lại tiếp tục lên đường, nhưng với tốc độ chậm chạp hơn. Những tán cây che hết ánh sáng từ mặt trăng và các ngôi sao, trong khi thảm rừng dưới chân họ đen kịt, nguy hiểm khó lường. Chưa đi được nửa dặm, con ngựa cái của Quenton em họ cô đã vướng vào một cái bẫy và gãy một chân trước. Quenton phải cắt cổ con vật để nó khỏi kêu. “Chúng ta nên đốt đuốc,” Tris thúc giục.
“Lửa sẽ thu hút người phương bắc tới tìm chúng ta.” Asha chửi thề và tự hỏi liệu cô có sai lầm khi rời khỏi tòa lâu đài hay không. Không. Nếu ở lại và chiến đấu thì có lẽ giờ này chúng ta đã chết hết rồi. Nhưng cứ mò mẫm trong bóng tối cũng chẳng tốt đẹp gì hơn. Những cái cây này sẽ gϊếŧ tất cả chúng ta nếu có thể. Cô cởi mũ giáp và hất mái tóc đẫm mồ hôi về phía sau. “Mặt trời sẽ mọc sau vài tiếng nữa. Chúng ta sẽ nghỉ ở đây cho đến khi trời sáng.”
Dừng lại có vẻ đơn giản; nhưng hạ trại nghỉ ngơi mới là chuyện khó. Không có ai ngủ cả, thậm chí Dale Mí Sụp, tay chèo chuyên gia ngủ gật giữa những nhịp chèo. Một số người chuyền tay nhau bầu rượu táo của Galbart Glover. Người đem theo thức ăn chia chúng cho những ai không có. Đám kỵ sĩ cho ngựa ăn và uống nước. Em họ Quenton Greyjoy của cô đang cử ba người trèo lên cây để canh chừng và thông báo khi thấy bất kỳ ánh đuốc nào ở trong rừng. Cromm mài rìu, còn Qarl Thiếu Nữ mài kiếm. Lũ ngựa đang đứng gặm cỏ. Cô con gái tóc đỏ của Hagen nắm lấy tay Tris Botley và lôi anh ta về phía bụi cây. Khi bị từ chối, cô ta quay sang rủ Harl Sáu Ngón.
Ước gì ta cũng có thể làm như vậy. Sẽ thật ngọt ngào khi được quên mất mình trong vòng tay Qarl lần cuối. Asha cảm thấy có gì đó bồn chồn trong dạ. Cô sẽ không bao giờ được cảm nhận boong thuyền Gió Đen dưới chân nữa hay sao? Và nếu còn được quay lại, cô sẽ đưa thuyền đi đâu? Ta không thể quay về quần đảo, trừ khi chấp nhận quỳ gối, dạng chân và chịu đựng những ôm ấp của Eric Ironmaker, và chẳng có hải cảng nào ở Westeros chịu chấp nhận con gái của một kraken cả. Cô có thể quay sang các lái buôn, giống như mong muốn của Tris, hoặc là tới Stepstones gia nhập với hội cướp biển ở đó. Hoặc là…
“Ta gửi cho mỗi các ngươi một phần cơ thể hoàng tử,” cô lẩm bẩm.
Qarl nhe răng cười. “Ta muốn một phần cơ thể em hơn,” anh thì thầm, “phần ngọt ngào…”
Có thứ gì đó bay ra từ bụi cây và rơi xuống ngay chính giữa bọn họ với một tiếng bụp mạnh và nảy tưng tưng. Một vật tròn, đen và ướŧ áŧ, mái tóc dài quấn quanh khi nó lăn tròn. Khi nó dừng lại giữa đám rễ của một cây sồi, Ác Khẩu nói, “Rolfe Người Lùn không còn cao như trước đây nữa rồi.” Lúc này một nửa số người của cô đã đứng lên, với lấy khiên, giáo và rìu. Chúng cũng không đốt đuốc, Asha đã suy nghĩ về việc đó, chắc chắn bọn chúng biết nhiều về khu rừng này hơn bất cứ ai trong chúng ta. Bỗng nhiên cả rừng cây rung lên quanh họ, và người phương bắc ùa ra hú hét. Lũ sói, cô nghĩ, tiếng hú của họ nghe chẳng khác gì tiếng lũ sói khốn kiếp cả. Tiếng hét ra trận của người phương bắc. Người sắt của cô hét lên đáp trả, và cuộc chiến bắt đầu.
Sẽ chẳng có ca sĩ nào viết bài hát về trận đánh này. Sẽ chẳng có học sĩ nào ghi chép nó vào một trong những cuốn sách yêu thích của Mọt Sách. Chẳng có cờ hiệu tung bay, không có tiếng tù và rền rĩ, không có lãnh chúa vĩ đại nào triệu tập binh lính xung quanh để nói lời hiệu triệu. Họ chiến đấu trong ánh sáng lờ mờ trước bình minh, những cái bóng chém gϊếŧ nhau trong khi liên tục vấp vào những rễ cây, tảng đá, với bùn và lá mục dưới chân. Người sắt mặc giáp xích và da thuộc biến màu vì muối biển, người phương bắc mặc da lông và những cành thông. Trăng sao chứng kiến cuộc chiến đấu của họ, ánh sáng mờ ảo rọi qua những cành thông khẳng khiu trơ trọi đan vào nhau trên đầu.
Tên đầu tiên tấn công Asha Greyjoy chết dưới chân cô khi bị cô ném rìu vào giữa hai mắt. Sau đó cô có đủ thời gian rảnh để đeo khiên lên tay. “Tới đây với ta!” Cô hô lớn, nhưng là nói với người của cô hay với kẻ địch? Chính cô cũng không dám chắc. Một người phương bắc với cây rìu trong tay lù lù xuất hiện trước mặt cô, hắn vung rìu bằng cả hai tay và rống lên giận dữ. Asha giơ khiên lên để tránh rìu của hắn bổ xuống, sau đó áp sát và dùng dao găm đâm vào bụng hắn. Tiếng rống của hắn nghe khác hẳn khi hắn ngã xuống. Cô quay người và nhìn thấy một con sói khác phía sau. Cô chém
hắn giữa trán, hắn cũng chém vào dưới ngực cô, nhưng giáp sắt đã chặn lại được. Asha đâm con dao vào họng hắn và để hắn chết đuối trong máu của chính mình. Một bàn tay túm lấy tóc cô, nhưng vì tóc cô ngắn nên hắn không thể nắm chặt để giật đầu cô về phía sau. Asha giẫm gót giầy lên mu bàn chân hắn và thoát ra khi hắn đang rú lên vì đau. Khi cô quay lại thì hắn đã gục xuống và đang hấp hối, tay vẫn nắm chặt một nắm tóc của cô. Qarl đứng bên trên hắn với thanh trường kiếm nhỏ máu tong tong, ánh trăng sáng lên trong mắt anh.
Ác Khẩu đang đếm số người phương bắc mà anh gϊếŧ được, anh hô to “bốn,” khi một tên ngã xuống, và vài giây sau đó là “năm”. Lũ ngựa hí không ngừng, đá loạn xạ và đảo mắt liên hồi vì hoảng sợ, tất cả như phát điên vì cảnh chém gϊếŧ máu me… Tất cả trừ con ngựa giống màu đen vĩ đại của Tris Botley. Tris đã thắng được yên, con ngựa của anh ta l*иg lên và quay tròn khi anh dùng kiếm chém trái chém phải. Có lẽ mình nợ anh ta vài ba nụ hôn sau đêm nay, Asha nghĩ.
“Bảy,” Ác Khẩu hét lớn, nhưng đằng sau anh ta, Lorren Rìu Dài đã nằm bất động, người đè lên một bên chân gãy, những cái bóng vẫn tiếp tục hò hét và sột soạt xông lên. Chúng ta đang chiến đấu với những bụi cây, Asha nghĩ khi cô gϊếŧ một tên ngụy trang bằng nhiều lá hơn bất cứ cái cây nào xung quanh. Cô không thể không phá lên cười. Tiếng cười của cô càng thu hút lũ sói tới nhiều hơn, cô cũng gϊếŧ tất cả bọn chúng và tự hỏi liệu cô có nên bắt đầu đếm hay không. Ta đã là phụ nữ có chồng, và đây là đứa con còn đang ẵm ngửa của ta. Cô đâm con dao vào ngực một gã người phương bắc, xuyên qua lớp lông, len và da thuộc. Mặt hắn ở gần đến nỗi cô ngửi được hơi thở chua loét và hôi rình của hắn, tay hắn đang ở trên cổ cô. Asha cảm nhận được tiếng thép nạo vào xương khi mũi dao trượt qua một dẻ xương sườn. Người đàn ông rùng mình và gục chết. Khi cô buông hắn ra, cô mệt đến nỗi gần như ngã lên chốc hắn.
Sau đó cô đứng lưng đối lưng với Qarl, nghe tiếng gầm gừ và chửi thề của mọi người xung quanh, tiếng những con người dũng cảm mò mẫm trong bóng tối và khóc ròng gọi mẹ. Một bụi cây nữa tấn công cô với một cây giáo đủ dài để xuyên từ bụng cô qua lưng Qarl và để họ chết dính vào nhau. Vẫn tốt hơn là chết một mình trong cô quạnh, cô tự nhủ, nhưng em họ Quenton của cô đã gϊếŧ tên lính giáo trước khi hắn kịp với tới cô. Chỉ một giây sau, Quenton bị gϊếŧ bởi một chiếc rìu bổ vào sau gáy.
Đằng sau cô, Ác Khẩu hét lớn, “Chín, lũ khốn chết tiệt.” Con gái Hagen tя͢ầи ͙ȶя͢υồиɠ đằng sau đám cây với hai con sói hai bên. Asha vung một chiếc rìu ném và nó bay trúng lưng một con sói. Khi hắn ngã xuống, con gái Hagen quỳ gối, giật lấy kiếm của hắn và đâm tên còn lại, sau đó đứng dậy, người be bét máu và bùn. Mái tóc dài đỏ rực xõa ra, cô tiếp tục lao vào chiến đấu.
Đâu đó giữa trận chiến, Asha mất dấu Qarl, Tris và tất cả bọn họ. Con dao găm của cô cũng chẳng thấy đâu, tất cả rìu ném của cô cũng vậy; thay vào đó cô có một thanh kiếm trong tay, một thanh đoản kiếm với lưỡi dày, trông gần như một con dao phay của gã hàng thịt. Trong lúc cấp bách, cô thậm chí không biết mình lấy nó ở đâu ra. Cánh tay cô đau nhức, miệng cô đầy vị máu, hai chân cô run rẩy, vài tia nắng nhạt của bình minh đang len lỏi qua những thân cây. Đã lâu đến vậy rồi sao? Chúng ta đã đánh nhau được bao lâu rồi?
Kẻ thù cuối cùng của cô là một gã người miền bắc với cây rìu trong tay, một gã đầu hói, râu rậm và to lớn trong bộ giáp xích dài gỉ sét vá chằng vá đυ.p, chắc hẳn gã phải là thủ lĩnh hoặc nhà vô địch gì đó. Rõ ràng gã thấy không thoải mái khi phải đánh nhau với một phụ nữ. “Đồ cɧó ©áϊ!” Gã gầm lên với mỗi đòn tấn công, nước dãi phun như mưa vào mặt cô “Đồ cɧó ©áϊ! Cɧó ©áϊ!”
Asha muốn gào thét chửi lại hắn, nhưng họng cô khô khốc và âm thanh phát ra chỉ là những tiếng gầm gừ. Rìu của hắn rung bần bật trên chiếc khiên của cô, gỗ bị chẻ đôi từ trên xuống và những mảnh gỗ dài màu xám nhạt bắn ra tung tóe khi hắn lôi chiếc rìu ra. Giờ cô chỉ còn một thanh củi trên tay. Cô lùi lại và hất cái khiên hỏng đi, sau đó lùi thêm vài bước nữa, nhảy sang phải rồi sang trái để tránh chiếc rìu đang bổ xuống.
Sau đó lưng cô áp sát vào một thân cây, và cô không thể lùi thêm được nữa. Con sói giơ chiếc rìu lên cao và chuẩn bị bổ đầu cô ra làm đôi. Asha cố tránh về bên phải, nhưng chân cô vướng vào đám rễ cây và bị mắc lại. Cô xoay người, mất thăng bằng, và chiếc rìu bổ vào thái dương cô với tiếng rít của sắt va vào nhau. Cả thế giới chuyển sang màu đỏ, rồi đen, rồi lại đỏ một lần nữa. Cơn đau lan dần lên chân cô như tia sét, và từ đằng xa cô nghe thấy gã người phương bắc nói, “Con ả khốn kiếp,” khi hắn nhấc rìu lên sau cú bổ đáng lẽ đã kết liễu cô.
Một tiếng kèn trumpet nổi lên.
Không thể thế được, cô nghĩ. Trong thủy cung của Thần Chết Chìm không có kèn trumpet. Bên dưới những con sóng là người cá, họ chào đón lãnh chúa của mình bằng cách thổi vỏ ốc.
Cô mơ thấy một trái tim màu đỏ đang cháy và một con hươu màu đen trên một tấm gỗ vàng, lửa bốc lên từ đôi sừng của nó.