Tiếng rìu chém vang lên suốt ngày đêm.
Jon không thể nhớ lần cuối cùng cậu ngủ là khi nào. Khi nhắm mắt lại, cậu mơ về những trận chiến; khi tỉnh giấc, cậu vẫn tiếp tục chiến đấu. Ngay cả trong Tháp Vương, cậu vẫn nghe thấy âm thanh không ngừng nghỉ của đồng, đá lửa và thép bắt vào gỗ, và âm thanh đó còn lớn hơn khi cậu nghỉ ngơi trong chiếc lán ấm trên Tường Thành. Mance có đầy búa tạ, cưa dài với răng bằng xương và đá lửa. Một lần, khi cậu chìm vào giấc ngủ mệt mỏi, có tiếng kêu lớn vọng ra từ phía rừng ma, một cái cây đổ ầm xuống nền đất bẩn thỉu và đầy lá kim.
Jon đang nằm thao thức trên một tấm nệm làm từ lông thú đặt trên sàn nhà ấm áp khi Owen bước đến bên cạnh. Anh ta lay vai cậu và gọi. “Lãnh chúa Snow! Trời sáng rồi.” Và đưa một tay kéo Jon đứng dậy. Những người khác cũng đã thức giấc, đang chen nhau đi giày và đeo lại kiếm trong căn phòng chật hẹp. Không ai nói một lời nào. Tất cả đều quá mệt mỏi đến nỗi không muốn nói gì hết. Rất ít người rời khỏi Tường Thành trong những ngày này. Lên xuống tường thành bằng chiếc l*иg rất mất thời gian. Hiện giờ, ở Hắc Thành chỉ còn lại Maester Aemon, Ser Wynton Stout và vài người khác, hoặc do quá già hoặc quá yếu không thể tham gia chiến đấu.
“Tôi mơ thấy nhà vua đến,” Owen vui vẻ nói. “Maester Aemon gửi quạ thông báo, và vua Robert đã đến với toàn bộ quân lực của ngài. Trong giấc mơ tôi thấy cờ hiệu màu vàng của ngài ấy.”
Jon cố nở nụ cười. “Đó hẳn là một viễn cảnh đáng chờ đợi đấy Owen.” Phớt lờ cơn đau do vết thương ở chân, cậu khoác chiếc áo choàng màu đen, nắm lấy chiếc nạng và bước ra ngoài, chuẩn bị đối mặt với một ngày nữa trên Tường Thành.
Một cơn gió lạnh thổi qua mái tóc nâu dài của cậu. Cách đó nửa dặm về hướng bắc, những chiếc lều dã chiến của đám du mục hiện lên rõ mồn một, những vệt khói từ các đám lửa trại bay lên trông giống như những vệt xước trên nền trời u ám. Dọc theo bìa rừng họ đã dựng lều bằng da sống và lông thú, thậm chí có cả một căn sảnh dài thô kệch làm bằng những khúc gỗ và cành cây đan lại với nhau. Ngựa ở hướng đông, voi ma mυ'ŧ ở hướng tây, còn quân lính ở khắp nơi đang mài kiếm, gắn mũi giáo mác, và nai nịt những bộ áo giáp làm từ da, sừng và xương thú. Jon biết còn có một nhóm quân khác nữa ở trong rừng. Chúng ngụy trang sau những bụi cây để qua mắt đám quạ mà chúng căm ghét.
Các cung thủ của chúng cũng đang tiếp cận Tường Thành, cùng với khiên chống tên. “Bữa sáng của chúng ta đây rồi,” Pyp vui vẻ thông báo như thường lệ. Mừng là Pyp vẫn còn đùa được. Cách đây ba ngày, một trong những “bữa sáng” này đã bắn trúng chân Red Alyn vùng Rosewood. Nếu có thể rướn đủ xa, vẫn có thể thấy xác cậu ta dưới chân Tường Thành. Jon nghĩ để họ vui với trò đùa của Pyp vẫn còn tốt hơn là rầu rĩ về cái chết của Alyn.
Những tấm khiên chống tên của kẻ địch được làm từ gỗ, đủ rộng để che cho năm người núp sau. Đám cung thủ túm tụm sát vào khiên và quỳ phía sau để bắn tên qua khe hở trên tấm gỗ. Lần đầu tiên thấy đội quân hoang dã sử dụng tấm khiên đó, Jon đã ra lệnh bắn các mũi tên lửa và có vẻ rất hiệu quả khi nửa tá khiên bốc cháy. Tuy nhiên, rút kinh nghiệm, Mance cho người lấy da động vật bọc lên các tấm khiên này, tất cả những mũi tên lửa bắn ra đều không thể đốt cháy chúng. Những người anh em thậm chí đã bắt đầu đánh cược xem bù nhìn rơm của người nào sẽ thu được nhiều mũi tên nhất. Edd U Sầu đang dẫn đầu với bốn mũi tên, nhưng Othell Yarwyck, Tumberjon, và Watt vùng Sông Dài đều có ba mũi tên. Chính Pyp là người muốn đặt tên cho những con bù nhìn theo tên các anh em đã thiệt mạng. “Như thế trông chúng ta có vẻ nhiều người hơn,” cậu ta nói.
“Nhiều người bị cắm tên vào bụng hơn ấy,” Grenn phàn nàn, nhưng việc gọi tên đó có vẻ khiến các anh em thích thú hơn, vì vậy Jon cứ để bù nhìn đứng đó và cuộc đánh cược tiếp tục.
Trên mép Tường Thành có một ống ngắm bằng đồng của vùng Myr, được trang trí công phu đặt trên ba chân khẳng khiu. Maester Aemon từng dùng nó để nhìn các vì sao, trước khi đôi mắt của ông bị mù. Jon đưa ống xuống để dòm kẻ thù. Dù ở xa chừng này, nhưng chiếc lều trắng khổng lồ của Mance Rayder được khâu từ các tấm da gấu tuyết vẫn không thể nhầm lẫn được. Các mắt kính vùng Myr giúp cậu nhìn rõ mặt của đám dân du mục. Sáng nay cậu không thấy bóng dáng Mance đâu, nhưng cậu thấy Dalla, vợ ông ta, ở bên ngoài nhóm lửa, trong khi Val, em gái cô ta, đang vắt sữa dê bên cạnh lều. Trông Dalla cồng kềnh lắm rồi, vậy mà vẫn đi lại được, thật quả là kỳ diệu. Chắc đứa bé sắp chào đời rồi, Jon nghĩ bụng. Cậu xoay mắt kính về phía đông, tìm kiếm giữa các túp lều và cây cối cho đến khi cậu thấy con rùa. Nó cũng sẽ sớm đến thôi. Suốt đêm, đám dân du mục lột da một con ma mυ'ŧ chết và họ đang buộc miếng da sống đẫm máu lên đầu con rùa, thêm một lớp da cừu và các miếng da lên trên. Con rùa có một đầu tròn và tám bánh xe rất lớn, và dưới những miếng da là một khung gỗ chắc nịch. Khi dân du mục bắt đầu đóng con rùa đó, Sa-tanh cứ nghĩ họ đang đóng tàu. Cũng không sai nhiều lắm. Con rùa là một thân tàu lật úp, có phần đầu và phần đuôi mở; một căn phòng dài trên những bánh xe.
“Xong rồi phải không?” Grenn hỏi.
“Gần xong.” Jon bỏ ống kính ra. “Nó có vẻ sẽ xong trong ngày hôm nay. Cậu đổ đầy thùng chưa?”
“Đầy hết rồi. Thùng đã đóng băng suốt đêm, Pyp kiểm tra rồi.”
Grenn đã thay đổi rất nhiều từ cậu bé cổ đỏ ửng to lớn vụng về lần đầu tiên Jon kết bạn. Cậu ta cao thêm, ngực và vai săn chắc, và cũng chưa cắt tóc, cạo râu kể từ khi rời khỏi đỉnh Nắm Đấm của Tiền Nhân. Việc đó khiến cậu ta trông to lớn và xù xì như một con bò rừng, đúng với cái tên chế giễu mà Ser Alliser Thorne đặt khi huấn luyện. Tuy vậy, trông cậu ta rất mệt mỏi. Khi Jon nói nhiều, cậu ta chỉ gật đầu. “Tiếng rìu chặt cả đêm. Tôi không thể nào ngủ được.”
“Thế thì đi ngủ đi.”
“Tôi không cần…”
“Cậu cần đấy. Tôi muốn cậu nghỉ ngơi. Đi đi, tôi không muốn cậu ngủ gật trong lúc chiến đấu.” Cậu mỉm cười. “Cậu là người duy nhất có thể di chuyển những cái thùng đó.”
Grenn lẩm bẩm bước đi, còn Jon lại giơ ống nhòm tìm kiếm trại của dân du mục. Thi thoảng một mũi tên bay vọt qua đầu nhưng cậu đã biết cách tránh chúng. Tầm bắn xa và góc bắn xấu, cơ hội bị bắn trúng rất nhỏ. Cậu vẫn không nhìn thấy dấu vết của Mance Rayder trong trại, nhưng lại thấy Tormund Giantsbane và hai cậu con trai của ông ta đang đứng quanh con rùa. Mấy đứa đang phải vật lộn với miếng da voi ma mυ'ŧ trong khi Tormund gặm đùi dê nướng và gầm lên ra lệnh. Ở một nơi khác, cậu thấy tên điều khiển thú Varamyr Sixskins đi dưới những thân cây với con mèo ma của hắn đang bám sau gót.
Khi nghe tiếng lách của chuỗi dây tời và tiếng sắt rít khi cửa l*иg mở, cậu biết Hobb đang mang bữa ăn sáng tới cho họ như thường lệ mỗi buổi sáng. Con rùa của Mance làm Jon quên cảm giác đói. Với họ, dầu là thứ quan trọng nhất, nhưng hết mất rồi, và thùng cuối cùng đã được ném ra khỏi Tường Thành hai đêm trước. Chẳng mấy nữa họ cũng sẽ hết tên, và đến người vót tên cũng chẳng còn. Đêm hôm kia, một con quạ bay đến từ phương tây, đem theo thư của Ser Denys Mallister. Có vẻ như Bowen Marsh đã đuổi theo dân du mục tới Tháp Đêm, và rồi xa hơn, xuống cả vùng Gorge u ám. Tại Cầu Đầu Lâu, đội quân của ông ta chạm trán Mít Ướt, ba trăm tên du mục và đánh thắng một trận chiến đẫm máu. Tuy nhiên, chiến thắng đó tổn thất khá lớn. Hơn một trăm anh em bị gϊếŧ hại, trong số đó có Ser Endrew Tarth và Ser Aladale Wynch. Quả Lựu Già được mang về Tháp Đêm trong tình trạng bị thương nặng. Maester Mullin chăm sóc ông, nhưng phải mất lâu nữa ông ta mới kịp bình phục và trở về Hắc Thành.
Khi biết chuyện, Jon đã phái Zei cưỡi con ngựa tốt nhất đến thị trấn Mole để cầu xin dân làng giúp đỡ đội quân của Tường Thành. Nhưng cô ta không quay lại. Khi cậu cử Mully đi, anh ta trở về và báo rằng cả làng đều vắng tanh, nhà chứa cũng vậy. Nhiều khả năng Zei đã theo họ, thẳng xuống vương lộ. Có lẽ tất cả chúng ta nên làm như vậy, Jon nghĩ bụng.
Cậu tự bắt mình phải ăn, đói hoặc không gì cả. Không ngủ được đã đủ tệ lắm rồi, cậu không thể tiếp tục nếu không có thức ăn. Hơn nữa, biết đâu đây là bữa ăn cuối cùng của mình. Biết đâu đó là bữa ăn cuối cùng của tất cả chúng ta. Vì vậy, đúng lúc Jon nhồi đầy bụng với thịt xông khói, bánh mì, hành, và pho mát thì cậu nghe thấy tiếng Ngựa hét lên. “NÓ ĐANG ĐẾN!”
Không ai cần phải hỏi “nó” là gì. Jon cũng không cần đến mắt kính vùng Myr của vị học sĩ để xem nó bò ra từ giữa các túp lều và đám cây cối. “Trông không giống rùa lắm.” Sa-tanh nhận xét. “Rùa làm gì có lông.”
“Và phần lớn rùa cũng không có bánh xe đâu,” Pyp nói.
“Thổi tù và lên,” Jon ra lệnh, và Kegs thổi hai hồi dài, để đánh thức Grenn và những người phải thức canh gác suốt đêm. Khi đám du mục tới, Tường Thành cần tất cả mọi người. Nhưng có thần thánh chứng giám, số quân của chúng ta ít ỏi quá. Jon nhìn Pyp, Kegs và Sa-tanh, Ngựa và Owen Đần, Tim Lắp Bắp, Mully, Ủng Rỗng, và những người còn lại, cố gắng hình dung cảnh họ sát cánh cùng nhau chống lại hàng trăm gã du mục la hét ầm ĩ trong bóng tối của đường hầm đó, chỉ với một vài thanh sắt chắn giữa hai bên. Đó là kết cục của cuộc chiến, trừ khi họ có thể ngăn chặn con rùa kia trước khi cổng bị phá.
“To quá,” Ngựa nói.
Pyp chép môi. “Hãy nghĩ tới món súp rùa.” Lời nói đùa chợt biến mất. Ngay cả giọng Pyp cũng trở nên mệt mỏi. Trông cậu ấy như chết dở sống dở, Jon nghĩ, nhưng tất cả chúng ta đều như vậy. Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành có rất nhiều quân, ông ta dư sức mỗi trận cử một đội quân mới, còn anh em áo đen chỉ có chừng đó đương đầu với mọi trận đánh, vậy nên họ mới kiệt quệ đến vậy.
Jon biết bên dưới lớp gỗ có rất nhiều người đang gồng mình kéo xe, họ phải gắng sức đẩy vai để xe lăn bánh, nhưng chỉ cần con rùa đó vượt qua cổng, họ sẽ thay dây thừng bằng rìu. Ít nhất hôm nay Mance không dùng đến voi ma mυ'ŧ. Jon thấy vui về điều đó. Bọn họ đã lãng phí nhiều sức lực để phá Tường Thành, và quân số đông đảo chỉ khiến họ dễ dàng bị nhắm trúng. Như ngày hôm qua, một nửa số quân chiến đấu của chúng phải bỏ mạng, tiếng kèn thê lương nghe thật khủng khϊếp.
Con rùa bò chầm chậm trên các viên đá, gốc cây và bụi cây. Các cuộc tấn công trước đó đã khiến đám dân du mục tổn thất một trăm mạng người, hoặc nhiều hơn thế. Hầu hết các xác chết vẫn nằm nguyên nơi chúng bỏ mạng. Lúc yên ắng, đàn quạ bay đến rỉa xác, còn hiện giờ, quạ đang bay tứ tán. Chúng cũng thích dáng vẻ của con rùa đó chẳng kém gì cậu.
Jon biết Sa-tanh, Ngựa và những người khác đang nhìn cậu, và họ đợi mệnh lệnh của cậu. Cậu đã quá mệt, không còn đủ tỉnh táo để nhận biết điều gì nữa. Tường Thành là của mình, cậu tự nhắc nhở bản thân như vậy. “Owen, Ngựa, hãy nhắm vào những cỗ xe. Kegs, cậu và Ủng Rỗng nhắm vào những con bò cạp. Những người còn lại lên dây cung. Hãy bắn tên lửa. Để xem liệu chúng ta có thể đốt cháy nó không.” Có thể sẽ là một việc làm vô ích, Jon biết, nhưng còn tốt hơn là đứng đó bất lực.
Cồng kềnh và chậm chạp, con rùa dễ dàng bị bắn trúng, còn các cung thủ và lính bắn nỏ của cậu sớm biến nó thành một con nhím gỗ... nhưng những miếng da ướt bảo vệ nó, giống như thể chúng có khiên đỡ, và những mũi tên lửa rơi ra ngay sau khi chạm vào mục tiêu. Jon chửi thề.
“Bắn những con bọ cạp,” cậu ra lệnh. “Bắn những cỗ xe.”
Tên cắm sâu vào miếng da trên những con bọ cạp, nhưng không gây thiệt hại gì hơn so với mũi tên lửa. Những hòn đá nảy ra khỏi mai con rùa, để lại những lúm sâu đồng tiền trên các tấm da dày. Một hòn đá bắn ra từ một trong những cỗ máy bắn đá có thể nghiền nát chúng, nhưng cỗ máy bắn đá vẫn đang bị hỏng, và đám dân du mục đã đi xa ra khỏi tầm bắn của một cỗ khác.
“Jon, nó vẫn di chuyển,” Owen Đần nói.
Tự cậu cũng thấy điều đó. Nó nhích lên từng chút, từng chút một, con rùa bò đến gần hơn, nhanh hơn khi vượt qua khu vực chết chóc. Khi đám dân du mục tới gần Tường Thành, chiếc xe sẽ tạo thành nơi ẩn nấp cần thiết để chúng chém rìu vào cánh cổng bên ngoài mới-được-sửa-chữa-vội-vàng. Bên trong, dưới lớp băng, chúng sẽ đào thông đống đổ nát ở đường hầm chỉ trong một vài giờ, và sau đó sẽ không có gì có thể ngăn chặn chúng, ngoại trừ hai cánh cổng sắt, một vài xác chết đã đóng băng, những thứ mà Jon và các anh em ném xuống, để chúng chiến đấu và chết trong bóng tối.
Phía bên trái, chiếc xe phát ra một âm thanh và bắn đá vào không khí. Cơn mưa đá rơi xuống lưng con rùa và rớt xuống đất, hoàn toàn không gây hề hấn gì cho nó. Các cung thủ du mục bắn tên từ sau tấm chắn. Một mũi tên cắm vào mặt của một bù nhìn rơm, và Pyp nói, “Bốn mũi tên dành cho Watt vùng Sông Dài! Số tên của chúng ta bằng nhau rồi!” Tuy nhiên, phát bắn tiếp theo bay véo ngang tai khiến cậu ta gào lên. “Thật xấu hổ! Ta không đấu thương ngựa đâu nhé!”
“Da sống không cháy được đâu,” Jon nói để nhắc nhở bản thân và những người khác. Hy vọng duy nhất của họ là cố gắng và hủy hoại con rùa khi nó đến Tường Thành. Để làm được điều đó, họ cần những tảng đá. Bất luận con rùa được chế tạo vững chắc cỡ nào, một tảng đá rơi thẳng từ độ cao 200 mét xuống đầu chắc chắn sẽ khiến nó vỡ vụn. “Grenn, Owen, Kegs, đến lúc rồi.”
Dọc theo chiếc lán ấm, khoảng chục thùng sồi cứng được xếp thành hàng. Thùng chất kín đá, sỏi mà anh em áo đen thường rải trên các lối đi để tạo chỗ đứng tốt hơn khi leo lên Tường Thành. Hôm qua, sau khi nhìn thấy đám du mục trùm những tấm da cừu lên con rùa, Jon nói với Grenn đổ thật nhiều nước vào thùng. Nước sẽ ngấm qua các hòn đá dăm, và qua đêm các thùng đá nước sẽ đóng thành băng. Đó chính là thứ họ cần.
“Tại sao phải làm cho thùng đóng băng?” Tối qua Grenn hỏi cậu. “Tại sao chúng ta không cứ thế mà đẩy thùng xuống?”
Jon trả lời, “Nếu thùng va vào Tường Thành trên đường rơi xuống, thùng sẽ vỡ ra và sỏi đá sẽ văng tứ tán. Chúng ta sẽ không muốn trút mưa đá vào những tên khốn xâm lược đâu.”
Cậu ghé vai đẩy một thùng cùng với Grenn, trong khi Kegs và Owen đang vật lộn với một thùng khác. Hợp sức, họ ẩy thùng tới lui để phá vỡ lớp băng dưới đáy thùng. “Cái thùng phải nặng tới một tấn ấy,” Grenn nói.
“Lật nó lên và lăn thôi,” Jon nói. “Cẩn thận, nếu nó lăn vào chân của cậu, cậu sẽ giống hệt Ủng Rỗng đấy.”
Khi chiếc thùng nằm vào đúng vị trí, Jon cầm một ngọn đuốc và hơ hơ bên trên bề mặt của Tường Thành để làm tan băng một chút. Lớp nước mỏng sẽ giúp thùng lăn dễ dàng hơn. Thật quá dễ dàng, họ gần như tuột tay khỏi thùng. Nhưng cuối cùng, với bốn người bọn họ cùng hợp lực, thùng đá được lăn ra mép thành và họ lật nó lên một lần nữa.
Bốn thùng gỗ sồi lớn được xếp hàng ngay ngắn phía trên cổng thành khi Pyp hét lên, “Có một con rùa tại cánh cổng của chúng ta!” Jon kéo lê cái chân bị thương và nhoài người ra ngó. Tích trữ, chắc chắn Marsh đã tích trữ. Chắc chắn bọn chúng đã chuẩn bị rất nhiều trò. Đám dân du mục đang kéo những tên khổng lồ chết ra khỏi cánh cổng. Ngựa và Mully ném đá xuống người chúng, và Jon nghĩ cậu đã nhìn thấy một người nằm xuống, nhưng những hòn đá quá nhỏ để gây hại cho con rùa. Cậu tự hỏi những tên du mục này sẽ làm gì với con ma mυ'ŧ bị chết trên đường, và rồi cậu hiểu ngay. Con rùa lớn như một căn phòng dài, vậy nên, hết sức đơn giản, chúng chỉ cần đẩy nó qua cái xác. Chân cậu co giật, nhưng Ngựa
nắm cánh tay cậu và kéo về chỗ an toàn. “Cậu không nên nhoài người ra như thế,” cậu ta nói.
“Đáng ra chúng ta cũng phải tích trữ.” Jon nghĩ cậu vừa nghe thấy tiếng rìu chém trên gỗ, nhưng có lẽ đó chỉ là nỗi sợ hãi vang lên trong tai cậu thôi. Cậu quay sang nhìn Grenn. “Làm thôi.”
Grenn bước ra phía sau một thùng sồi, vừa ghé vai vừa làu bàu, rồi bắt đầu đẩy. Owen và Mully đến giúp cậu ta. Họ đẩy một thùng cách tường khoảng 4 centimet, rồi đẩy một thùng khác. Và đột nhiên nó biến mất. Họ nghe thấy tiếng đập mạnh khi thùng va vào Tường Thành trên đường rơi xuống, kế đến là âm thanh lớn hơn, là tiếng gỗ vỡ, tiếp sau đó là tiếng rên la gào thét. Sa-tanh reo lên và Owen nhảy vòng quanh, trong khi Pyp nhoài người ra trước và nói, “Con rùa nhồi đầy thỏ! Nhìn chúng nhảy đi trốn kìa!”
“Tiếp đi,” Jon quát, Grenn và Kegs kề vai vào chiếc thùng kế tiếp và đẩy nó vào không trung.
Họ vừa đẩy xong, phía trước con rùa của Mance là một đống đổ nát và vỡ vụn, đám dân du mục ùa ra từ đầu kia của con rùa và hối hả chạy về trại. Sa-tanh lắp nỏ và bắn vài mũi tên khi chúng bỏ chạy, để tiễn chúng đi nhanh hơn. Grenn cười toe toét, Pyp đang đùa cợt và không ai trong số họ sẽ chết hôm nay.
Nhưng ngày mai... Jon liếc về phía cái lán. Chỉ còn 8 trong số 12 thùng sỏi. Lúc đó cậu mới biết mình mệt cỡ nào và vết thương mới đau làm sao hơn. Mình phải ngủ. Ít nhất là vài giờ. Cậu có thể đến gặp Maester Aemon hỏi xin chút rượu an thần, nó sẽ giúp cậu ngủ ngon. “Tôi xuống Tháp Vương đây,” cậu nói với họ. “Hãy gọi tôi nếu Mance còn đến. Pyp này, cậu canh Tường Thành nhé.”
“Tôi á?” Pyp nói.
“Cậu ta á?” Grenn nói.
Cậu chỉ mỉm cười, để họ lại và chui vào l*иg đi xuống.
***
Một ly rượu an thần quả thật hữu ích. Vừa ngả lưng xuống chiếc giường hẹp trong phòng cậu đã ngủ say. Giấc mơ của cậu lạ lùng và mờ nhạt, toàn những giọng nói xa lạ, tiếng la hét, tiếng gào khóc, tiếng tù và trầm thấp, vang to và vẫn còn đọng lại trong không khí.
Khi cậu tỉnh dậy, bầu trời tối mịt bên ngoài khe nhỏ trên tường, và có bốn người xa lạ đang đứng bên cạnh giường. Một người cầm đèn l*иg. “Jon Snow,” người cao nhất nói giọng sống sượng, “mang giày vào và đi với chúng tôi.”
Ý nghĩ đầu tiên của cậu là Tường Thành thất thủ trong lúc cậu ngủ, và Mance Rayder đã phái nhiều gã khổng lồ hơn, hoặc cho một con rùa khác công phá thành. Nhưng khi dụi mắt, cậu thấy tất cả những người lạ kia đều mặc áo đen. Jon nhận ra họ là người của Đội Tuần Đêm. “Đi đâu? Các người là ai?”
Người đàn ông cao lớn ra hiệu cho hai người khác kéo Jon ra khỏi giường. Với đèn l*иg dẫn đường, họ đưa cậu ra khỏi phòng và đi lên cầu thang, tới phòng của Gấu Già. Cậu thấy Maester Aemon đứng bên đống lửa, hai tay tựa lên cây gậy mận gai. Septon Cellador vẫn nửa tỉnh nửa say như thường lệ, và Ser Stout Wynton đang ngủ gật trên chiếc ghế cạnh cửa sổ. Còn các anh em khác đều là những người cậu không quen. Tất cả bọn họ, trừ một người.
Mặc chiếc áo choàng lông được cắt tỉa đẹp đẽ và đôi giày được đánh bóng, Ser Alliser Thorne quay sang nói, “Đây là kẻ phản bội, thưa ngài. Đứa con hoang của Ned Stark, thành Winterfell.”
“Thorne, tôi không phải kẻ phản bội,” Jon hờ hững đáp lại.
“Chúng ta sẽ biết thôi.” Một người đàn ông to béo ngồi trong chiếc ghế da phía sau bàn nơi Gấu Già thường ngồi viết thư, và Jon không biết người đó. “Phải, chúng ta sẽ biết thôi,” hắn nhắc lại một lần nữa. “Ta hy vọng cậu không phủ nhận rằng cậu là Jon Snow chứ? Đứa con hoang Nhà Stark sao?”
“Lãnh chúa Snow, cậu ta thích được gọi như thế.” Ser Alliser gày, nhỏ, gân guốc, và đôi mắt không cảm xúc của hắn tối sầm lại vẻ thích thú.
“Ông chính là người gọi tôi là Lãnh chúa Snow,” Jon nói. Ser Alliser vốn có sở thích đặt tên cho những người ông ta huấn luyện, trong suốt thời gian ông làm thủ lĩnh đội quân của Hắc Thành. Gấu Già đã phái Thorne tới Trạm Đông. Những người khác chắc chắn là quân của Trạm Đông. Quạ đã đưa tin đến cho Pyke Cotter và ông ta cử người đến giúp. “Ông mang đến đây bao nhiêu người?” Cậu hỏi người đàn ông phía sau bàn.
“Ta mới là người đưa ra câu hỏi,” người đàn ông mập mạp trả lời. “Cậu đang bị buộc tội phản thề, hèn nhát, và đào ngũ, Jon Snow ạ. Cậu có phủ nhận rằng cậu phó mặc các anh em, để họ thiệt mạng trên đỉnh Nắm Đấm và chạy theo đám dân du mục của Mance Rayder, kẻ tự xưng mình là Vua-Ngoài-Tường-Thành không?”
“Phó mặc...?” Jon không nói thêm được gì.
Lúc đó, Maester Aemon là người lên tiếng. “Thưa ngài, Donal Noye và tôi đã thảo luận những vấn đề này khi Jon Snow quay về với chúng tôi, và chúng tôi hài lòng với lời giải thích của Jon.”
“Ồ, nhưng tôi thì không, ngài học sĩ ạ,” gã béo nói. “Tôi sẽ đích thân nghe những lời giải thích này. Phải rồi, tôi sẽ nghe!”
Jon nuốt cơn giận vào trong. “Tôi không phó mặc ai hết. Tôi rời khỏi đỉnh Nắm Đấm với Qhorin Cụt Tay để do thám Đèo Skirling. Tôi gia nhập đội quân du mục theo lệnh. Cụt Tay sợ rằng có thể Mance đã tìm thấy chiếc Tù Và Mùa Đông…”
“Tù Và Mùa Đông ư?” Ser Alliser cười khúc khích. “Lãnh chúa Snow, lẽ nào cậu cũng được lệnh đi đếm những con quái vật của chúng sao?”
“Không, nhưng tôi đã gắng sức đếm những tên khổng lồ của chúng.”
“Thưa ngài,” gã đàn ông mập ngắt lời. “Cậu sẽ gọi Ser Alliser là ngài, và gọi ta là lãnh chúa. Ta là Janos Slynt, Lãnh chúa thành Harrenhal, và chỉ huy của Hắc Thành cho đến khi Bowen Marsh trở về cùng với đội quân của ông ta. Cậu sẽ cư xử cho phải phép với bọn ta. Ta sẽ không ngồi nghe một tên hiệp sĩ được phong tước như Ser Alliser bị thằng con hoang của một kẻ phản bội chế nhạo.” Ông ta giơ tay lên và chỉ một ngón vào mặt Jon. “Cậu có phủ nhận việc cậu đưa một phụ nữ du mục lên giường không?”
“Không.” Nỗi đau buồn của Jon về Ygritte quá sâu sắc, khiến lúc này cậu không thể phủ nhận. “Không, thưa lãnh chúa.”
“Cũng là do Cụt Tay lệnh cho cậu ngủ với con điếm bẩn thỉu đó sao?” Ser Alliser hỏi với một nụ cười chế giễu.
“Thưa ngài. Cô ấy không phải con điếm. Cụt Tay bảo tôi không được phản đối bất cứ điều gì đám dân du mục yêu cầu tôi làm, nhưng... Tôi không phủ nhận rằng tôi đã vượt quá những gì tôi phải làm, tôi... quan tâm đến cô ấy.”
“Vậy ngươi đã thừa nhận mình là kẻ phản thề,” Janos Slynt nói.
Một nửa số người ở Hắc Thành thi thoảng vẫn tới nhà thổ của thị trấn Mole để mua vui, Jon biết như vậy, nhưng cậu sẽ không làm ô danh Ygritte khi đánh đồng cô với đám gái điếm ở Mole. “Tôi đã phá vỡ lời thề vì người con gái ấy. Tôi thừa nhận điều đó. Đúng vậy.”
“Vâng, thưa ngài!” Khi Slynt quắc mắt, cằm ông ta run lên. Ông ta to lớn như Gấu Già, và chắc chắn khi bằng tuổi Mormont, ông ta cũng sẽ hói như thế. Một nửa mái tóc đã không còn, mặc dù có thể ông ta chỉ khoảng ngoài 40 tuổi.
“Vâng, thưa ngài,” Jon nói. “Tôi đi với dân du mục, ăn với họ, như Cụt Tay lệnh cho tôi, và tôi ngủ chung với Ygritte dưới lớp lông thú. Nhưng xin thề với ngài, tôi không bao giờ phản bội. Tôi chạy khỏi Magnar ngay khi có cơ hội, và tôi chưa bao giờ cầm vũ khí chống lại các anh em hay vương quốc này.”
Đôi mắt nhỏ ti hí của Lãnh chúa Slynt chăm chăm nhìn cậu. “Ser Glendon,” ông ra lệnh, “dẫn tên tù nhân kia đến.”
Ser Glendon là người đàn ông cao lớn đã kéo Jon ra khỏi giường. Bốn người khác đi theo ông ta ra ngoài, nhưng họ nhanh chóng quay lại với một tù nhân, một kẻ nhỏ người, tái xám, tay và chân bị xích. Mắt hắn một mí, lông mày lá liễu, và bộ ria mép trông giống như một vết bẩn trên môi, nhưng mặt hắn sưng vù, hằn lên bầm tím, và hầu hết hàm răng trước đều đã gãy.
Đám lính Trạm Đông thô bạo ném tên tù nhân xuống sàn. Lãnh chúa Slynt cau mày nhìn gã. “Đây có phải là kẻ ngươi nói đến không?”
Tên tù nhân chớp đôi mắt vàng ỏng. “Phải.” Lúc đó Jon mới nhận ra Giáp Xương. Không mặc áo giáp, trông hắn như một người hoàn toàn khác, cậu thầm nghĩ.
“Phải,” gã du mục lặp lại, “hắn là tên hèn nhát đã gϊếŧ Cụt Tay trên đỉnh Frostfangs, sau khi bọn ta rượt theo đám quạ người và gϊếŧ chúng, từng tên một. Lẽ ra bọn ta đã gϊếŧ tên này, nhưng vì hắn cầu xin mạng sống vô giá trị của hắn và đề nghị được đi theo bọn ta. Cụt Tay thề rằng ông ta muốn thấy tên hèn nhát này chết trước, nhưng con sói kia đã cắn nát người Qhorin và tên này rạch đứt cổ họng lão.” Sau đó, gã dành cho Jon nụ cười hở toàn răng gãy rồi nhổ máu xuống đất.
“Thế nào?” Janos Slynt cay nghiệt chất vấn Jon. “Ngươi có phủ nhận việc đó không? Hay ngươi sẽ nói Qhorin ra lệnh cho ngươi gϊếŧ ông ấy?”
“Ông ấy nói với tôi rằng…” Lời nói trở nên khó khăn. “Ông ấy bảo tôi làm mọi việc chúng cần nơi tôi.”
Slynt nhìn đám lính Trạm Đông trong phòng. “Chẳng lẽ thằng nhóc này tưởng ta vừa đổ cả xe củ cải lên đầu sao?”
“Lãnh chúa Snow, lời nói dối của ngươi sẽ không cứu được mạng ngươi đâu,” Ser Alliser Thorne cảnh báo. “Chúng ta muốn ngươi nói thật, đồ con hoang.”
“Tôi đã nói sự thật với các ngài. Lúc đó ngựa của chúng tôi bị ngã và quân của Rattleshirt bám riết ngay phía sau. Qhorin lệnh cho tôi giả vờ gia nhập đội quân du mục. Ông ấy nói, ‘Cậu không được phản đối bất cứ việc gì cậu được yêu cầu.’ Ông ấy biết bọn họ sẽ bắt tôi gϊếŧ ông ấy. Lúc đó Rattleshirt cũng muốn gϊếŧ ông ấy, ông ấy biết rõ như vậy.”
“Vậy là ngươi cho rằng Qhorin Cụt Tay vĩ đại sợ kẻ này sao?” Slynt nhìn Rattleshirt và khịt mũi.
“Ai cũng phải sợ Lãnh chúa Xương,” tên du mục càu nhàu. Ser Glendon đá hắn, và hắn im lặng trở lại.
“Tôi chưa bao giờ nói vậy,” Jon khẳng định.
Slynt đấm mạnh lên bàn. “Ta nghe ngươi nói đủ rồi! Có vẻ như Ser Alliser nói đúng về ngươi. Ngươi nói dối qua kẽ răng của một thằng con hoang. Nhưng ta sẽ không chịu đựng nó đâu. Chắn chắn không! Ngươi có thể lừa lão thợ rèn què quặt, nhưng không thể lừa Janos Slynt ta! Ồ, không đâu. Janos Slynt không dễ dàng nuốt trôi những lời dối trá. Ngươi nghĩ sọ ta nhồi cải bắp sao?”
“Tôi không biết sọ ngài nhồi thứ gì. Thưa lãnh chúa.”
“Lãnh chúa Snow chẳng là cái thá gì cả, hắn rất kiêu ngạo,” Ser Alliser nói. “Hắn gϊếŧ Qhorin, y như đám phản trắc của hắn đã gϊếŧ tướng chỉ huy Mormont. Ta không ngạc nhiên khi biết rằng cả hai việc này đều có chung cốt truyện. Có lẽ Benjen Stark cũng dự phần vào việc này. Như tất cả chúng ta đều biết, hiện ông ta đang ngồi trong lều của Mance Rayder. Thưa lãnh chúa, ngài hiểu quá rõ đám người Nhà Stark này.”
“Ta biết,” Janos Slynt nói. “Ta quá hiểu bọn họ.”
Jon lột găng tay ra và cho họ thấy bàn tay bị cháy của cậu. “Một bàn tay tôi bị thiêu rụi để bảo vệ tướng chỉ huy Mormont khỏi tên xác sống. Và chú tôi là một người có danh dự. Chú ấy không bao giờ phản bội lời thề.”
“Và ngươi cũng vậy phải không?” Ser Alliser chế nhạo.
Septon Cellador hắng giọng. “Thưa Lãnh chúa Slynt,” ông nói, “cậu nhóc này từ chối nói lời thề trong nhà thờ và đến tận Tường Thành để nói lời tuyên thệ trước cây đước thần. Cậu ta coi đó là các vị thần của cha mình, nhưng họ đều là các vị thần du mục.”
“Septon, đó là các vị thần của phương bắc.” Maester Aemon rất lịch sự, nhưng cương quyết. “Thưa các ngài, khi Donal Noye bị gϊếŧ, chính cậu nhóc Jon Snow này phải gánh trách nhiệm bảo vệ Tường Thành trước cơn giận dữ ào đến từ phương bắc. Cậu ấy đã chứng tỏ mình là một người dũng cảm, trung thành, và tháo vát. Lãnh chúa Slynt, nếu không có cậu ấy, thì khi đến đây, chắc chắn ngài đã gặp Mance Rayder. Ngài hiểu nhầm cậu ấy rồi. Jon Snow là cận vệ của tướng chỉ huy Mormont. Cậu ấy được chọn thực hiện nhiệm vụ đó bởi vì vị tướng chỉ huy thấy rõ triển vọng của cậu ấy. Cũng như tôi đã thấy.”
“Triển vọng ư?” Slynt nói. “Hừ, triển vọng có thể sai lầm. Tay hắn vấy máu của Qhorin Cụt Tay. Mormont tin tưởng hắn ta, ông vừa nói vậy, nhưng thế rồi sao? Ta biết cảm giác bị người mình tin tưởng phản bội là như thế nào. Ồ, phải. Và ta cũng hiểu rõ tính cách của sói.” Ông ta chỉ thẳng vào mặt Jon. “Cha ngươi đã chết vì tội danh phản bội.”
“Cha tôi bị gϊếŧ.” Jon không quan tâm đến những lời họ nói về cậu, nhưng cậu không thể chịu đựng thêm bất kỳ lời nói dối nào về cha.
Slynt mặt đỏ tía tai. “Bị gϊếŧ sao? Ngươi là đồ láo xược. Thậm chí vua Robert cũng lạnh nhạt khi Lãnh chúa Eddard chống lại con trai ngài ấy.” Ông ta đứng lên, trông thấp hơn Mormont, nhưng ngực và cánh tay săn chắc. Một cây giáo vàng với men đỏ ghim trên vai áo choàng của ông ta. “Cha ngươi chết dưới một thanh kiếm, nhưng đó là vì ông ta thuộc dòng dõi quý tộc và là quân sư của nhà vua. Còn với ngươi, thòng lọng sẽ hợp hơn đấy. Ser Alliser, tống tên phản bội này vào xà lim băng.”
“Lãnh chúa thật khôn ngoan.” Ser Alliser tóm tay Jon.
Jon giật mạnh và chộp cổ tên hiệp sĩ hung tợn, mạnh đến nỗi cậu nhấc bổng hắn lên khỏi sàn. Có lẽ cậu đã bóp nghẹt hắn nếu những người Trạm Đông không kéo cậu ra. Thorne lảo đảo ra sau, vuốt vuốt vết hằn do các ngón tay của Jon để lại trên cổ. “Các anh em, mọi người thấy rồi đây. Thằng nhóc là một tên du mục.”