Đào Một Hoàng Đế Làm Vợ

Chương 143: Phiên ngoại 3

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Chuyển ngữ: Andrew Pastel

“Đàm hoa nhất hiện, chỉ vị Vi Đà”

..như hoa quỳnh thoáng nở trong chớp mắt, chỉ để dành riêng cho Vi ĐàĐương kim Hoàng Thượng đích thân đi tuần ở Hoài Nam, trữ quân thái tử Túc Cảnh Mặc và Thái tử phi Lâm Thanh dĩ nhiên phải theo cùng, đi theo còn có Phương Dục Vương Túc Cảnh Nghiên.

Vào mùa hè, Sở Châu khác với Trung Đô, trời khô hanh và mưa nhiều. Gió lạnh ban đêm khiến thái tử phi bị nhiễm phong hàn, mấy ngày cũng chưa khỏi.

“Thái y nói thái tử phi tư hương ưu sầu, nên nhiễm phong hàn mãi mới không khỏi.”

Nhàn nhã thưởng thức trà búp Minh Tiền Long Tĩnh tiến cống từ nam Chiết Giang, Túc Cảnh Mặc cười nói: “Chỉ sợ tư hương là giả, tương tư mới là thật.”

(*) Tư hương: nhớ nhà / tương tư: nhớ bồ

Chuyến đi này có Túc Cảnh Nghiên, từ lúc thành thân đến nay đã hơn một năm Lâm Thanh không gặp lại, giờ phút này người luôn tâm niệm trong lòng ở ngay trước mắt, mà hơn một tháng không thể nói chuyện được với nhau câu nào, làm sao không tương tư? Hơn nữa, chỉ vài ngày nữa là về lại Trung Đô rồi, Lâm Thanh muốn gặp Túc Cảnh Nghiên còn gian nan hơn nữa, sao nàng không lo đến phát ốm lên?

Đặt chén trà nhỏ xuống, Túc Cảnh Mặc cong cong đôi mắt: “Thành Hòa.”

“Có thần!”

“Xứ Sở Châu này có nơi nào thưởng phong nguyệt không?”

“À...... Ừm...... Thuộc hạ nghe nói gần đây có lầu xanh Phượng Lai Lâu, có cô nương nhìn tuyệt mĩ......”

Nghe nói, Túc Cảnh Mặc sửng sốt, một lát sau mới bật cười to︰”Ý ta là nơi nào thanh tịnh để thưởng hoa thưởng nguyệt, là

‘phong nguyệt’ theo nghĩa đen.”

“Thuộc hạ đáng chết!”

“Mà thôi.” Túc Cảnh Mặc nhìn thị vệ quỳ rạp trên mặt đất, lắc lắc đầu, đúng là mọi ngày y hơi phóng túng quá, thường hay lui đến mấy nơi khói hoa này, nên thị vệ hiểu lầm cũng là điều dễ hiểu.

Thấy chủ tử không trách tội, Thành Hòa mới hít sâu một hơi, nói: “Có Đàm Hoa tự ạ, tuy là chùa nhưng nó là một nơi an tĩnh rất tốt để thưởng phong nguyệt.”

“Đàm Hoa tự?”

“Đúng vậy, thuộc hạ ở bắc Chiết Giang, tuy không phải người Sở Châu, nhưng vẫn nghe danh Đàm Hoa Tự, ngôi chùa này được xây trên một ngọn núi trồng đầy hoa quỳnh, nghe nói trăm năm trước, ngọn núi hoa quỳnh này xuất hiện một luồng Phật quang, nên người Sở Châu đã góp tiền xây một ngôi chùa, lấy tên là Đàm Hoa Tự.”

(đàm hoa là hoa quỳnh)

“Vậy thì đi xem thôi.”

“Vâng! Còn Thái tử phi......”

“Để nàng ở lại nghỉ ngơi. Nếu Hoàng Thượng hỏi, hãy nói ta thân thể không tốt, mấy ngày nữa sẽ không ra ngoài đi dạo.” Túc Cảnh Mặc đứng lên ra khỏi phòng, “Chuẩn bị ngựa!”

Chỉ dẫn theo một thị vệ biết đường, Túc Cảnh Mặc cưỡi ngựa đi đến Đàm Hoa Tự.

Tuy Đàm Hoa Tự ở ngoại ô Sở Châu và Túc Cảnh Mặc khởi hành muộn, nhưng đến nơi mặt trời cũng chưa lặn hết về phía tây. Cũng may hôm nay trời không mưa, đường không lầy lội, nên ngựa phi nước đại thuận lợi, mới có thể đến kịp trước khi trời tối.

Đàm Hoa Tự nằm ở nơi cao nhất trên ngọn núi. Ngôi chùa không quá lớn và ẩn mình giữa những tán cây xanh, nhưng có rất nhiều người đi vào thắp nhang và lắng nghe kinh phật. Trời đã gần chạng vạng, khách hành hương đều tranh thủ mặt trời chưa lặn hết mà nối đuôi nhau xuống núi. Lúc này trong chùa rất vắng, hương khói phiêu đãng, không khí yên tĩnh và trang nghiêm.

Sau khi vào đại điện thắp hương cho Phật tổ, cúng vườn rất nhiều, Túc Cảnh Mặc chắp hai bàn tay, quay sang vị tiểu hòa thượng bên cạnh, hỏi: “Tiểu sư phụ, ta và chủ bộc đến nơi đây, nghĩ muốn tá túc lại một đêm trong chùa, không biết có được không?”

Tiểu hòa thượng thấy nam tử trước mặt tuấn lãng bất phàm, ăn mặc rất sang trọng, trả lời: “Nếu thí chủ không còn nơi nào để đi, thì vẫn còn một vài sương phòng trong hậu viện để khách hành hương lễ phật nghỉ tạm, nhưng mà sương phòng của tự miếu sơ sài, cơm nước đơn giản, không biết thí chủ có quen không.”

“Có thể tá túc đã là chuyện may mắn, sao có thể để ý cho được.”

“Vậy để tiểu tăng đi bẩm báo trụ trì, thí chủ chờ một chút.”

“Đa tạ tiểu sư phụ.”

Sảnh trước của Đàm Hoa Tự không lớn, nhưng sân sau khá rộng. Tường viện màu vàng, điện thờ xanh xám, có thể bắt gặp những cây hoa quỳnh được chăm sóc rất tốt ở khắp mọi nơi.

Xuyên qua hành lang gấp khúc ở giữa sân mới đến sương phòng, vị tiểu hòa thượng sắp xếp đem lên một phần cơm chay rồi mới rời khỏi.

Một bàn, một ghế và một giường, đơn giản và rộng rãi, tốt hơn nhiều khi trên chiến trường. Sau khi ăn một ít món chay và yêu cầu thị vệ bên ngoài tìm một ít nước nóng để rửa mặt rửa tay, Túc Cảnh Mặc mở cửa sổ phía sau sương phòng, nhìn hậu viện của ngôi chùa.

Hậu viện chỉ có một gian phòng thờ nhỏ và cũ, còn lại đều là những bụi hoa quỳnh.

Nhưng Túc Cảnh Mặc, vốn muốn chờ hoa nở, thì một cơn mưa lớn kéo dài đổ xuống, rơi ào ào trên những mái hiên, gió lùa thổi mạnh.

Y lắc đầu cười khẽ, “Có vẻ như hoa quỳnh sẽ không nở đêm nay.”

Đang định đóng cửa sổ, chợt Túc Cảnh Mặc nghe thấy tiếng ho nhẹ từ phòng bên.

“Khụ, mặc dù mưa to, nhưng hoa quỳnh vẫn luôn nở. Hoa quỳnh luôn nở rộ ở hậu viện này, chỉ dành cho những người chịu chờ đợi.”

Mưa quá to, âm thanh phát ra từ cửa bên cạnh rất khó nghe. Cửa sổ chặn tầm mắt, y cũng không thể nhìn thấy đó là ai, chỉ mơ hồ đoán những gì người đó nói.

Hóa ra phòng bên cạnh cũng có một người chờ ngắm hoa quỳnh nở?

Nghĩ đến đây, khóe môi Túc Cảnh Mặc cong lên, y cao giọng: “Có vẻ như huynh đài phải nhất định đợi hoa nở tối nay.”

“Hoa quỳnh và Đàm Hoa Tự có liên quan đến Đức Phật. Ta đi du học ngang qua đây nghĩ muốn ghé xem.”

“Ồ? Ý huynh đài là việc phật quang xuất hiện ở ngọn núi này một trăm năm trước?”

“Không phải.”

Nghe hai từ này, Túc Cảnh Mặc hiếu kỳ hỏi: “Vậy thì vì sao?”

“Ngươi có biết vì sao hoa quỳnh còn có tên là hoa Vi Đà không?”

Túc Cảnh Mặc lắc lắc đầu, “Không biết.”

“Truyền thuyết rằng, hoa quỳnh nguyên là một vị hoa thần, mỗi ngày nàng đều khai hoa, bốn mùa nàng đều rực rỡ. Một năm nọ có một người thanh niên đến ngọn núi nơi nàng ở, người thanh niên yêu thích hoa cỏ,

mỗi ngày luôn tưới nước, làm cỏ chăm sóc cho nàng. Dần dà nàng bắt đầu nảy sinh tình cảm với người thanh niên ấy, biến thành hình người để được ở bên cạnh nhau. Sau này Ngọc đế biết được, bắt hoa thần về, biếm nàng thành hoa quỳnh hàng năm chỉ có thể nở trong nháy mắt, còn đem người thanh niên nọ đến núi Linh Thứu xuất gia, tứ danh Vi Đà, khiến hắn quên mất đi tiền trần, chú tâm tập phật, dần có điều thành. Mà hoa thần dù có thế nào cũng không quên được hắn. Nàng biết hằng năm cứ mỗi cuối xuân đầu hạ, Vi Đà sẽ xuống núi lấy tiên trà sương mai cho Phật tổ. Cho nên nàng lấy hết tinh khí đã tích tụ suốt một năm, nở trong nháy mắt đó, nàng hy vọng vi đà có thể quay đầu liếc nhìn nàng một cái, có thể nhớ ra nàng…”

“Sau này thì sao? Có nhớ ra không?” Túc Cảnh Mặc không nghe bên kia nói nữa, liền cất tiếng hỏi.

“Không. Trăm ngàn năm trôi qua, Vi Đà mỗi năm xuống núi lấy sương mai, hoa quỳnh mỗi năm cũng lặng lẽ nở rộ, nhưng Vi Đà vẫn không hề nhớ ra nàng. Sau này nơi hoa quỳnh nở mọc lên một ngôi miếu nhỏ. Một hòa thượng trong ngôi miếu có thể thấy được nàng, hỏi vì sao nàng lại ưu thương. Nàng chỉ lắc đầu không nói. Mỗi mười năm hòa thượng sẽ đến hỏi nàng như thế, nàng vẫn lắc đầu không nói. Đến tám mươi năm sau, khi hòa thượng đã gần đất xa trời, nàng mới kể cho hòa thượng nghe mối nhân duyên này. Nghe xong lão nhân nhắm mắt ngồi xuống, thời gian dần qua đi, tịch dương hạ xuống. Lão nhân cười nói: “Đàm hoa một hiện chỉ vị Vi Đà. (Hoa quỳnh thoáng nở chỉ cho riêng Vi Đà).

Tình duyên này nào đâu có lỗi? Thiên phạt địa tru ta chịu, trời xanh không mắt ta sẽ đến mở ra.” Nói xong lão nhân viên tịch, dẫn hoa thần đến Phật quốc. Hoa thần gặp lại Vi Đà ở Phật quốc, Vi Đà cuối cùng cũng nhớ ra nhân duyên kiếp trước. Phật Tổ biết chuyện, cho Vi Đà hạ phàm kết thúc đoạn nhân duyên còn dang dở.”

“Đàm hoa một hiện chỉ vị Vi Đà. Tình duyên này nào đâu có lỗi? Thiên phạt địa tru ta chịu, trời xanh không mắt ta sẽ đến mở ra.” Túc Cảnh Mặc đọc lại câu kể này, cười nói: “Nhưng mà vì sao một phàm nhân có thể nhìn thấy hoa thần, mà cái vị Vi Đà tu thành công đức này lại không nhìn thấy? Có lẽ là vì trong tâm của hắn đã chẳng muốn thấy.”

Túc Cảnh Mặc nói xong, không nghe nam nhân phòng bên nói gì nữa. Đợi một lúc lâu, mới vang lên một tiếng cười.

“Ha ha ha, huynh đài cao kiến, tiểu sinh hoàn chưa từng nghĩ đến điều này. Nghe ngươi nói ta lại cảm thấy thật có lý.”

Túc Cảnh Mặc nghe được sự đau thương lẫn trong tiếng cười, y không nói gì, nam nhân cách một bức tường cũng không để ý nữa.

Chỉ nghe nam nhân như tự lẩm bẩm, thở dài: “Đúng rồi, sao hắn lại không nhận ra được, có lẽ hắn chỉ giả vờ không nhìn thấy đôi mắt si tình đó.. mà thôi......”

Lời oai oán trong đêm hè lạnh lẽo này ngấm vào tim Túc Cảnh Mặc, làm y khẽ cau mày, siết chặt tay trong vô thức.

Không biết vì sao, trong lòng lại cảm thấy phiền muộn.

Nhìn những giọt mưa nhỏ giọt xuống từ mái hiên, Túc Cảnh Mặc gõ ngón tay lên mép cửa sổ, “Hóa ra huynh đài cũng là một kẻ si tình.”

“Ta chưa từng kể với ai về mối tình đó.”

“Ngươi nói Đàm Hoa tự này có duyên với Phật, ý bảo ngôi chùa này chính là cái miếu nhỏ trong truyền thuyết phải không? Nhưng ta nghe nói chùa này chỉ mới xây một trăm năm đổ lại thôi.”

“Đúng là chỉ xây khoảng trăm năm, nhưng truyền thuyết này ta nghe được ở phía tây có nhắc đến nơi hoa quỳnh nở là ở phía đông Hoài Nam, ta tìm theo truyền thuyết thì nơi này là có khả năng nhất. Hơn nữa gian phòng thờ nhỏ ở hậu viện kia, ta đã hỏi qua sử quan Sở Châu, hắn nói miếu nhỏ đó từ lúc xây chùa đã có, nhưng không biết chính xác nó có tự bao giờ.”

“Cố tình đến ngôi chùa có duyên với Phật này, ắt cũng có mong muốn. Không biết mong muốn của huynh đài đây là gì.”

“...... Ta muốn gặp một người......”

“...... Ai?”

“Một người, ta rất yêu.”

Đêm đã khuya, rõ ràng cả mặt cũng không nhìn thấy, tên cũng chưa hỏi, cách nhau một bức tường nhưng cả hai cũng hàn thuyên thật lâu.

“Hoa nở rồi!”

Thẳng đến bên cạnh vang lên tiếng gọi, Túc Cảnh Mặc mới phát hiện những bông hoa quỳnh đã lặng lẽ nở. Cánh hoa trắng muốt, đẫm những hạt mưa, kiều mĩ vô cùng.

“Đêm khuya mộng quay về, dưới ánh trăng mỹ nhân hiện, hoa quỳnh này vừa thê lương vừa tuyệt diễm.” Túc Cảnh Mặc trêu ghẹo: “Hoa quỳnh nở trong mưa rất khó thấy, xem ra huynh đài có thể gặp người huynh muốn thấy rồi.”

“Ha ha, có lẽ là không đâu.”

“Hửm? sao thế?”

“Ta cầu mong hắn vui vẻ an yên hơn là có thể gặp nhau.”

Mưa nhỏ dần, giọng nói phòng bên càng rõ ràng, Túc Cảnh Mặc cảm thấy có hơi quen tai, nhưng không rõ đã từng nghe được ở đâu.

Trong tiềm thức, Túc Cảnh Mặc muốn gặp người ở bên kia bức tường, nhưng ngay khi ý nghĩ này xuất hiện, y mỉm cười lắc đầu. Đêm hôm khuya khoắt lấy lý do gì để gặp đây?

“Đêm đã khuya rồi, cũng đã ngắm xong hoa quỳnh, sớm đi nghỉ đi.”

Giọng nói vang đến, Túc Cảnh Mặc cười: “Được.”

Chờ ngày mai đi, ngày mai sẽ đi gặp xem vị nam nhân si tình ban đêm chờ hoa quỳnh nở này trông như thế nào.

Nhưng đến bình minh, sương phòng bên cạnh chẳng còn ai. Học giả đang đi du học kia đã rời đi khi trời còn chưa hừng sáng.

“Vị thí chủ kia nhờ ta gửi phong thư này cho ngươi.”

Túc Cảnh Mặc nhận phong thư, trong thư viết: “Đi mà không từ giã, chỉ do con đường du học không thể chậm trễ. Nhớ tới truyền thuyết đêm qua ta kể, khi phàm nhân tịch viên, hắn còn nói với với thần một câu: “Duyên khởi duyên diệt duyên chung tẫn, hoa khai hoa lạc hoa quy trần”

Chỉ là không hiểu vì sao tiểu sinh không muốn nói cho ngươi câu đó. Có lẽ do giọng nói của ngươi giống với người nọ, làm tiểu sinh hoảng hốt, cũng khiến tiểu sinh xót xa. Tiểu sinh thật áy náy. Nguyện ngươi hỉ nhạc an khang.”

Túc Cảnh Mặc đặt phong thư không có tên người gửi lên bàn, nhắm mắt, y nhớ đêm qua hắn nói muốn gặp một người. Y nhớ kỹ giọng nói quen thuộc đó.

“Thành Hòa, trở về thành.”

“Tuân lệnh!”

Đàm hoa nhất hiện, chỉ vị Vi Đà......



Thấy người trong vòng tay tỉnh dậy và chăm chú nhìn mình, Đàm Trình

mỉm cười, hôn lên môi y, “Sao thế?”

“Không có gì, chỉ đột nhiên nhớ ra một chuyên cũ.”

“Vẫn còn sớm, còn ngủ nữa không?”

Túc Cảnh mặc cong đôi mắt đầy ý cười, nâng tay ôm cổ Đàm Trình: “Ngươi lúc nào cũng dậy sớm hơn ta.”



Vừa buồn vừa dễ thương…. Này là cái phiên ngoại t thích nhất trong 5 cái…