Dưới ánh sáng ảm đạm của ngọn đèn trước và sau cái kiệu, Ambrose đám người bất đắc dĩ có thể thấy mình đang ở trong một cái hang tự nhiên; tường và trần hang đều nổi bướu là những hàng thạch nhũ, xoắn lại và tạo thành hàng ngàn những hình thù quái dị. Sàn hang lát đá dốc xuống trong lúc họ đi tiếp.
Lúc này, Ambrose mới có cơ hội bình tĩnh suy nghĩ về cái Vương quốc Dưới lòng đất này. Trong lòng cậu có một nghi ngờ từ rất lâu rồi, về vùng đất cực bắc bí ẩn này. Còn cả một quốc gia dưới lòng đất nữa, Ambrose chưa bao giờ nghe về nó cả… Rất nhiều dấu hỏi chấm lắc lư trong đầu Ambrose.
Ambrose đoàn người đi hết từ hang động này tới hang động khác, đây là một hệ thống hang hốc còn phức tạp hơn những gì cậu nghĩ, nếu không phải gặp được đội tuần tra biên giới này, Ambrose nghĩ mình phải mất hàng chục ngày để tìm được đường đi mất.
Cả đám đi thêm một vài dặm nữa, đến một bức tường đá, trên đó có trổ một cái cửa thấp dẫn đến một cái hang khác.
Bước qua cánh cửa, họ tiến vào một cái hang rộng rãi, cao hàng chục mét, rộng cả trăm mét như trong giáo đường của một nhà thờ vĩ đại. Và còn kinh dị hơn nữa…
Chiếm gần hết chiều dài của cái hang là một người đàn ông to lớn đang say ngủ. Người này còn to lớn hơn bất cứ người khổng lồ nào, nhưng khuôn mặt không giống với người khổng lồ - một gương mặt với những đường nét đẹp đẽ, thanh thoát toát lên một vẻ cao quý.
Bộ ngực ông ta nâng lên hạ xuống nhịp nhàng theo nhịp thở, trên đó là một bộ râu trắng như tuyết buông dài đến tận thắt lưng.
Một làn ánh sáng bạc, thanh khiết như những thứ đẹp đẽ nhất trên đời - không ai biết là phát ra từ đâu - tỏa xuống toàn bộ người ông, giống như ông ta là một món đồ trưng bày quý hiếm trong một bảo tàng hoặc một triển lãm nào đó.
Jill hai mắt mở to, nhìn cái người khổng lồ siêu khổng lồ này lên tiếng:
“Đây là…”
Đang lững thững đi bên dưới, Lông vịt hai người ánh mắt kinh hãi không kém, một người siêu khổng lồ, và đặc biệt là lão ta còn sống…
Ambrose ngồi bên cạnh thì khuôn mặt nghiêm trọng, cảnh giác hẳn lên, cả người luôn trong từ thế sẵn sàng chiến đấu, cậu vừa nhìn thấy tên này thì đã cảm nhận được một cảm giác nguy hiểm ập vào mặt.
Ambrose không rời mắt và lạnh nhạt hỏi tên chỉ huy phía dưới:
“Hắn là ai?”
“Đó là cha Thời gian già nua (The Old Father Time), tương truyền là người đã có thời làm vua trên mặt đất.” Đội trưởng đáp với một giọng vô hồn.
“Bây giờ ông ta bị chìm xuống Vương quốc Dưới Lòng Đất và nằm ở đây mơ màng về tất cả những việc mình đã làm ở thế gian trên kia.”
Đội trưởng vô ý thức chỉ tay lên trần hang nói tiếp:
“Nhiều người rơi xuống mà ít người nổi lên mảnh đất có ánh sáng mặt trời. Người ta nói cha Thời gian già nua (The Old Father Time) sẽ thức tỉnh vào ngày thế giới bị hủy diệt.”
“Vào ngày thế giới hủy diệt.” Ambrose giật mình thầm nghĩ. Trong tích tắc, Ambrose không khỏi tự hỏi lão khổng lồ này có liên quan gì tới cây thế giới Táo vàng, tới Alan, thậm chí tới cha của cậu.
Nhưng đúng lúc đó, một giọng nói cực kì già nua vang lên trong đầu Ambrose, nó như trực tiếp chuyển vào não của cậu chứ không phải qua phản ứng rung của màng nhĩ.
Mà cái nội dung khiến cậu khϊếp sợ không kém:
“Chàng thanh niên, Erebos là gì của ngươi…”
Chuyện này!!! Ambrose hai mắt thận trọng hẳn đi, cậu liếc nhìn quanh thấy quả thực chỉ có một mình cậu nghe được, bèn trả lời:
“Ông biết Erebos?”
“Phải. Ta với lão già đó là người quen, trên người ngươi có một mùi vị quen thuộc, ồ… lại là cảm giác này nữa, ngươi thật kì lạ.” Giọng siêu già nua trả lời.
Ambrose giờ có thể khẳng định lão khổng lồ trước mặt thế là một vị Elder ở thế giới thực rồi, nghe cái giọng điệu này, và cái cảm giác áp lực Ambrose đang cảm nhận. Lão ta thế nào cấp bậc cũng rất cao, ngang hàng với vị Elder tổ tiên bóng tối của nhà Karling, một trong mười vị Great Elder Tối cao gì đó.
“Ngài tại sao lại ở đây?” Ambrose trầm ngâm một lúc mới lên tiếng hỏi.
“Đây là một câu chuyện dài… Ta không muốn nhắc lại, nhưng nhóc con. Ta lại càng hiếu kì hơn tại sao nhóc lại có mặt ở đây?”
Bỗng nhiên, Ambrose cảm thấy mình bị một đôi mặt vẩn đυ.c chăm chú nhìn vào, cả người lông tóc dựng không tự chủ ngược lên. Cậu không nói gì mà cho tay vào túi lấy ra chiếc đồng hồ kim cương mà cha cậu - ngài Philip Karling đưa cho.
Đôi mắt liền biến mất, áp lực như núi đổ cũng không thấy đâu, thay vào đó là một tràng cười kinh thiên động địa.
“Ha Ha Ha…”
Đám binh sĩ bị Ambrose khống chế bỗng tỉnh lại, bọn chúng khuôn mặt đứa nào đứa ấy đều tái mép, liền quỳ xuống cúi lạy về phía người khổng lồ râu bạc đang ngủ ở kia:
“Ôi không… The Old Father Time, xin ngài… xin ngài…”
“Không… ngài ấy tỉnh lại, không lẽ tận thế đến rồi…”
“Tận thế… tôi không muốn chết… ôi đức mẹ, ôi nữ hoàng, ôi thánh thần… xin người cứu rỗi chúng con…”
…
Không để ý đám binh lính quỳ lạy, tiếng cười vẫn vàng vọng, mặt đất run lên ầm ầm, vách đã rung chuyển, từng tiếng nứt gãy canh cách vang lên bên trong. Trên trần hàng thì từng lớp bụi, đã vụn ào ào trút xuống.
Cả hàng động lung lay sắp đổ sụp, mà nằm trong đó, Ambrose đoàn người hiển nhiên sẽ bị chôn sống nếu nó đổ thật.
Cho dù cả Ambrose cũng vậy, ngay khi cậu rơi xuống cái Vương quốc Dưới lòng đất này, cậu đã cảm nhận được một luồng áp lực vô hình, ngăn cản cậu dùng những phương pháp ăn gian để dịch chuyển, như phép độn thổ, hay khóa cảng hoàn toàn không sử dụng được.
Nếu giờ mà trần sụp, hàng trăm, hàng nghìn tấn đất đá phía trên sẽ ụp xuống, Ambrose không chết ngay nhưng có thể chết đói chết khát khi không tìm được đường lên mặt đất.
Tiếng cười chưa dừng lại, nhưng trong đầu Ambrose vang vang câu nói:
“Tốt lắm, xem như hắn giữ đúng lời hứa. Chàng trai, đây là món quà của ta dành cho cậu. Mong rằng chúng ta sẽ sớm chính thức gặp mặt.”
Giọng nói kết thúc, cũng là lúc tiếng cười chấm dứt, vạn vật xung quanh trở lại bình thường nguyên trạng. Đám quân lính run rẩy lại càng quỳ xuống, dập đầu hướng người khổng lồ cảm tạ rối rít.
Trong khi đó, Ambrose cảm thấy không ổn một chút nào.
Vừa rồi, một vầng sáng không biết từ đâu bay vô trong đầu cậu, không, nói chính xác hơn là một đám kí ức - Kí ức của vị cha Thời gian già nua (The Old Father Time).
Mất tới năm phút Ambrose mới có thể từ từ tiếp thu đống trí nhớ này, đó là một loại phép thuật vô cùng quyền năng. Đây là thứ cha cậu muốn cậu có.
Mười phút sau đó, Ambrose ra lệnh:
“Tiếp tục lên đường.”
Đám quân lính bên ngoài dù đã tỉnh táo lại, nhưng chúng vẫn có ký ức rõ mồn một về mọi chuyển xảy ra, hiển nhiên bọn chúng bị vị đại nhân vật trong kiệu kia không chế.
Và người có sức mạnh như vậy có điên mà chúng dám chống lại, chuyện này thôi để cho nữ hoàng quyết định - cả đám đều nghĩ như nhau rồi tiếp tục đóng vai người hầu cho Ambrose.
Ra khỏi cái hang này họ lại đến một cái hang khác, rồi lại một cái hang khác và hang khác nữa cho đến khi không thể nhớ được bao nhiêu cái hang nữa. Có một điều chắc chắn là Ambrose đám người bao giờ cũng đi xuống dốc, mỗi cái hang lại thấp hơn cái hang trước.
Cuối cùng, đoàn người cũng đến một nơi mà người đội trưởng ra lệnh đốt cái đèn l*иg soi đường. Đó là một cái hang rộng và tối đến mức họ không nhìn thấy gì trừ cái vật ngay trước mũi họ, không gian như bị phù phép để cách li hoàn toàn với ánh sáng tự nhiên từ bên ngoài.
“Đây hoàn toàn là một không gian khác.”
Ambrose trong lòng chấn động nghĩ, giống như các Vương quốc Bóng tối, cái hang này có thể nói nằm trong một thế giới không gian riêng biệt.
Hai mắt nheo lại, đánh giá bốn phía, cậu thấy trần hàng cao vυ't, mờ mịt bởi phép thuật khá giống loại phép yếm lên trần Đại sảnh đường trong Hogwarts.
Phía xa xa là một dải cát nhàn nhạt chạy xuống sát mặt nước phẳng lặng - Một đại dương dưới lòng đất.
Tại đây bên cạnh một cái cầu tàu nhỏ có một con tàu không có cột buồm hoặc cánh buồn nhưng lại có rất nhiều mái chèo. Rõ ràng dưới mặt đất không có gió rồi, ở đây chỉ sử dụng sức người làm động cơ chèo thuyền mà thôi.
Đoàn người đi tiếp lên boong tàu rồi đi về mũi tàu nơi có chừa một khoảng trống phía trước băng ghế cho những người ngồi chèo và một cái ghế xoay gắn vào phía trong thành tàu.
Tới đây, vị đội trưởng cung kính khom người về phía Ambrose nói:
“Quý ngài, chúng ta sẽ dùng thuyền di chuyển tới Lâu đài Đen, hoàng cung của Vương quốc dưới lòng đất. Nữ hoàng sẽ đón tiếp ngài trong cung điện của ngài, một bữa tiệc đang được chuẩn bị tổ chức.”
“Các ngươi cứ làm việc của mình đi.”
“Vâng.”