Nói đến đây, Bảo Khâm đã hiểu rõ ý của Tần Liệt, bèn hỏi: “Chàng muốn đến nước Yên để thăm dò manh mối về đại bác Tịnh Viễn sao?” Nói rồi nàng nhíu mày, mím môi thủ thỉ: “Thϊếp cũng định nói với chàng chuyện này.” Nàng ngẩng đầu lên nhìn Tần Liệt, trong mắt có chút lo lắng. Không phải ai khác, mà chính là vì nhị sư huynh của nàng, Lâm Túc.
So với đại sư huynh Lương Khinh Ngôn, quan hệ của Bảo Khâm với nhị sư huynh Lâm Túc không thân thiết cho lắm. Lâm Túc tính tình già dặn khôn khéo, làm việc hay nói chuyện đều vô cùng nghiêm túc, rất tương xứng với cái tên của hắn. Cũng vì thế, trước giờ nàng có chút sợ hắn. Nhưng ngẫm kĩ lại, hắn nghiêm khắc với người khác, lại đối xử rất tốt với Bảo Khâm. Khi đó Bảo Khâm không chịu nổi việc ở lại trên núi, thường khóc lóc đòi về nhà, lần nào xuống núi hắn cũng mang cho nàng bao nhiêu thứ đồ chơi thú vị về dỗ dành, hai người thân thiết như huynh muội ruột thịt.
Từ khi xảy ra chuyện đại bác Tịnh Viễn, Bảo Khâm thường hay nghĩ đến Lâm Túc. Tuy hôm đó nàng đã nói chắc chắn hắn và chuyện đại bác không liên quan đến nhau, nhưng vẫn canh cánh trong lòng. Lâm Túc tuyệt dối không phải người hám danh lợi, toàn bộ tâm trí đều dành cho sách vở, tuy ít nói nhưng rất hiền từ, tuyệt sẽ không nghiên cứu loại vũ khí chết người đó cho quân Yên. Nếu đúng là do hắn làm, có lẽ chỉ vì bất đắc dĩ mà thôi.
Bảo Khâm nói hết suy nghĩ trong lòng cho Tần Liệt nghe rồi lại bảo: “Hôm qua thϊếp viết thư cho sư phụ, hỏi người có biết nhị sư huynh đi đâu không, nhưng vẫn chưa nhận được tin hồi âm. Nhị sư huynh xuống núi đã nhiều năm, lại luôn bặt vô âm tín, ngay cả đại sư huynh cũng không biết. Thϊếp chỉ lo huynh ấy bị quân Yên giam cầm trên hòn đảo kia, ngày ngày làm những chuyện mình không muốn.”
Tần Liệt đã dự định đến nước Yên do thám tình hình, giờ nghe nàng nói như vậy càng hạ quyết tâm: “Thế cũng tốt, đến lúc đó cứu nhị sư huynh của nàng ra, rồi phóng hỏa thiêu rụi cả hòn đảo, ngăn không cho chúng làm ra thứ khiến thế gian bất ổn nữa.”
Sau ngày chứng kiến uy lực của đại bác, Tần Liệt vẫn luôn bất an. Cứ cho là lần này tránh được một kiếp, nhưng ngày nào hòn đảo đó vẫn còn, chúng sẽ không ngừng chế tạo những khẩu đại bác khác, quân Tần đâu phải lần nào cũng gặp may được. Nếu thật sự để quân Yên giành ưu thế, chỉ lo đến lúc đó hai nước Tần – Trịnh sẽ rơi vào cảnh lầm than.
Hai người bàn bạc xong liền định ngày đến nước Yên.
Do chiến sự đã chấm dứt, Tần Tu dẫn quân về Kinh, Tần Liệt tạm thời giao đại quân cho hắn rồi dẫn theo Bảo Khâm, Ngũ Cân và một số thị vệ tâm phúc lên đường đến nước Yên.
Trước khi đi mọi việc đã được chuẩn bị chu đáo, Tần Liệt cải trang thành một thương nhân bán hàng da, Bảo Khâm là vợ mới cưới của hắn, hai người cùng nhau ra ngoài thăm dò thị trường.
Bảo Khâm nghe theo sự sắp xếp như vậy, lúc đầu chỉ cảm thấy quen quen, nhưng sau khi lên xe ngựa, nàng càng nghĩ càng thấy có gì không đúng lắm, cuối cùng vỗ mạnh tay lên trán. Lần đầu họ gặp nhau, Tần Liệt chẳng phải cũng cải tranh thành thương nhân bán hàng da hay sao? Nàng còn ngốc nghếch không nhận ra! Tức hơn là Tần Liệt chỉ nhìn một cái đã phát hiện ra nàng là nữ giả nam.
Đây là khoảng thời gian đẹp nhất trong năm, hoa thắm liễu xanh, cỏ non mơn mởn, cảnh vật nước Yên đẹp như tranh vẽ.
Bảo Khâm nằm trong lòng Tần Liệt, thỉnh thoảng đưa tay ra ôm lấy hắn, rồi lại kéo tóc hắn tết bím tóc, hoặc nghịch ngợm từng ngón tay của hắn, thỉnh thoảng lại ôm sáp vào mặt hắn rồi hôn một cái… thoải mái tự do, ngọt ngào đến mức khiến người ta không muốn lên tiếng.
Đây là khoảng thời gian vui vẻ và tự tại nhất từ khi họ quen nhau, không có chiến tranh, không có toan tính, cũng không có lo lắng, tất cả chỉ có vui vẻ và bình yên.
Quân Yên chế tạo đại bác cũng không dễ dàng gì, nếu không lần đó đã chẳng mang ra chiến trường có bốn khẩu. Bởi vậy Tần Liệt không cần vội vàng, xe ngựa đi rất chậm rãi, thường xuyên dừng lại ngắm cảnh, nghe nói nơi nào có đặc sản nổi tiếng là nhất định phải dừng lại thưởng thức.
Cứ đi rồi lại dừng, cuối cùng họ cũng đến được thành Ngân Dương phía Đông nước Yên.
Bảo Khâm và Tần Liệt ngồi trên xe ngựa thì không sao, nhưng Ngũ Cân và những người khác cưỡi ngựa cả ngày, đi lâu đến mức cơ thể sắp không chịu nổi, thế nên hắn mới bảo dừng lại, tạm thời dừng chân ở thành Ngân Dương hai ngày. Một là để mọi người nghỉ ngơi cho khỏe, hai là nghe nói trong thành có một nơi gọi là chùa Tây Bình, tuy không lớn nhưng rất nổi tiếng, cầu thần khấn phật rất linh nghiệm. Tần Liệt muốn đưa Bảo Khâm đi cầu bình an.
Không muốn khoa trương nên họ tìm một nhà trọ ở nơi không mấy náo nhiệt phía Đông thành. Nghĩ đến vấn đề an toàn nên Ngũ Cân đã bao trọn một tiểu viện rồi để cả xe ngựa trong đó.
Vào đúng dịp Tết hoa[1], trong thành vô cùng náo nhiệt, hầu hết nhà trọ đều chật kín khách, cũng may họ đến sớm, vừa vặn một đội khách buôn mới trả tiền phòng nên dễ dàng bao trọn cả tiểu viện. Tiểu nhị thấy họ tiêu xài hào phóng nên rất nhiệt tình, nước nóng cũng mang tới mấy lần liền, giới thiệu cho họ rất nhiều điểm thú vị trong thành và được Ngũ Cân thưởng không ít bạc.
[1] Tết hoa: Ngày 15/2 âm lịch.
Ăn tối xong, Tần Liệt bèn kéo Bảo Khâm đi dạo trong vườn cho tiêu cơm, vừa đi vừa nói chuyện. Ông chủ bên ngoài mặt phiền não chạy vào, nhưng không dám nói chuyện với Tần Liệt, chỉ lặng lẽ kéo Ngũ Cân sang một bên để thương lượng, một lúc sau bất đắc dĩ rời đi.
“Có chuyện gì thế?” Tần Liệt chau mày hỏi.
“Nhà trọ kín phòng rồi, bên ngoài lại có vài vị khách nữa đến, ông chủ thấy chỗ chúng ta trống nên thương lượng để cho họ hai phòng. Nhưng thuộc hạ không đồng ý.” Ngũ Cân vội đáp. Họ bao cả khu này cùng là muốn an toàn, sao có thể để người lạ vào được.
Đây chỉ là một chuyện nhỏ nhặt, không ai để ý đến nó nữa, chẳng ngờ sáng hôm sau vừa ra cổng đã bị người ta chặn lại.
Chặn đường họ là một đám người trẻ tuổi, có nam có nữ, dáng vẻ hung tợn. Một gã lao đến trước xe ngựa lớn tiếng hỏi: “Xin hỏi phải các vị đã bao trọn hậu viện nhà trọ Vân Lai không? Tại hạ là đệ tử Thanh Hà sơn trang, đến thành Ngân Dương có chuyện, không ngờ đúng dịp Tết hoa, các nhà trọ khác đều kín khách. Nghe ông chủ nói các vị đã bao cả hậu viện nhưng không ở hết, không biết có thể nhường lại hai phòng cho bọn ta không? Đã ra ngoài thì nên tạo điều kiện cho người khác, cũng là tạo điều kiện cho chính mình, vậy nên mong các vị nể mặt huynh đệ bọn ta một chút!”
Tên tiểu tử đó tuy nói những lời khách sáo nhưng giọng điệu thật đáng ghét, làm như Thanh Hà sơn trang là chỗ nào ghê gớm lắm, mượn phòng mà thái độ cứ như là ban phát ân huệ to lớn cho người ta không bằng!
Hai hôm nay Bảo Khâm “đến ngày”, tinh thần đi xuống, Tần Liệt cũng vui không nổi. Nghe những lời này hắn chẳng buồn để ý. Ngũ Cân thấy người trong xe ngựa không trả lời liền hiểu ý, hơn nữa hắn thật sự không có chút cảm tình nào với đám người kia nên trả lời không chút khách khí: “Ông chủ chúng ta xưa nay thích yên tĩnh, vì thế mới bao cả hậu viện, không muốn bị người khác quấy nhiễu. Lần sau các vị nhớ đến sớm một chút!”
Nói rồi hắn vẫy tay bảo phu xe rời đi.
Đám người kia không ngờ Ngũ Cân chẳng thèm cho mình chút thể diện nào, từ chối dứt khoát không hề suy nghĩ nên sắc mặt rất khó coi. Trong số đó, một cô nương trẻ tuổi mặc váy đỏ có chút nóng nảy bắt đầu tỏ thái độ. Nàng ta tuy tướng mạo khá xinh đẹp, nhưng kiêu ngạo xấc xược, trợn mắt nhìn chằm chằm vào xe ngựa, thấy chiếc xe đen thui không vừa mắt, trong lòng càng khinh thường, lạnh lùng lên tiếng: “Nói chuyện với các ngươi đã là nể mặt các ngươi lắm rồi, đừng có rượu mời không uống, chọc bọn ta giận các ngươi đừng trách bọn ta không khách khí!”
Tần Liệt ngồi trong xe ngựa nghe thấy vậy thì nhíu mày, sắc mặt càng khó chịu. Bảo Khâm cũng nhăn mặt khẽ hỏi: “Thanh Hà sơn trang là nơi quái quỷ nào? Tại sao lại ngang ngược như vậy?”
Tần Liệt khẽ xoa bụng nàng, nhỏ giọng giải thích: “Chẳng qua là một môn phái trong giang hồ, chúng không dám gây sự với quan phủ, thấy chúng ta là thương nhân nên đến giễu võ giương oai, chẳng đáng để tâm.” Nói rồi ánh mắt hắn lại ánh lên vẻ bực tức, nói vọng ra ngoài: “Sao còn chưa đi?”
Ngũ Cân nghe thấy giọng Tần Liệt có vẻ bực bội thì giật mình, vội vàng: “Đi ngay đây, đi ngay đây!” Nói xong, hắn không để ý gì đến bọn người vênh váo trước mặt mà vẫy tay với phu xe: “Đi mau đi mau! Lát nữa làm lỡ chuyện của ông chủ thì các người biết tay đấy!”
Cả đoàn như không thấy đám người kia, thản nhiên đi về phía trước. Cô nương lên tiếng khi nãy mặt đỏ phừng phừng, giậm chân mạnh một cái, nói: “Các người bị ngu hay bị câm thế, để mặc chúng ta bị chúng đem ra làm trò cười. Còn không mau chặn chúng lại!”
“Chuyện này…” Có người do dự không dám động thủ, một là hiểu rõ bên mình vô lý, hai là do đối phương biết mình là người Thanh Hà sơn trang mà vẫn không chịu nể mặt, nhất định là có chỗ dựa đằng sau. Bọn họ không phải là đứa trẻ con miệng còn hôi sữa, đương nhiên phải cẩn thận.
Cô nương áo đỏ kia thấy vậy càng tức giận hơn, nhìn thấy xe ngựa sắp đi mất, nàng ta không để ý thái độ của đồng bọn nữa, nghiến răng rút kiếm bên hông xông lên.
“Xoẹt!” Mọi người chỉ thấy mắt hoa lên, khi cúi đầu xuống, dưới đất là một mảng đỏ.
Ngũ Cân tự biết nặng nhẹ, chỉ đuổi người ta về, không ra tay độc ác. Cô nương áo đỏ kia tuy bị ngã rất thảm hại nhưng sau khi được người ta đỡ dậy mới phát hiện mình chỉ bị thương ngoài da. Đồng bọn của nàng ta biết Ngũ Cân đã nương tay, nhất thời khó xử, duy có nàng ta vẫn tức giận bừng bừng, nếu không phải bị thương e là sẽ lại xông lên đánh người.
Tần Liệt không để ý đến những kẻ đó nữa, thuận lợi đi đến chùa Tây Bình. Hắn đỡ Bảo Khâm xuống xe, hai người thong dong đi dạo trong chùa.
Cả hai đang trong thời kì mới cưới mặn nồng, chỉ muốn lúc nào cũng dính với nhau. Đặc biệt là Tần Liệt, tuy ngoài mặt nghiêm nghị không biểu cảm nhưng ánh mắt dịu dàng đầy tình ý, thật sự có thể khiến cho người ta say đắm.
Tuy cải trang thành thương nhân, nhưng không thể che giấu phong thái của cả hai. Hòa thượng trong chùa mặc dù là người tu hành, song vẫn sống cuộc sống trần tục nên khó tránh nhiễm thói đời, đối xử với họ vô cùng khách khí. Tần Liệt cũng rất hào phóng, quyên góp ngân lượng không luyến tiếc.
Nghe đồn nơi này xem quẻ rất linh, Bảo Khâm tò mò, học theo những người phụ nữ rút quẻ. Nàng xem không hiểu nên đưa cho một vị hòa thượng trong chùa giải hộ.
Vị hòa thượng sau khi xem quẻ xong, mặt hơi biến sắc, ngẩng đầu lên, nghiêm túc nhìn Bảo Khâm, quan sát một lúc thì mỉm cười, cung kính: “Mọi việc không cần lo lắng, gió xuân sẽ mang điều lành đến. Cứ thuận theo tự nhiên ắt sẽ gặp phúc lớn. Phu nhân thuở nhỏ mất cha mẹ, khó khăn trùng trùng, nhưng rốt cuộc cũng đợi được đến ngày mây tan trăng sáng, sau này sẽ được đại phú đại quý. Đây là quẻ thượng thượng, làm chuyện gì cũng hợp.”
Tần Liệt chưa bao giờ tin vào quỷ thần, nhưng phàm là người trần, ai cũng thích nghe lời hay ý đẹp, đặc biệt đối tượng còn là Bảo Khâm. Khuôn mặt hắn giãn ra, khẽ ho một tiếng, đỏ mặt hỏi tiếp: “Thế còn… chuyện con cái…” Chưa nói xong, Bảo Khâm đã véo một cái vào eo hắn, nghiến răng trợn mắt, vô cùng xấu hổ.
Vị hòa thượng kia tiếp tục cười nói: “Lục giáp thuận lợi, giáp ất được tử, tháng Tí Sửu Ngọ sẽ có tin mừng.”
Tần Liệt nghe vậy không giấu nổi niềm vui trong mắt, nếu mặt không bị liệt chắc hắn sẽ cười ngoác đến tận mang tai mất. Bảo Khâm càng nhìn càng không chịu nổi liền thở dài, sao lúc đầu nàng lại một mực cho rằng Tần Liệt là một người đàn ông không thể hiện cảm xúc ra ngoài mặt, điềm tĩnh chín chắn cơ chứ.
Sau khi từ biệt vị hòa thượng đó, Tần Liệt cứ như thả hồn trên mây, cúi gằm xuống thầm tính toán: “…Tháng Tí Sửu Ngọ, năm nay không kịp rồi, tháng Năm năm sau…ừm…” Hắn cứ lẩm bẩm một mình như vậy, chốc chốc lại bắt đầu nghĩ xem con trai mình tướng mạo sẽ ra sao, đầy vui vẻ hân hoan.
Bảo Khâm thấy vậy, đánh hắn một cái: “Nhà sư đó chỉ nói tháng Năm có tin mừng, chàng hớn hở cái gì?”
Tần Liệt như không để ý, nháy mắt với Bảo Khâm một cái, trong ánh mắt có niềm vui không sao kể xiết: “Ý A Bảo là ta hành động chậm quá, nàng đang chê vi phu chưa đủ chăm chỉ hay sao?”
Bảo Khâm không ngờ hắn lại trêu đùa như vậy ngay trong đất Phật, tự nhiên cảm thấy xấu hổ, lại sợ người xung quanh nghe được nên nhìn ngó cẩn thận, thấy Ngũ Cân và những người khác vẫn đang ở xa mới thở phào một cái. Nàng lại lườm Tần Liệt, nhỏ giọng uy hϊếp: “Chàng còn ăn nói lung tung nữa cẩn thận tối nay thϊếp sẽ đá chàng xuống giường đấy.”
Nói vậy nhưng trong lòng nàng rất vui. Nàng lọt lòng mất mẹ, lớn hơn một chút mất cha, rồi từ nhỏ bị nuôi dưỡng như con trai, nên tính tình phóng khoáng thoải mái, chưa bao giờ tỏ ra khổ sở vì cô đơn không nơi nương tựa. Nhưng nhiều năm trôi qua, cũng có lúc nàng hoang mang bối rối, tịch mịch cô đơn. Nhất là vào dịp lễ tết hay những khi ốm đau, Bảo Khâm càng cảm thấy u sầu.
Chỉ từ sau khi ở bên cạnh Tần Liệt, trái tim nàng mới thực sự yên ổn. Cho dù xảy ra chuyện gì, bất kể cuộc đời chông gai, nàng đều không hề sợ hãi, bởi nàng tin chắc rằng, trên thế giới này có một người luôn bên cạnh nàng, bảo vệ nàng. Cảm giác chân thực ấy khiến nàng rất an tâm.
Không chỉ có Tần Liệt, họ sẽ còn có những đứa con… có lẽ là con trai, có đôi mày rậm của Tần Liệt, khỏe mạnh và hoạt bát, biết nắm lấy tay nàng gọi “Mẹ ơi”… Đó là những điều tốt đẹp quá viển vông mà ngày trước nàng nằm mơ cũng không dám nghĩ tới.
Buổi trưa họ ăn cơm chay trong chùa, Tần Liệt nói rất ít, không còn thần thái vui vẻ như nãy nữa mà thay vào là vẻ mặt nghiêm túc. Ngũ Cân và những thị vệ khác cho rằng hắn có chuyện phiền lòng, sợ bị mắng nên tránh xa không dám lên tiếng. Duy chỉ cỏ Bảo Khâm thấy dở khóc dở cười, nhân lúc không ai để ý liền nhẹ lay cánh tay hắn hỏi nhỏ: “Chàng lại đang nghĩ lung tung gì vậy?”
Tần Liệt nghiêm túc trả lời: “A Bảo, nàng nghĩ xem nên đặt tên mụ cho con chúng ta là gì? Nãy giờ ta nghĩ mười mấy cái nhưng vẫn thấy không hợp…”
Bảo Khâm: “…”
Đoàn người ở lại chùa Tây Bình rất lâu, Phật đã bái rồi, quẻ cũng xem rồi, cơm chay cũng đã dùng rồi, nên giờ chuẩn bị thu dọn đồ đạc trở về nhà trọ. Trụ trì rất khách khí, tiễn bọn họ đến tận cửa bảo điện Đại Hùng, Bảo Khâm và Tần Liệt cũng đáp lễ rất trịnh trọng.
Ra đến cửa, đột nhiên thấy bên ngoài có tiếng huyên náo, nghe kĩ, hóa ra có người đang cãi nhau với hòa thượng giải quẻ, có vẻ rất ầm ĩ.
“Ra ngoài xem có chuyện gì vậy?” Tần Liệt rất có thiện cảm với vị hòa thượng giải quẻ nên giờ nghe người ta ầm ĩ có chút không vui. Ngũ Cân thấy vậy vội đi đến đại điện phía trước. Một lúc sau lại ầm ĩ tiếp, theo đó là tiếng quát mắng the thé của người phụ nữ.
Bảo Khâm nghe thấy giọng nói quen quen, liền ngó đầu nhìn Tần Liệt, thấy mặt hắn đang rất u ám, nói một cách lạnh nhạt: “Đúng là âm hồn bất tán, đi đâu cũng gặp bọn họ.”
Quả nhiên là đám người chặn đường họ ban sáng. Thành Ngân Dương rộng như vậy, đi đến đâu cũng gặp là sao?
Bảo Khâm không vừa mắt đám người thích sinh sự kia chút nào, càng không muốn đi xem cãi nhau. Nàng dứt khoát cùng Tần Liệt tìm chiếc ghế đá ngồi xuống, đợi Ngũ Cân trở về.
Nhưng đợi một lúc lâu vẫn không thấy bóng dáng Ngũ Cân, tiếng ồn ào lại mỗi lúc một lớn.
Tần Liệt không kiên nhẫn được nữa, vỗ tay Bảo Khâm: “Ta đi xem thế nào!” Nói xong hắn đứng dậy đi đến đại điện phía trước.
Bảo Khâm ngồi bên này đợi, rất nhanh, tiếng ồn ào giảm đi, một lúc sau, nhìn thấy Tần Liệt thản nhiên quay lại, đưa tay ra nói với Bảo Khâm: “Đi thôi.”
“Có chuyện gì vậy?” Bảo Khâm tò mò hỏi.
“Có người muốn xem quẻ, hòa thượng giải quẻ nhưng người đó không phục.” Tần Liệt chẳng buồn nhắc đến nữa, cúi đầu nhìn Bảo Khâm, thấy nàng cười bí hiểm mới hỏi: “Nàng nghĩ gì mà cười vui vậy?”
Bảo Khâm cười đáp: “Trong điện thờ khi nãy có mấy vị La Hán trông rất đáng sợ, không ngờ mấy vị La Hán đó cũng không trấn áp nổi đám người xấu xa. May mà có chàng…”
Tần Liệt xụ mặt lườm Bảo Khâm: “Ý nàng là ta còn đáng sợ hơn La Hán?”
Khuôn mặt hắn lúc tức giận quả thật khiến người ta nổi gai ốc, nhưng Bảo Khâm rất hiểu Tần Liệt, biết phải ứng phó ra sao, nàng cất tiếng dịu dàng, xoa tay hắn: “Chàng hung dữ với người ngoài thế nào thϊếp không cần biết, thϊếp chỉ biết chàng tốt với thϊếp là được.”
Mặt Tần Liệt giãn ra, hắn nắm lấy tay áo Bảo Khâm, tay kia khẽ vuốt tóc nàng: “A Bảo thật ngốc, ngay cả tóc cũng không biết chải.”
Chuyến đi này họ không đưa a hoàn theo cùng, đã để Bảo Khâm chịu khổ rồi. Chuyện chải đầu giống như muốn lấy mạng nàng, mỗi lần Bảo Khâm đều tốn không biết bao nhiêu sức lực, nhưng chải chải búi búi mãi vẫn không ra cái gì. Nàng hết cách, đành buộc tạm đằng sau, trông lỏng lẻo tùy tiện, làm giảm đi vẻ đoan trang rất nhiều!”
Vừa nghe Tần Liệt chê cười mái tóc của mình, Bảo Khâm liền xấu hổ, cấu vào tay hắn một cái, ngoài mặt ra vẻ nghiêm túc, nói: “Còn không đi mau, trời sắp tối rồi!”
Những thị vệ đi đằng sau cứ phải nhịn cười, thật là khổ!
Đi ngang qua đại diện, Bảo Khâm không thấy bóng dáng đám người thích gây chuyện kia đâu nữa, trong lòng tự nhiên cảm thấy buồn cười, thầm cảm thán gương mặt lạnh như tiền của Tần Liệt thật hữu dụng. Ngũ Cân cũng thấy thế, cố gắng học theo bộ dạng của Tần Liệt, nhăn mặt lại. Đáng tiếc gương mặt hắn vẫn còn non nớt, càng nhăn như thế trông càng giống một thiếu niên.
Vốn cứ tưởng chuyện đến đây là hết, không ngờ vừa ra ngoài, còn chưa lên xe ngựa đã có người vội vã chạy đến dáng vẻ lo sợ: “Lúc nãy chúng ta thất lễ, mong công tử đừng để bụng…” Vừa nói, ánh mắt người nọ vừa dán vào mặt Tần Liệt đầy tình ý, hai má còn ửng hồng, kẻ ngốc cũng hiểu là có chuyện gì xảy ra!
Bảo Khâm cười như không cười nhìn người đến, trong lòng nàng hiểu rõ, cái gì mà trước kiêu ngạo sau cung kính, hết sức lo sợ vân vân mây mây… Vốn cứ tưởng người ta sợ bộ mặt lạnh lùng của Tần Liệt, nhưng xem ra người ta đã bị gương mặt tuấn tú của hắn mê hoặc rồi. Tuy tập tục nước Yên còn thoải mái hơn cả nước Tần, nhưng rõ ràng đối phương là cây đã có chủ mà vẫn dám nhìn suồng sã như vậy, Bảo Khâm thật sự được mở rộng tầm mắt!
“Phu quân…” Bảo Khâm nũng nịu gọi hắn, kéo dài giọng ra, ngay đến bản thân cũng phải nổi da gà: “Người ta đau chân không đi nổi nữa rồi…”
Tần Liệt vội quay đầu lại, không thèm nhìn cô nương áo đỏ kia một lần, cao giọng nói: “Nương tử đừng lo, vi phu đến dìu nàng…”
Ngũ Cân và đám thị vệ đứng hình…