Tiếng Người

Chương 20

Nhưng Duy không quên được người con gái mặc áo đỏ. Nỗi nhớ nhung không thể nào cắt nghĩa được lập tức trào lên vào buổi sáng hôm sau, khi anh mở mắt bên cạnh M. Một nỗi đau đáu hiện hữu dày đặc hơn bất cứ cảm giác nào khác trong cuộc sống hiện tại của anh – hơn cả sự thanh thản. Nó không hoàn toàn là khao khát chiếm được người con gái kia. Anh phải thừa nhận là có cảm giác xá© ŧᏂịŧ – anh có hình dung đến lúc hôn nàng, ôm nàng, làʍ t̠ìиɦ với nàng – nhưng đấy không phải là cảm giác chính. Cái rõ nhất trong đầu anh – và anh không hiểu tại sao – là hình ảnh những buổi sáng mùa đông ở New York lúc anh mới tốt nghiệp Columbia.

Có một khoảng thời gian nửa năm, khi anh còn làm cho New York Empire, hàng tuần, anh phải bay đi giám sát công trình ở Pittsburg vào sáng sớm thứ Hai và bay về vào tối thứ Tư để ngày thứ Năm báo cáo ở công ty. Anh luôn bay chuyến 6:30 sáng. Và như thế, anh phải dậy từ 4 giờ sáng để ra La Guardia. Khi anh rời nhà, những sáng mùa đông, thành phố còn đang ngủ. Bên ngoài, chỉ có đèn đường vàng vọt và những chiếc xe chạy như tan vào trong trời chạng vạng và sương mù.

Lúc 6:30 sáng mùa đông, bầu trời có màu thép và mây sà xuống thấp trên đầu thành phố. Nhưng vượt qua khỏi tầng mây đó, không khí đột nhiên quang đãng; chân trời mở ra vô tận và từ phía đường chân trời, một đường viền màu lửa của mặt trời đang lên cắt thành một lưỡi liềm. Phía bên dưới, thảm mây xám dày sẽ làm thành đủ những hình có thể thấy trên mặt đất: những miệng vực đen, những hố đá sâu, những đỉnh núi phủ tuyết, những khe núi chạy dài, những dòng sông mây, những sa mạc cát bất tận… và mênh mông một thứ bồng bềnh, trắng xốp trải ra đến vành đai lửa phía xa.

Anh nhớ rất rõ. Khi chiếc Boeing 727 lấy độ cao, khoang máy bay luôn dốc đứng lên. Cảm giác máy bay vượt lên dần từng nấc trong không gian rất rõ ràng. Dường như sức nặng của cả bầu trời bên trên đang nén xuống khối sắt lớn, ấn chặt anh xuống ghế ngồi.. Khi ấy, một cảm giác man rợ không rõ ràng xâm chiếm anh và cứ lớn dần lên cùng với từng mét mà cái khối sắt quanh anh đang giành giật từ bầu trời. Một thứ độc ác vô ích và điên cuồng, hoàn toàn vô hướng, lạnh lùng, ác liệt. Sự thù ghét không có đích và không có nguồn gốc nhưng rõ ràng đang tồn tại và đang khiến anh choáng váng. Anh tưởng tượng, nếu có trục trặc xảy ra vào lúc máy bay đang cất cánh, những người Mỹ ngu ngốc ngồi quanh anh chắc chắn sẽ dẫm đạp nhau mà ra cửa thoát hiểm. Chắc chắn họ sẽ dẫm đạp lên anh mà nhao ra ngoài; hoặc sẽ ngồi khóc lóc cầu Chúa.

Điều ấy đã từng xảy ra. Có một lần, khi anh bay đi Toronto vào giữa mùa đông; trời mới bão tuyết nên đầy những ổ không khí. Khi máy bay chuẩn bị hạ cánh, thân máy bay rung lên dữ dội, những cú hẫng nối tiếp nhau như thể chiếc máy bay đang rơi tự do. Khi máy bay hẫng một cú dài trước khi xuống khỏi tầng mây tích điện, cả khoang máy bay đầy những tiếng gào thét và kêu khóc buốt óc. Người đàn ông da trắng ngồi ngay bên cạnh anh gục đầu, lớn tiếng sám hối và hứa hẹn với Chúa rằng nếu anh ta thoát chết, anh ta sẽ… anh ta sẽ… Nhưng máy bay chỉ vừa tiếp đất, tất cả hành khách tản ra lấy hành lý, tìm taxi, tìm người nhà; khuôn mặt ai cũng mang một vẻ háo hức vì sắp được kể lại một câu chuyện li kì cho người thân.

Cảm giác man rợ điên loạn đầy bóng dáng cắn xé và sự hôi hổi nóng rãy của máu tươi làm cổ họng anh đắng ngắt. Một cái gì đó giống như móng vuốt và bóng tối bất thần ập vào con mồi để liều chết. Nó cũng đồng thời mang lại sự mạnh mẽ và thỏa mãn khiến người anh căng cứng lên, như thể chính cơ bắp và ý chí căng cứng của anh, chứ không phải cái động cơ phản lực siạnh đang nâng chiếc may bay lên dần. Sự man rợ điên cuồng kéo dài rồi vỡ tung khi máy bay vọt qua khỏi tầng mây dày và mắt anh gặp cái lưỡi liềm màu lửa quét dọc chân trời. Ngay sau đó, thế vào chỗ của sự man dại điên cuồng là cảm giác lặng lẽ. Sự nín lặng thanh thản ôm trùm.

Thông thường, chuyến bay sớm đo Pittsburg không đến 30 hành khách. Đa phần đều là người đi làm sớm như anh; và đa phần đều mặc com-lê, đeo cà vạt nghiêm chỉnh. Họ thường ngồi quanh những trụ tường có ổ cắm ở sân bay để tiếp tục làm việc trên máy tính trong lúc ngồi chờ; nhưng khi lên máy bay, họ tản ra khắp nơi trong khoang. Máy bay vừa bắt đầu vào đường băng là họ gục đầu cố tranh thủ ngủ. Không ai chờ cho đến lúc máy bay lấy xong độ cao; cũng không ai nhìn ra ngoài.

Ban đầu, ý nghĩ này giống như một tưởng tượng. Bất cứ khi nào anh nghĩ đến khuôn mặt người con gái áo đỏ khi đứng bên đường nhìn anh ở Đà Nẵng, thì anh cũng lập tức đồng thời sống lại khoảnh khắc man dại điên cuồng và sự lặng lẽ thanh thản nối tiếp khi ngồi trên máy bay nhìn xuống New York qua làn sương sớm. Khuôn mặt nàng và cảm giác trong khoang máy bay không thể tách rời nhau. Chúng là hai miếng của một bức tranh lớn bị một bàn tay khổng lồ xé rách và ném ra hai chỗ khác nhau. Rồi dần dần, hai miếng rách tự động trôi lại gần. Đúng là anh đã thấy nàng trên một trong những chuyến bay đi Pittsburg. Nàng ngồi ở hàng ghế cuối cùng của khoang máy bay, lẫn trong bóng tối, và cũng nhìn ra bên ngoài cửa sổ. Đúng là thế… Chắc là thế…

Anh bắt đầu trở đi trở lại trong đầu những giây phút hiếm hoi mà anh và người con gái đó nhìn nhau ở Đà Nẵng – mặc dù biết, nhưng sẽ chẳng bao giờ chắc chắn về điều người kia đã nói trong mắt. Anh bắt đầu thấy khó chịu vì anh đã không đến làm quen. Có thể chẳng để làm gì cả, chỉ để làm quen. Như một người ở bên ngoài anh. Có thể là một người chỉ để nói một câu chuyện nhất định nào đó. Như anh đã từng có những người bạn chỉ để nói một điều gì đó nhất định, làm chung với nhau một điều gì đó nhất định, đi cng một đoạn đường nhất định và rồi ra đi không cần tạm biệt.

Bất cứ sự làm quen nào giữa anh và nàng đã có thể là một câu trả lời. Chỉ cần anh từng nghe thanh âm thoát ra từ miệng nàng, hay bắt tay nàng, hay nghe thấy ý tứ thoát ra từ những suy nghĩ của nàng, thì có thể bây giờ, mọi thứ sẽ rõ ràng hơn.

“Rõ ràng hơn”. Như là anh với M. Giữa anh và M – mọi thứ đều rõ ràng. Khi nghĩ đến đó, anh bắt đầu so sánh hai người. Nhưng sự so sánh chỉ vừa chớm nổi lên thì những mảng so sánh đã vỡ vụn trước khi chụm lại thành hình. Họ chẳng liên quan gì đến nhau cả.

Trở lại cơ quan vào buổi sáng thứ Hai tuần sau, anh hỏi những đồng nghiệp ở lại xem họ làm gì vào thứ Bảy, Chủ Nhật ở Đà Nẵng.

- Thì tắm biển tập thể này.

- Đi chợ hải sản này.

- Đi ăn nem lụi với thịt heo cuốn bánh tráng trong phố này.

- Đi ăn cơm đập này.

- Đi Non Nước, Ngũ Hành Sơn này.

- Vui dã man!

Họ dí cả mấy tập ảnh vào tay anh. Những đám đông lẫn lộn, méo mó trong những bức ảnh chụp vội của đồng nghiệp. Những bức ảnh nhòe nhoẹt, lộn xộn tay chân răng tóc ngực mũ nón quần áo. Ảnh tập thể nào cũng có Hoàng ở ngay chính giữa những tay chân răng tóc ngực mũ nón quần áo đó. Trong một bức ảnh ở bể bơi, anh ta mặc duy nhất chiếc quần bơi đen bó sát – một múi gồ lớn nổi lên ngay chỗ dương v*t. Mắt Hoàng luôn nhìn thẳng vào ống kính. Anh ta cười – những đường gân lớn hằn lên trên cổ. Các đồng nghiệp của anh bám quanh Hoàng cười.

Còn nàng, nàng luôn lẫn ở đâu đó trong đám đông. Nàng luôn nhìn đi đâu đó trong lúc bị chụp ảnh. Ở những bức ảnh hiếm hoi mà nàng nhìn thẳng vào ống kính, khuôn mặt ấy chỉ hơi cười mỉm.

Cái cười và cái nhìn xoáy thẳng vào anh. Anh dí dần tấm ảnh vào sát mắt cho đến lúc mắt anh nhòa đi và đầu anh mụ mị vì choáng váng. Anh hạ tấm ảnh xuống và nhìn đi chỗ khác.

Phong đi vào phòng, hớn hở đến gần anh:

- Chán quá anh không ở lại. Mấy hôm đấy mới vui chứ mấy hôm họp chán chết.

- Ừ.

- Anh Hoàng bảo anh ấy sẽ vận động để năm sau tổ chức ở Nha. Anh phải đưa chị nhà anh đi cho mọi người còn biết mặt.

- Cái thiết kế mặt bằng làm đến đâu rồi?

- Em đang sửa lại – Phong xuống giọng.

Rồi cậu ta cười:

- Hôm trước anh Hoàng hỏi, em bảo anh là người giỏi kỹ thuật nhất ở đây. Tất cả các dự án lớn phải nhờ anh.

Anh nhìn chăm chú vào màn hình máy tính. Qua phản chiếu trên màn hình, anh thấy Phong cầm tập ảnh ở trên bàn rồi lảng ra ngoài. Cậu ta cười và thì thào trong hành lang với mấy cô gái trẻ. Họ vừa xem ảnh vừa kể lại cho nhau xem cảnh này… cảnh này… chụp ở đâu… lúc đó người này người kia đang làm gì…

Những trò nhảy múa của anh ở Đà Nẵng chẳng có ích gì. Không ai thay đỗi ý nghĩ về anh. Họ vẫn để anh yên trong thế giới của anh. Họ đã luôn loại trừ anh và bây giờ cũng loại trừ anh ra khỏi những cuộc đàm tiếu nơi công sở.

Những trò nhảy múa của anh đã quá muộn. Anh nhớ lại nó với cảm giác lạnh tanh. Sự lạnh tanh ngăn anh thử cố gắng một lần nữa, dù chỉ trong ngày hôm nay – để đến gần những tiếng thì thào.

Anh vẫn có một cầu nối với nàng – Hoàng. Qua phòng nhân sự, anh tra được email, địa chỉ và số điện thoại ở nhà Hoàng. Chừng nào người này còn ở công ty thì anh và nàng sẽ không bao giờ hoàn toàn bị cắt đứt. Anh không cần làm gì cả. Không cần hỏi chuyện hay liên lạc với Hoàng. Chỉ cái nhận thức rằng anh ta còn hiện hữu, còn ở đây và có thể cầm điện thoại nói chuyện với anh ta vào bất cứ lúc nào là đủ.

- A lô? – chỉ cần mỗi thế.

Hoàng. Con người này. Anh bắt đầu lục tìm hồ sơ và các phân tích dự án của Hoàng. Anh ta tốt nghiệp ĐH Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Đã học thạc sỹ về xây dựng dân dụng ở Úc; rồi học tiếp MBA ở Thụy Sĩ.

_________________