Tư Thái Cung Phi

Chương 191: Ngoại truyện 3 - tiểu tứ (hai)

Edit: Dương Hiền dung.

Beta: Tiên Thái phi.

Kiến Chương cung.

Tiểu Tứ mặc thường phục của Hoàng tử màu lam đậm thêu chỉ vàng, trên đầu đội kim quan. Hắn vốn là một công tử văn nhã, cao gầy đĩnh đạc, tràn đầy quý khí, nhưng bây giờ sắc mặt hắn lại đầy vẻ hoảng sợ, bước chân lảo đảo.

Mẫu phi, mẫu phi... Người ở đâu?

Tiểu Tứ ngơ ngác chạy về phía trước, trái tim đập liên hồi. Dường như hắn có thể nghe thấy tiếng tim đập thình thịch một cách rõ ràng, nhịp điệu cũng không nhanh, cứ từng hồi từng hồi, kiên định và mạnh mẽ. Tiểu Tứ từ từ ôm ngực, lần đầu tiên hắn cảm nhận được trái tim bệnh tật của mình tồn tại một cách mạnh mẽ đến như vậy.

Ngươi muốn gì? Ngươi đang kích động vì ai? Ngươi mạnh mẽ như vậy là vì chống đỡ cho ta sao?

Đôi môi của tiểu Tứ đã tái nhợt, có lẽ do thiếu nước nên xuất hiện những đường nứt nẻ, hô hấp nặng nề.

Tiểu Tứ thấy có người đang quỳ ở cửa chính điện, đó là Dương Liêm.

Tiểu Tứ dừng bước, tâm trạng hoảng hốt, đương nhiên hắn nhận ra Dương Liêm. Đây là tâm phúc của phụ hoàng, chưởng quản thủ vệ cấm cung, là người phụ hoàng có thể giao phó tính mạng của mình, cũng là người đi cùng với phụ hoàng và mẫu phi đến Trầm Đô.

Tiểu Tứ như dùng hết khí lực của cả đời, bước từng bước qua đó, sau đó chậm rãi ngồi xuống trước mặt Dương Liêm, nhìn vào mắt hắn ta, thanh âm nhẹ như lông hồng, mỏng manh giống như chỉ cần một ngọn gió thổi qua là sẽ tan biến: "Dương Liêm đại nhân, sao ngài lại quỳ ở đây?"

Dương Liêm quỳ cũng đã lâu, sau khi Hoàng đế ngất xỉu, hắn liền tự giác ra trước cửa chính điện mà quỳ gối. Hắn đã phụ sự tín nhiệm của Hoàng đế, không thể bảo vệ tốt Hoàng đế, không thể bảo vệ tốt người trên đầu trái tim của nam nhân tôn quý nhất kia.

Vết thương trên thân thể thì có thể khỏi hẳn, cho dù có để lại sẹo đi nữa thì cũng không cảm thấy đau đớn, nhưng vết thương lòng thì phải chữa trị thế nào đây? Không có vết thương, cũng không để lại sẹo, thế nhưng lại chẳng khác là bao, không có cách nào chữa lành.

Dương Liêm nâng mắt lên, thấy tiểu Tứ chờ đợi trong tuyệt vọng và yếu ớt. Hắn không biết phải trả lời vị Hoàng tử tôn quý này thế nào.

Tứ Hoàng tử văn chất nho nhã, phong độ thanh tao. Tứ Hoàng tử ôn nhu thiện lương, nhân từ rộng lượng, mặc dù sức khoẻ không tốt nhưng cũng không bao giờ giận chó đánh mèo. Có lẽ do được mẫu phi dạy bảo tốt, cho nên tác phong hành sự của hắn luôn khiến cho người ta cảm thấy thoải mái và thư thái như mộc xuân phong [1].

[1] Như mộc xuân phong (如沐春风): Được khai sáng, được cảm hóa hay nhận được điều bổ ích khi ở chung với người có đức hạnh cao thượng, có học thức cao. Hoặc là chìm đắm trong sự tốt đẹp, tâm tình vui sướиɠ thoải mái, giống như đắm mình trong gió xuân ấm áp. (Theo bachngocsach.com)

Mặc dù trời cao tàn nhẫn với hắn nhưng hắn vẫn luôn ôn hoà với thế nhân.

Dương Liêm từ từ cúi đầu, không biết phải nói thế nào với hài tử yếu ớt này.

Tiểu Tứ nhìn vẻ mặt của Dương Liêm, như hiểu ra tất cả. Hắn chậm rãi đứng dậy, nhếch khoé miệng lên, biểu hiện quật cường, nở nụ cười có chút điên cuồng: "Ngươi cũng giả dối, ngươi lừa ta, các ngươi đều là đồ dối trá... Mẫu phi, mẫu phi, người ở đâu, tại sao người vẫn chưa về..."

Tiểu Tứ không quay đầu mà tiếp tục chạy về phía trước, giống như cứ chạy như thế thì hắn sẽ gặp được mẫu phi đang trên đường về, sẽ gặp được người mà hắn quý trọng nhất đời này.

Thuở nhỏ, mẫu phi luôn lắc lắc cái trống bỏi trong tay. Đó là âm thanh êm tai nhất trong trí nhớ của hắn, trong đó còn có cả tiếng ngân nga của mẫu phi. Lớn hơn một chút, mẫu phi thêu cho hắn một chiếc khăn tay tinh xảo để lau mồ hôi, hắn luyến tiếc không nỡ dùng. Mẫu phi biết được, liền ngày đêm thêu thêm nhiều cái nữa, kiểu dáng đa dạng, vô cùng xinh đẹp. Lớn hơn chút nữa, mẫu phi bắt đầu chuẩn bị y phục cho hắn, giảng giải công khóa, dạy hắn đạo lý làm người...

Hắn thích nhất là được mẫu phi ôm ấp, cảm giác như tràn ngập ánh mặt trời ôn hoà, hơn nữa còn mang theo hơi thở ấm áp tươi đẹp.

Hắn thích nhất nhưng cũng áy náy nhất là khi bản thân bị bệnh. Thích chính là vì khi đó mẫu phi sẽ kề sát bên hắn, hắn có thể ở bên cạnh mẫu phi cả ngày lẫn đêm, hưởng thụ sự chăm sóc cẩn thận ôn nhu của mẫu phi. Áy náy là vì làm cho mẫu phi lo lắng đau lòng, chỉ cần người khẽ nhíu mày thôi thì hắn cũng sẽ rất buồn.

Mẫu phi, mẫu phi, người ở đâu?

Tiểu Bát nghe nói Tứ ca tiến cung thì liền vui vẻ đến Kiến Chương cung để gặp Tứ ca. Mấy ngày rồi nó chưa gặp Tứ ca, hơn nữa mẫu phi cũng không ở trong cung, cho nên nó cảm thấy rất là cô đơn.

Quả nhiên từ xa nó đã thấy bóng dáng Tứ ca bước ra từ Kiến Chương cung.

"Tứ ca!" Tiểu Bát hân hoan chạy vọt đến.

Tiểu Bát đợi vòng tay ôm chặt và thanh âm hòa ái, ôn nhu của Tứ ca, nhưng rốt cuộc chẳng có gì cả.

Tứ ca như hồn bay phách lạc, lướt qua hai cánh tay đang dang rộng của nó.

Rốt cuộc tiểu Bát cũng phát hiện ra Tứ ca có gì đó không ổn. Đôi mắt sáng ngời ôn hoà trước kia nay chẳng có chút tiêu cự nào, dáng người cao ngất trước kia giờ cũng cúi gập xuống, bước chân uy nghiêm, phong thái ngời ngời trước kia giờ đây cũng trở nên tán loạn, không theo thứ tự.

Tiểu Bát có chút kinh hoảng. Đột nhiên nó xoay người kéo tay Tứ ca, ngẩng đầu hỏi: "Tứ ca! Xảy ra chuyện gì vậy? Phụ hoàng mắng huynh sao? Tứ ca! Huynh sao thế?"

Tiểu Tứ phát hiện mình không nhúc nhích mới dừng bước chân, chậm rãi xoay đầu thì nhìn thấy tiểu Bát.

"Tiểu Bát..." Tiểu Tứ lẩm bẩm, sau đó ánh mắt hắn bỗng nhiên nổi lên ngọn lửa hi vọng. Hắn đột ngột đưa tay ra nắm lấy vai của tiểu Bát, kích động nói: "Tiểu Bát, đệ có thấy mẫu phi không? Mẫu phi đang ở đâu?"

Vai của tiểu Bát bị tiểu Tứ nắm rất đau, thế nhưng càng làm cho nó khó hiểu chính là trạng thái và câu hỏi của Tứ ca. Tiểu Bát vùng vẫy, liên tiếng nói: "Tứ ca, huynh đang nói gì thế? Mẫu phi vẫn chưa trở về, có lẽ người đang trên đường đi. Lộ trình từ Trầm Đô về thượng kinh cũng mất gần mười ngày đấy."

Ngọn lửa hi vọng trong đôi mắt của tiểu Tứ từ từ tắt ngấm, cả người giống như uể oải, cúi người sâu hơn, trong miệng lẩm bẩm nói: "Tại sao mọi người đều không thấy mẫu phi? Vì sao mẫu phi vẫn chưa trở về? Vì sao bọn họ đều lừa ta?... Mẫu phi, mẫu phi..."

Tiểu Bát cũng bị tiểu Tứ làm cho hoảng loạn. Nó vội nắm chặt lấy tay áo của tiểu Tứ, sốt sắng hỏi: "Tứ ca, huynh đang nói gì vậy? Mẫu phi thế nào? Mẫu phi trở về rồi sao?"

Tiểu Tứ đẩy tiểu Bát ra, tiếp tục chạy về phía trước. Nếu mẫu phi không ở trong cung thì cũng có thể đang ở trong thành, ra ngoài cung nhất định là có thể tìm được. Mẫu phi, xin người hãy chờ con...

Tiểu Bát bị đẩy ngã xuống đất, nó kinh hoảng nhìn bóng dáng lảo đảo của Tứ ca, trong lòng đột nhiên rất sợ hãi.

Phía sau chạy tới rất nhiều cung nữ và Thái y. Một đám người lướt qua tiểu Bát, rất nhanh đuổi theo Tứ Hoàng tử. Số cung nhân còn lại thì vội vàng nâng tiểu Bát dậy, hoảng hốt hỏi: "Bát Điện hạ, người không sao chứ?"

Tiểu Bát nhìn cung nhân ở Kiến Chương cung, không rõ vì sao nhưng trong lòng nó vừa cảm thấy bất an, vừa có dự cảm sợ hãi. Đột nhiên tiểu Bát lên tiếng nói: "Ta muốn gặp phụ hoàng."

Mấy cung nhân khó xử nhìn nhau một chút rồi lên tiếng trả lời: "Bát Điện hạ, sức khoẻ của Hoàng thượng không tốt, nên Hoàng thượng không cho bất kỳ ai cầu kiến. Điện hạ, người nên về cung trước đi. Hoàng thượng đã hạ chỉ để Tứ Công chúa về Thượng Dương cung chăm sóc cho người, nên trước hết người cứ về Thượng Dương cung chờ đợi. Đến khi nào sức khoẻ của Hoàng thượng tốt hơn thì nhất định sẽ triệu kiến người."

Vị Bát Điện hạ này cũng là tổ tông. Trước kia đã là tổ tông, bây giờ lại càng là tổ tông, các cung nhân phải tốn rất nhiều công sức mới trấn an được Bát Hoàng tử.

---

Bên ngoài cung.

Tiểu Tứ nhìn biển người mênh mông, nhưng lại không có lấy một người là mẫu phi của hắn. Người xung quanh đều cách xa tiểu Tứ, không chỉ bởi vì nam nhân trẻ tuổi này dường như có chút không bình thường, mà còn vì trên người hắn mặc y phục hoàng tộc thêu hoa văn hình rồng bằng chỉ vàng, phía sau còn có rất nhiều cung nhân yên lặng đi theo.

Trần Hỉ tự mình cưỡi ngựa. Viện chính Thái Y viện - Hàn Thái y đã nhiều tuổi cũng dẫn dược đồng đi theo phía sau. Không ai dám ngăn Tứ Điện hạ lại, bởi vì lúc này cảm xúc của Tứ Điện hạ vô cùng bất ổn, có khả năng bộc phát bất cứ lúc nào. Một khi đã bộc phát thì sẽ ảnh hưởng đến trái tim, như vậy thì sẽ rất khó khăn.

Lúc này không thể áp dụng biện pháp cứng rắn với Tứ Hoàng tử. Thái y nói trạng thái bây giờ của Tứ Hoàng tử giống như bị mất hồn vậy. Nếu cứng rắn ngăn lại, lỡ như có gì phát sinh thì khó mà nói được. Vì thế mọi người cũng chỉ có thể yên lặng đi theo sau hắn, nếu thấy có gì không ổn thì còn có thể kịp thời ứng phó.

Tiểu Tứ mờ mịt bước từng bước về phía trước, không biết đi về đâu, cũng không biết hắn định tìm người ở nơi nào. Vì sao thế giới này lại rộng lớn như thế? Vì sao thế giới này lại nhiều người đến vậy? Vì sao mẫu phi vẫn chưa trở về?

Mẫu phi, người mau về đi, cho con biết toàn bộ đều không phải là sự thật, là bọn họ đang lừa con. Tất cả chỉ là một giấc mộng, tỉnh mộng rồi thì mọi chuyện sẽ êm đẹp như trước, như chưa hề có biến cố xảy ra.

Tiểu Tứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, bất tri bất giác đi đến phủ đệ của mình. Biển hiệu Hữu An vương phủ to lớn treo phía trên, tiểu Tứ ngẩng đầu lên nhìn, dường như đã cách cả một đời.

Hạ nhân giữ cửa cung kính hành lễ, có người thấy không ổn nên đã đi báo với Vương phi. Cung nhân đi theo cũng tiến vào báo lại cho Vương phi đại khái tình hình.

Chỉ chốc lát sau, Vương phi bế hài tử vẫn còn trong tã lót đi ra.

Tiểu Tứ vẫn ngơ ngác đứng trước cửa phủ, hơi ngẩng đầu lên nhìn biển hiệu treo phía trên.

Vương phi Tử Nhược thấy Vương gia nhà mình cả người chật vật lại gầy yếu, không nhịn được mà vành mắt đỏ hoe. Nàng tiến lên vài bước, cũng không dám lớn tiếng nói chuyện, sợ kinh động đến Vương gia, cẩn thận nhẹ nhàng nói: "Vương gia, Tiểu Tranh Tử hôm nay rất ngoan, không có khóc nháo. Có điều thằng bé rất nhớ phụ thân, người nhìn con đi, con đang cười với người đó."

Tiểu Tứ lờ mờ nghe thấy tiếng ưm ưm của trẻ sơ sinh. Hắn ngây ngốc cúi đầu, thấy đứa trẻ sơ sinh được bọc trong tã lót nằm trong lòng Vương phi. Khuôn mặt nó bụ bẫm, đôi mắt to tròn, cái miệng nhỏ hồng nộn cứ mấp máy nói ê a.

Tiểu Tứ run rẩy đưa tay ra, cẩn thận sờ vào khuôn mặt non mềm đáng yêu của em bé, cảm thấy thật là mềm mại.

Cảm giác thật chân thật.

Tiểu Tứ vô cùng tuyệt vọng mà nhận ra tất cả những chuyện này đều là sự thật, không phải là mộng, cũng không phải là lừa đảo.

Phụ hoàng hắn, đệ đệ hắn, nhi tử của hắn, tất cả đều là thật, đã đến lúc chấm dứt tự lừa mình dối người rồi.

Tiểu Tứ nâng khoé miệng lên, nụ cười càng ngày càng lớn hơn, lệ nơi khoé mắt cuối cùng cũng rơi xuống: "Haha, hahaha..."

Mọi người đều bị trạng thái bây giờ của Tứ Hoàng tử doạ cho sợ hãi. Dường như đứa bé trong lòng Vương phi cũng cảm nhận được sự bi thống và tuyệt vọng của phụ thân nên khóc ré lên.

Tiểu Tứ nghe thấy tiếng trẻ sơ sinh khóc mới thôi cười điên cuồng, sau đó hắn phun ra một ngụm máu, cả người ầm một tiếng ngã xuống đất.

Chương 194: Hoàng Đế (Hai)

Edit: Xuân Tu viện.

Beta: Huệ Hoàng hậu.

Cuối cùng tin tức của Trầm Đô đã truyền về thượng kinh, cũng gần như đã lan truyền khắp Đại Lương.

Trước khi Trung thừa Trầm Đô tự sát đã viết tấu chương, từng chữ đều như khóc ra máu khiến người ta không nỡ nhìn thẳng, không đành lòng nghe thấy.

Toàn bộ triều đình giống như bị hắt một chậu nước nóng mà sôi trào cả lên.

Từ xưa đến nay, nếu nói điều gì mà sĩ phu không ngừng theo đuổi thì nhất định đó chính là "khí tiết". Nghe những chuyện xưa mà đám người đó lưu truyền đến nay, đọc từng chữ viết trong sách thánh hiền, xem mấy dòng được ghi lại trên bia văn thì mọi người sẽ biết dân tộc này, quốc gia này theo đuổi thứ gì.

Hoa Thường, trước kia nàng là quý nữ thế gia, là sủng phi của Hoàng đế, nhưng không là gì trong mắt của đám sĩ phu cả. Bản thân nàng để lại ấn tượng không phải vì nàng xuất thân thế gia, cũng không phải do nàng được gả cho Hoàng đế, mà vì nàng là mẫu phi của ba vị Hoàng tử.

Trước khi xuất giá, tại gia tòng phụ, nên thân phận lớn nhất của nàng là quý nữ thế gia. Sau khi xuất giá, nhà mẹ đẻ không còn là nhà của nàng nữa, xuất giá tòng phu, nên thân phận lớn nhất của nàng là phi tần của Hoàng đế. Khi sinh con rồi, phu tử tòng tử, tuy trượng phu của nàng chưa qua đời, nhưng nàng đã có nhi tử, cho nên địa vị lại thay đổi thêm một lần nữa. Vì thế trong mắt mọi người, nàng đã trở thành mẫu phi của ba vị Hoàng tử.

Dù vậy, trong mắt của đám sĩ phu chính thống, Hoa Thường vẫn chỉ là một phi thϊếp mà thôi. Mọi người gọi nàng là Quý phi, Kỳ Phi, Hoa Phi, nhưng cũng chỉ giới hạn như thế, nào có ai biết đến tên của nàng? Chẳng ai muốn biết cả.

Nhưng mà bây giờ, tất cả đều đã khác xưa.

Tất cả mọi người đều biết nàng tên là Hoa Thường.

Lần đầu tiên cái tên Hoa Thường này thoát khỏi thế gia, thoát khỏi hoàng tộc, đường hoàng trở thành tên của nữ nhân được mọi người tán thưởng.

Đám sĩ phu tức đến mức sùi bọt mép mà gọi tên nàng, vì nàng mà rơi lệ. Đại Tướng quân rong ruổi sa trường tưởng niệm giọng nói và dáng điệu của nàng, vì nàng mà đổ máu.

Xưa nay Đại Lương chưa từng đoàn kết đến vậy. Trước đó phái chủ hòa còn cố chấp sống chết thì giờ đây đã chuyển mình thay đổi, trở thành phái chủ chiến kiên định. Tài nghệ lật mặt này khiến người ta phải trố mắt nghẹn họng.

Cái chết của Hoa Thường có rất nhiều ý nghĩa.

Một nữ nhân còn có thể kiêu ngạo mà chết, tại sao bọn họ lại sống tạm bợ như vậy?

Nói đánh giặc đã chết bao nhiêu người, nói đánh giặc tốn bao nhiêu quốc khố, nói đánh giặc dao động thế nào đến nền tảng lập quốc... Chẳng mấy người thật sự để tâm! Dù sao người chết không phải là mình, tốn ngân lượng cũng không phải là ngân lượng của mình, nền tảng lập quốc thì thấy đấy, biết đấy nhưng lại không với tới, vậy thì quan tâm làm gì cơ chứ?

Do đó dân tộc này đã kế thừa một truyền thống kỳ quái. Khi nào các tướng sĩ dũng mãnh nhất? Khi nào tiếng nói trên triều đình đồng thanh nhất trí nhất?

Không phải khi tử chiến một mất một còn, không phải khi đập nồi dìm thuyền, mà là khi mất hết thể diện.

Thể diện, đây là một thứ thần kỳ. Bao nhiêu người vì nó mà dãi nắng dầm mưa, vì nó mà vào sinh ra tử.

Hoa Thường chết khiến cho Hoàng đế, triều đình đến bá tánh, binh lính đều mất hết thể diện.

Một nữ nhân mà lại có khí tiết như vậy, một nữ nhân mà lại cương liệt như vậy, thế thì các nam nhân thống trị quốc gia này còn thể diện nào nữa?

Hoa Thường chết, đương nhiên làm người ta kính nể, làm người ta ca tụng, nhưng nhìn từ góc độ khác thì lại đánh nát thể diện của những nam nhân cao cao tại thượng kia.

Nam nhân ở thời đại này đặt nữ nhân ở địa vị thấp kém, đồng thời cũng khắc sâu tín điều [1] về việc bảo hộ nữ nhân.

[1] Tín điều: Điều đặt ra để tin theo, noi theo.

Vậy mà bây giờ lại có một nữ nhân đứng ra dùng sinh mệnh của mình đốt lên ngọn lửa để bảo hộ các nam nhân. Điều đó khiến cho bọn họ mở to mắt, khiến cho bọn họ ca tụng nữ nhân ấy, đồng thời cũng cảm nhận rõ nỗi nhục nhã này.

Nỗi nhục này cần phải dùng máu tươi mới có thể rửa sạch được. Bắc Mông, Hồ Nhung buộc phải trả giá bằng máu.

Tất cả quân thường trú của Đại Lương đã bắt đầu xoắn ống tay áo lên, bọn họ biết sắp tới sẽ là một trận đại chiến. Hơn nữa tất cả văn thần đã bắt đầu viết bài hát ca ngợi về Hoa Thường.

Các văn nhân sĩ tử đã dùng những vần thơ câu ca đẹp đẽ uyển chuyển nhất để tưởng niệm nữ nhân ấy. Thời khắc này đây, nàng không còn là phi tần của Hoàng đế nữa, nàng chỉ là Hoa Thường mà thôi.

Những lão thần có danh vọng của Lễ bộ đã bắt đầu chọn lựa thụy hiệu [2] cho Hoa Thường.

[2] Thụy hiệu: Danh hiệu sau khi chết đi của vua quan, phi tần, vương tử...

Hoàng đế ốm đau trên giường, rất lâu rồi chưa thượng triều. Dường như các đại thần đã bỏ qua ý kiến của Hoàng đế về chuyện của Hoa Thường. Bởi vì nàng không chỉ là phi tần của Hoàng đế, tên của nàng có ý nghĩa nhiều hơn thế.

Hơn nữa tấu chương thỉnh cầu truy phong Hoa Thường làm Hoàng hậu đã phủ kín mặt bàn Hoàng đế. Nếu một nữ nhân như thế mà không được truy phong làm Hoàng hậu, vậy thì Hoàng hậu bây giờ làm sao đủ khả năng để ngồi trên Hậu vị chứ? Chỉ vì nàng ta vào cửa trước sao?

Cho dù Vương thị và Chu thị cực kỳ nghẹn khuất (bực tức không phục), nhưng bọn họ cũng biết đây là xu thế tất yếu, không thể ngăn cản được. Chẳng bằng bây giờ thuận nước đẩy thuyền, biết đâu còn có được thanh danh tốt.

Chu thị thỏa hiệp không có nghĩa là Thái tử thỏa hiệp. Nếu nói điều gì làm Thái tử phải chấp nhất, thì Hoàng hậu chính là một trong số đó.

Hắn biết vị trí Hoàng hậu có ý nghĩa như thế nào với mẫu hậu, gần như là tất cả với người. Nếu bỏ đi Hậu vị và hắn, thì mẫu hậu trắng tay.

Thái tử thế đơn lực cô [3] phản đối cũng không

thể làm cho triều đình chú ý. Đương nhiên thái độ của Thái tử rất quan trọng. Nhưng khi đối mặt với đám sĩ phu ngoan cố, dường như ý kiến của hắn chẳng còn quan trọng nữa.

[3] Thế đơn lực cô: Thế lực nhỏ bé, một mình chống chọi.

Nếu hỏi, nhóm người ngoan cố nhất quốc gia này là ai thì nhất định là đám sĩ phu. Bọn họ thuộc phái ngoan cố bảo thủ.

Phái bảo thủ là gì? Mọi người thường nghĩ tới việc họ khăng khăng giữ cái cũ, ngoan cố, không biết tuỳ cơ ứng biến, luôn cản trở những điều mới và sáng tạo. Nhưng bọn họ lại là người đại diện cho chính phái và thế lực cường đại.

Đám sĩ phu bị sự cố chấp và khí tiết bao phủ toàn thân. Cho dù đang đối mặt với Hoàng đế nhưng bọn họ cũng dám nổi giận, mắng mỏ lên án. Ngay lập tức ta đâm đầu vào cột cho ngươi xem, nhân tiện mỉm cười dưới cửu tuyền, vang danh sử sách.

Đám sĩ phu truyền thống theo đuổi thanh danh sớm đã gạt sinh mệnh và gia tộc qua một bên, cho nên Thái tử thì có đáng gì?

Mà điều khiến đám sĩ phu hưng phấn hơn cả, chính là Hoàng đế đã thượng triều, lại còn chính thức lệnh cho Lễ bộ chuẩn bị việc truy phong. Truy phong Hoàng hậu là kết cục đã định, không thể tránh khỏi.

Về phần Thái tử có sa sút tinh thần, có phẫn nộ và tuyệt vọng hay không thì càng không ai quan tâm.

Trên triều, mấy lão đại thần vì lễ nghi, lễ chế và thụy hiệu mà ầm ĩ đến mức long trời lở đất. Sau nhiều ngày xa xôi cách trở, cuối cùng tro cốt và di vật của Hoa Thường đã được đưa về thượng kinh.

Ngày hôm ấy, người người đứng chen nhau chật chội hai bên đường. Tất cả bọn họ đều vô cùng yên tĩnh, nhìn đoàn xe màu trắng từ từ đi ngang qua.

Cờ chiêu hồn trắng bay phất phới trong gió, dường như đang cầu nguyện cho người chết được an giấc ngàn thu.

Hoàng đế chống quải trượng đứng tại cửa cung trên tường thành, nhìn đoàn xe màu trắng đang chầm chậm đi từ đằng xa đến đây. Cả người hắn mảnh dẻ như chiếc đinh ghim, tái nhợt tiều tụy.

Trần Hỉ ở bên cạnh đỡ lấy Hoàng đế. Ông nhìn sắc mặt đau buồn của Hoàng đế rồi thở dài, nhẹ giọng an ủi: "Hoàng thượng, xin người nén bi thương."

Cho dù có thiên ngôn vạn ngữ thì cũng không thể nói thành lời. Đối mặt với tình cảnh như vậy, bất luận câu nào thì cũng đều biến thành yếu ớt, không còn sức lực.

Hoàng đế nhìn đoàn xe càng ngày càng gần, giọng nói già nua nghẹn ngào: "Thân thể tiểu Tứ thế nào rồi? Hôm nay Thường nhi đã về, nhất định nó rất muốn đến thăm nàng ấy."

Trần Hỉ lắc đầu, nhẹ giọng trả lời: "Lần này Tứ Điện hạ đổ bệnh rất nghiêm trọng, suýt chút nữa đã không thể tỉnh lại. Thái y đều nói hung hiểm, bây giờ Tứ Điện hạ rất cần tĩnh dưỡng cho khỏe, không thể quá vui hay quá buồn. Nương nương trở về, đương nhiên là rất tốt. Nhưng nếu Tứ Điện hạ tới đó, chắc chắn cảm xúc sẽ bị kích động, thật sự quá nguy hiểm."

Hoàng đế im lặng gật đầu.

Nam nhân kiên cường như hắn trải qua nhiều ngày suy sụp tinh thần, cuối cùng đã dần dần trở lại bình thường. Hắn là chủ nhân của đế quốc này, dù có yêu một nữ nhân thì cũng không thể vĩnh viễn trầm luân như vậy.

Thần dân của hắn, bá tánh của hắn, quân đội của hắn đều đang chờ hiệu lệnh.

Dù hiện thực hay là hư ảo thì đều không cho phép hắn tiếp tục đau thương nữa. Hắn cần phải đứng dậy, gánh vác tất cả những chuyện này.

Hiện giờ Đại Lương giống như một nồi nước sôi trào, cần phải nhanh chóng đưa ra một con đường. Không nghi ngờ gì nữa, đó chính là chiến tranh!

Thế nhưng sự phẫn nộ và quyết tâm giống như vậy thì Bắc Mông cũng không hề thiếu, bởi vì Đại Hãn già nua của Bắc Mông đã mất đi người thừa kế - ấu tử mà ông ta yêu thương nhất.

Biên cương lúc này, chạm vào là nổ ngay.

Hoàng đế nhắm mắt lại, cảm nhận làn gió thổi vào tóc mình, giống như đang dịu dàng vuốt ve cho tình nhân.

"Thường nhi, hoan nghênh nàng về nhà."

Tiếng nói nhẹ bẫng của Hoàng đế hoà vào trong gió, cuối cùng không còn sót lại gì nữa.

Kiến Chương cung.

Hoàng đế nhìn thị vệ trình mấy chiếc hộp lên, tay hắn run lẩy bẩy, vẫn chưa mở ra.

Phía dưới là trưởng thị vệ đang quỳ trên đất, giọng nói trầm thấp: "Đó là tro cốt và di vật của nương nương, những thứ khác đã hoá thành tro tàn trong lửa lớn, xin nệ hạ nén bi thương."

Hoàng đế ngồi đờ đẫn, sau đó mở miệng nói: "Trẫm biết rồi, ngươi lui xuống đi."

Trưởng thị vệ hành lễ rồi cáo lui.

Cung điện lại trở nên trống rỗng, các cung nhân đều cố hết sức hô hấp thật nhẹ nhàng. Mấy ngày nay Hoàng đế nản lòng thoái chí, đau thương chẳng có cách nào để phát tiết, cho nên không ai muốn trở thành kẻ xui xẻo bị Hoàng đế trút giận.

Một lát sau, dường như Hoàng đế đã chuẩn bị xong tâm lý, hắn từ từ mở mấy chiếc hộp trước mắt mình ra.

Đồ vật trong hộp đều rất bình thường, là một ít trang sức.

Chỉ có vàng với độ tinh khiết cao nhất thì mới tồn tại được trong lửa lớn, nhưng bởi vì kỹ thuật ở cổ đại có hạn, cho nên đồ trang sức không có độ tinh khiết cao như vậy. Vì thế hộp trang sức đã hơi biến thành màu đen, hình dáng cũng vặn vẹo. Những phần không được làm bằng kim loại thì thê thảm đến mức không nỡ nhìn.

Có lẽ chẳng ai nhìn vào đồ trang sức như vậy mà còn thấy đẹp. Cho dù là kim quan được bảo vệ hoàn hảo nhất, thì lúc này cũng không còn đẹp đẽ nguyên vẹn nữa.

Trong chiếc hộp đó chứa tơ vàng còn sót lại, trang sức bằng ngọc và tro tàn. Đây là vật phẩm của bộ cung trang dành cho Quý phi.

Hoàng đế khẽ vươn ngón tay ra, cẩn thận chạm vào một chút. Hắn còn nhớ rõ ngày mà Thường nhi mặc bộ y phục này. Phục sức Quý phi trang trọng uy nghiêm, nàng đứng trên bậc thang cung điện, đẹp đến mức như chẳng phải người của nhân gian.

Vậy mà giờ đây mọi thứ đã hoàn toàn thay đổi.

Tựa như việc ai nấy đều cảm thấy bộ cung trang này như là đồ bỏ đi. Thường nhi đã không còn nữa, không bao giờ quay về nữa.

Hoàng đế cười khổ một tiếng, âm thanh nhỏ yếu ngắn ngủi.

Thừa nhận hiện thực đi, Trần Chương. Thường nhi của ngươi đã chết, đừng ôm hi vọng hư ảo mà chờ đợi nàng ấy trở về nữa.