Năm Tháng Rực Rỡ

Quyển 6 - Chương 14: Mãi mãi bên nhau

Khi Thư Ngọc chạy về Lưu trạch thì mọi thành viên chính của Lưu thị đều đang tập trung trước đài tế tổ.

Ông chủ Lưu ở bên trong đám người tỏ vẻ tức giận: “Các người cũng

không có cách mở cửa ư? Sao có thể chứ? Lúc trước là do chính tổ tiên

các người đã tạo ra cơ quan mộ thất, nếu các người không biết thì trong

thiên hạ này còn ai biết nữa chứ?”

Tư tưởng Thư Ngọc ngưng đọng, cô đẩy đám người ra đi vào, thản nhiên kêu một tiếng: “Ông chủ Lưu.”

Sống lưng ông chủ Lưu chợt lạnh, sắc mặt buồn rầu quay qua: “Chuyện này…Cô phu nhân, thật là ngại quá…Cô tiên sinh cậu ấy…”

Thư Ngọc ngắt lời ông ta: “Dẫn tôi đến cửa mộ.”

Ông chủ Lưu cuống quít trả lời: “Vâng vâng…”

“Gọi thêm mấy người có hiểu biết về cơ quan mộ thất.” Thư Ngọc còn nói.

Ông chủ Lưu ngẩn ngơ, sau đó ngoắc vài người ở đằng sau: “Ngươi, ngươi còn ngươi nữa, đi theo mau.”

Trên đài tế tổ, gió đêm phần phật, Thư Ngọc vội vàng đi qua đây, đã

bỏ quên áo khoác tại căn nhà gỗ của Liêu thần y, giờ phút này cô không

hề cảm thấy rét lạnh.

“Tại sao cửa mộ không mở ra được?” Cô nhìn thợ thủ công giỏi nhất trong Lưu thị đứng nghiêng phía sau mình, ánh mắt bình tĩnh.

Người thợ thủ công trẻ tuổi đỏ mặt, đáp: “Năm đó khi tổ tiên tôi

thiết kế cơ quan mộ thất, bên trong cơ quan chính còn l*иg vào một cơ

quan khác, nếu cơ quan đó khởi động, cho dù có mở cơ quan chính cũng

không thể mở ra cửa mộ. Tình huống hiện tại, không biết là do nguyên

nhân nào, cơ quan được l*иg vào kia đã bị khởi động.”

Thư Ngọc hơi nhíu mi: “Làm sao khởi động cơ quan kia?”

Thợ thủ công nuốt nước bọt: “Tôi cũng không biết. Bởi vì đã trăm năm

nay cơ quan đó không hề có chút động tĩnh, chúng tôi nghĩ rằng đó chỉ là lời đồn, cho nên…”

Thư Ngọc giơ tay ngắt lời giải thích của anh ta: “Tôi cần cách thức mở ra cơ quan kia.”

Thợ thủ công ấp úng nói: “Để tôi tìm đọc một số văn hiến do tổ tiên

lưu lại…” Dứt lời anh ta định rời khỏi đài tế tổ, nhưng bị Thư Ngọc ngăn cản.

“Anh ở lại.” Thư Ngọc chỉ hai người Lưu thị khác, “Hai người đi lấy văn hiến, mang tất cả văn hiến tới đây.”

“Tất cả?!” Hai người trẻ tuổi sợ hãi.

Ông chủ Lưu lau mồ hôi hột trên trán: “Còn không mau đi!”

Hai người kia run cầm cập, chạy như bay xuống đài tế tổ.

Thư Ngọc ngoảnh đầu nhìn thợ thủ công kia, hỏi: “Tại sao muốn thiết kế một cơ quan l*иg vào như vậy?”

Anh chàng thợ thủ công không hề dám chậm trễ, trả lời nghiêm túc:

“Vốn chỉ có một cơ quan chính, cơ quan l*иg vào này được tạo thêm vào

hai trăm năm trước khi tu sửa mộ thất, nghe nói vị trí mộ thất không

đúng, phá vỡ phong thủy nơi ở, bởi vậy tạo thêm cơ quan này để chặn là

âm khí trong mộ. Ngoài ra, việc tu sửa mộ thất không chỉ có tổ tiên của

tôi tham dự, bởi vậy tôi không thể cam đoan mình có thể giải mã cách

thức mở ra cơ quan kia.”

Thư Ngọc nhìn chăm chăm: “Tham dự tu sửa mộ thất còn có ai nữa?”

Người thợ thủ công đáp: “Còn có một vị thợ thủ công của Lưu thị, vị

ấy là tổ tiên đã từng ở trong cung, bởi vì khéo léo hơn người mà có một

dạo trở thành tâm phúc của hậu cung.”

“Hậu cung?” Thư Ngọc sửng sốt.

Người thợ thủ công gật đầu: “Vị tổ tiên đó là nữ quan bên cạnh quý

tần nương nương, tiếc rằng phu quân mất sớm, không thể lưu lại một chút

huyết mạch. Kỹ năng khéo léo của bà ấy được lấy làm gương cho những kỹ

nghệ trong hoàng cung, bởi vậy muốn thông hiểu thấu đáo quả thật có phần khó khăn.”

Nhịp tim Thư Ngọc có phần bất ổn: “Vị thợ thủ công đó, có phải tên là Lưu Linh Thuận không?”

Người thợ thủ công hơi kinh ngạc: “Cô cũng từng nghe nói về bà ấy ư?”

Trong đầu Thư Ngọc vang lên tiếng vù vù. Lưu Linh Thuận hiểu biết thủ công, hơn nữa hai trăm năm trước xuất phát từ nguyên do không ai biết

mà tu sửa phần mộ tổ tiên Lưu thị, vừa khéo hai trăm năm sau, Triệu Nghi Thanh trở lại, cơ quan l*иg vào chưa từng khởi động đã bị kích hoạt.

“Nếu bà ấy là nữ quan trong cung, vì sao không mai táng trong cung

cũng không mai táng tại nhà chồng, mà lại mai táng tại phần mộ tổ tiên

của nhà mẹ đẻ?” Thư Ngọc ngước mắt hỏi.

Người thợ thủ công cố gắng nghĩ lại hồi lâu: “Chuyện năm đó tôi cũng

không rõ ràng lắm, nghe ông cố tôi nói rằng, sau lễ tang của phu quân

thì Lưu Linh Thuận tiến cung lần thứ hai, cùng với một nhóm thợ thủ công được bí mật phái đi tu sửa lăng mộ ngầm của hoàng tộc. Lần đi đó mất

năm năm trời, chẳng hề có chút tin tức. Năm năm sau bà ấy trở lại liền

bị tước chức, cũng không thể về nhà chồng, vì thế được chị em ruột đón

về nhà mẹ.”

Thư Ngọc bừng tỉnh hiểu ra, thảo nào đó là nguyên nhân vì sao Lưu Tam Nhi muốn cúng tế hai vị nội tổ ngoại tổ.

Nhưng tại sao Lưu Linh Thuận vừa vào Lưu gia liền muốn tu sửa phần mộ tổ tiên? Thật sự là vì phong thủy ư? Thư Ngọc không tin.

Hay là nói, để thuận tiện cho nhiều năm sau vong phu của bà ấy có thể tìm được bà để đoàn tụ với nhau? Ý nghĩ này vừa xuất hiện, Thư Ngọc

ngẩn người. Nếu đúng là vậy, thế thì năm đó Lưu Linh Thuận làm sao biết

được Triệu Nghi Thanh còn chưa “chết” chứ?

Thư Ngọc đang muốn nghĩ sâu hơn, cô chợt ngừng suy nghĩ. Việc cấp

bách trước mắt là phải mở ra cửa mộ, giải phóng Cô Mang cùng với đám Hàn Kình, Lưu Linh Thuận và Triệu Nghi Thanh làm sao, chẳng có liên quan gì đến cô.

Tài liệu văn hiến mau chóng được mang sang đây. Văn hiến liên quan

đến việc tu sửa mộ thất không nhiều lắm, Thư Ngọc liếc mắt một cái liền

lấy ra nhật ký tu sửa do Lưu Linh Thuận ghi chép lại, cô mau chóng xem

ngay.

Nhật ký rất hỗn loạn, câu từ đảo ngược, từ không diễn ý, tới cuối cùng lại thành viết tháu.

Thư Ngọc hậm hực nhíu mày, Lưu Linh Thuận sau khi tu sửa mộ phần lại

trở nên điên loạn thế này ư? Có thế nào cũng phải ghi lại cách thức mở

ra, bây giờ bảo ai tới cứu Cô Mang đây?

Trong đầu Thư Ngọc nhớ tới Cô Mang, cô không khỏi buồn bực, vốn đã

không có đầu mối, mà trên quyển sổ nhật ký mỏng manh lại tràn ngập những chữ “Thất Sương Hà” “Thái A Sơn” khó hiểu. Cô nhịn không được đặt câu

hỏi: “Thất Sương Hà và Thái A Sơn là thứ gì? Sổ ghi chép của thợ thủ

công các người đều khó hiểu thế này sao?”

Người thợ thủ công ngượng ngùng: “Thái A Sơn không biết là thứ gì,

nhưng tôi có nghe tới Thất Sương Hà. Nghe nói là nơi an táng vị phu quân của Lưu Linh Thuận.”

Bàn tay Thư Ngọc đang lật quyển sổ nhật ký chợt dừng lại. Triệu Nghi

Thanh đã thành người đần độn chính là từ Thất Sương Hà mà xuất hiện ư?

Trong lúc ngẩn người, Thư Ngọc chợt nghe tiếng nổ ầm vang, cửa mộ ở đằng sau chợt mở ra.

Tại lối ra, Cô Mang kéo Abel, Hàn Kình bồng Lưu Tam Nhi đã ngất đi, chỉ không thấy Tiểu Thuận Tử đâu cả.

Thư Ngọc bất chấp mọi thứ, cô lao người nhào tới trước mặt Cô Mang: “Anh có bị thương không?”

Cô Mang cười cười: “Này, em không có lòng tin với anh đến thế ư.”

Thư Ngọc trừng mắt, nhưng con ngươi lại ửng đỏ.

Cô Mang lập tức giơ tay đầu hàng, anh dùng một tay kéo cô vào lòng: “Ngàn lỗi vạn lỗi đều là lỗi của anh.”

Thư Ngọc đẩy anh ra, hừ lạnh nói: “Trước kia là ai nói em có lòng

hiếu kỳ quá sâu, làm việc lỗ mãng, nhìn xem bây giờ là ai vô lý?”

Cô tiên sinh oai phong chốn Bắc Bình lập tức yếu thế, khiến người xung quanh xem cảnh tượng này liền ngớ ra.

“Này, không ai tới đỡ vị nằm trong tay tôi sao?” Hàn Kình kéo giọng

hô lên. Lúc này ông chủ Lưu mới như tỉnh lại từ trong mộng, vừa khóc lóc hô to “Tam Nhi à Tam Nhi của cha” vừa chạy qua ôm lấy Lưu Tam Nhi.

Mọi người chỉ cảm thấy mây tan trăng sáng, hiểm trở đã qua, không ai để ý tới thiếu mất một Tiểu Thuận Tử.

Anh ta chỉ là nhân vật không quan trọng, nói chung nhìn thấy tình thế bất thường liền chạy lạc vào, có lẽ bị hai vị Cô Hàn tiên sinh xử tử

tại chỗ, ai để ý chứ?

Tóm lại là Lưu tam tiểu thư bình an trở về, vả lại không cần vô cớ gả cho một người không rõ lai lịch.

Mọi người đều vui mừng.

Thư Ngọc trông thấy mí mắt Lưu Tam Nhi hơi động đậy trong khi cô ta vốn nên hôn mê, cô chợt hiểu rõ.

Một nửa còn lại trong câu chuyện của Liêu thần y là thật.

Tam tiểu thư Lưu thị vô tình có được quyển sổ tay của ngoại tổ, biết

được câu chuyện tình của hai trăm năm trước, rồi một ngày nào đó trông

thấy Tiểu Thuận Tử trên đường giống như người trong bức họa của ngoại

tổ, cô ta nhân tiện đưa tin, rồi liên quan tới chuyện một công đôi việc

này.

Rời khỏi Lưu trạch, Thư Ngọc và Cô Mang chầm chậm đi về nhà.

Cô nép người vào trong áo khoác của anh, kể nửa câu chuyện còn lại

cho anh nghe, sau đó nghe anh nói sơ lược về chuyện xảy ra bên trong mộ.

Anh nói tóm tắt đơn giản rõ ràng, bỏ qua vô số chi tiết, vì thế cô

bất mãn: “Theo bản tóm tắt của anh, em không hề biết cuối cùng Triệu

Nghi Thanh làm sao ‘sinh đồng cừu, tử đồng huyệt’ cùng Lưu Linh Thuận.”

Anh nhất thời im bặt. Một người không thể “chết” làm sao có thể cùng người đã hóa thành xương khô mãi mãi bên nhau chứ?

Anh suy nghĩ, cả đời này anh sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng đã xảy ra bên trong mộ thất.

Người đàn ông cao to nằm vào quan tài, cẩn thận nằm kề bên thê tử đã

hóa thành xương khô, từng nhát dao một khoét xẻo da thịt mình.

Bởi vì chức năng tái sinh của vi trùng sống quá mạnh, trước khi vi

trùng tái sinh Triệu Nghi Thanh phải chém đứt da thịt ngay. Bàn tay chém xuống mang theo tính quả cảm hung tợn vốn có của quân nhân, không hề ẩu tả chút nào. Cô Mang và Hàn Kình nhìn thấy cũng cảm thấy xúc động vô

cớ.

Sau một khắc, vi trùng sống mất đi thân thể bám vào, chúng nhanh chóng tử vong, da thịt nằm trên mặt đất cũng mau chóng tàn lụi.

Bên trong quan tài, chỉ còn lại hai bộ xương khô, một bộ xương còn mới một bộ xương đã cũ, nương tựa vào nhau.

Cô Mang ôm chặt vợ mình trong lòng: “Hai người họ nằm trong quan tài, luôn luôn ở bên nhau.” Cho đến khi không còn vũ trụ bao la, xương khô

hóa thành bột phấn.

Mặt trời ló ra tại phía chân trời, trong hẻm nhỏ sâu thẳm truyền ra hai ba tiếng pháo cô độc.

Cơn gió hơi lành lạnh, cửa ải cuối năm đã gần kề.