Tiếng cười nói huyên náo khắp núi. Dưới ánh trăng muôn đời treo cao trên bầu trời Âm Giới, một tốp cốt mã rầm rập xuyên rừng. Bên suối, đại gia đình đầu chốc đang mải mê dẫn nhau nhặt nhặn những thức rễ cây cuối cùng để chuẩn bị cho mùa đông, mãi khi một đôi vó ngựa gõ xuống rặng đá cuội bên bờ sông, họ hàng nhà đầu chốc mới ngẩng đầu lên. Khi nhìn thấy người nhảy xuống khỏi lưng ngựa, lục tục đi về phía bờ nước, cả nhà đầu chốc mới vội vội vàng vàng kéo nhau tháo chạy. Đầu chốc con chạy loạn kêu la í i. Đầu chốc mẹ giơ cái đuôi to như bắp chân người lớn, cuốn lấy đám con, phóng vội lên từng cội cây bên rìa rừng. Đầu chốc cha trên vai cõng đứa lớn, đứa lớn trên vai cõng đứa nhỏ, mỗi đứa ôm một đống hạt khô rễ gãy, bám trên vai trên lưng cha, cũng phóng tuốt lên cây.
Trong tán cây âm u trên cao, từng cặp mắt xanh lè nhìn trừng trừng đám người ngựa mới tới. Tiếng răng nanh nghiến trèo trẹo, hòa cùng với tiếng đế giày da gai giẫm trên đá sỏi rào rạo, tựa như tin tình báo cho các hộ gia đình đầu chốc khác. Chẳng mấy chốc, từng chùm ánh sáng xanh lá liền thi nhau chớp nhá trong bóng xám u uẩn. Ở tại ngọn Miêu Sơn này, tộc đầu chốc bọn chúng tôn kính nhất mộc tinh, thù nhất là bọn đuôi gai ở dưới đáy sông, nhưng chán ghét nhất chính là đám oắt con nhà Miêu Đế.
Miêu Đế cha truyền con nối làm vua xứ Bình La ở Âm Giới này tự thời cách giới đến nay đã không biết bao nhiêu lâu. Thường nói Cổ Miêu tộc âm thịnh dương suy, ấy thế mà lầm. Miêu Đế đời nay chỉ lấy duy nhất một bà vợ, nhưng lại có đến năm đứa con trai, một đứa con gái. Miêu Đế và Miêu Hậu đức cao trọng vọng, các họ xa gần trong tộc Cổ Miêu cũng đều là những kẻ chân tu nho nhã, phải nói là đời đời phát huy quang đại, gia đạo hoan hỉ. Nhưng mà, cái đám mèo con này, ngày ngày tháng tháng chẳng chịu ngồi yên, chỉ biết chọc phá thiên hạ, làm người ta chán ghét lại không thể giận được lâu.
Đám con nhà Miêu Đế nổi tiếng đến nỗi, lão tổ gia nhà mộc tinh trong tiệc đầy tháng chít trai của mình vài năm trước còn phải chắt lưỡi bảo, “Sinh trai thì phải như Miêu Cẩm, sinh gái tuyệt đối không được giống Miêu Y Tâm.” Quan khách nghe xong đều muốn bật cười, lại ngại không dám cười. Cứ nhìn cái bản mặt thối của lão nhị Miêu Huyền nhà Miêu Gia đang ngồi trong tiệc thì biết, muốn cười cũng phải ráng nhịn về nhà đóng cửa mà cười. Chuyện mấy lão con nhà Miêu Đế vô cùng bao che khuyết điểm, khắp cái xứ Bình La này ai mà chả biết, còn may đấy là Miêu Huyền, chứ đυ.ng phải cái lão tứ Miêu Thanh nóng như lửa, không đánh cho ngươi vỡ mồm mới lạ đấy!
Lại nói đến đứa con gái nhà Miêu Đế, đứa con gái ấy, ôi thôi!
Phải biết rằng, lão tổ gia nhà mộc tinh là cái lão cây già quắt quéo, mấy ngàn năm qua chẳng bao giờ biết nổi giận xỉa xói ai bao giờ, vậy mà còn nhịn không được phải nói một câu cho hả dạ, thì đủ biết nàng quận nương này có tầm ảnh hưởng lớn biết chừng nào. Còn nhớ năm đó, khi Miêu Y Tâm vừa học thuật kim khí xong, đã chế ra được một thanh Đoạt Hồn Kiếm, coi như cũng có chút tài cán. Nhưng lão tổ gia nhà mộc tinh thì cũng có mắc gì tới thành tựu chi chi đóa đóa ấy đâu, vậy mà lại bị cái con bạch miêu ấy chơi cho một vố, cuỗm mất lõi mộc. Cho dù chỉ là một đoạn nhỏ, nhưng lão vẫn tức sôi gỗ, bởi vì cái lõi mộc quý giá ba ngàn năm tinh lọc ấy của lão lại bị mang đi làm vỏ kiếm.
Lão mộc tinh giận lắm, nhưng chỉ vì một câu nói của con mèo ấy mà không nỡ động đến một sợi lông mao của nó, “Tiểu nữ tư chất kém cỏi, lão sư bảo cả đời này chắc chỉ thành tựu được thanh kiếm ấy, muốn giữ cho tốt chỉ có cách xin mộc tinh gia một ít lõi. Thôi thì mộc gia có giận, cứ rút của tiểu nữ một khúc xương đi, cùng lắm là cà thọt cả đời thôi. Tiểu nữ cũng chẳng được duyên dáng như mộc tỷ, e rằng đời này cũng chẳng ai chịu lấy, thọt cũng chả sao!” Nói thế mà cũng nói được, mộc tinh lão tổ gia cuối cùng cũng không trách được con bạch miêu nhà ấy. Lại thầm nghĩ, nếu mà ta rút của ngươi dù chỉ một đốt xương móng tay, chả cần đến lão cha ngươi, mà cái đám lão ca của ngươi thôi cũng đủ rút của cả nhà mộc tinh ta một mớ lõi mộc rồi!
Đấy là chút ân oán của mộc tinh lão tổ với nàng quận nương nhà Miêu Đế. Còn với cư dân các tộc ở Bình La thì chỉ là chút chuyện trộm gà đánh chó đạp nóc nhà đốt hầm xí cỏn con mà thôi. Bé như hạt mè, í mà góp lại chỗ này một đống, chỗ kia một nùi, thành ra lại gom được cả kho. Vậy nên lý giải vì sao nhà đầu chốc đông như vậy, nhưng khi đυ.ng mặt nàng quận nương này vẫn phải đi đường vòng cũng thật đơn giản: người ta gây chuyện với ngươi; ngươi mắng không được, đánh chẳng xong, thôi thì cứ lánh đi cho bớt chuyện.
Dĩ nhiên, đây chỉ là oán niệm của người bị hại, còn kẻ hại người lại chẳng mấy khi ý thức được điểm ấy. Chả biết khi Miêu Đế đặt cái tên này cho con gái có thêm thắt bùa chú gì hay không, mà đứa con gái này càng lớn, đầu thì nhiều não nhưng tâm lại rỗng tuếch. Phá phách, mắng chửi, đánh đập, lại phá phách, cứ thế mãi một vòng tuần hoàn. Nếu không có Miêu Gia uy phong, không có năm vị quận tử bao che khuyết điểm, không có một đại gia đình yêu quý như mạng, thì làm sao dưỡng thành một cái Miêu Y Tâm vô tâm vô phế đến nhường ấy.
Miêu Y Tâm kéo mũ trùm, lộ ra một đầu tóc trắng nổi bật giữa sắc trời sẫm tím, ngẩng mắt nhìn về rừng cây bên kia bờ, giơ ngón tay nhỏ nhắn chỉ trỏ, đối với ánh mắt đầy oán niệm của nhà đầu chốc chỉ thốt lên một câu, “Các huynh nhìn xem, một rừng minh châu!” vừa dứt lời, con cốt mã đang uống nước bên bờ suối của nàng bèn ngẩng phắt đầu, khịt mũi ném một cái liếc mắt khinh thường rõ to. Đáng tiếc, nó chỉ là một bộ cốt không da không lông, nhìn thế nào cũng không giống như đang lườm nguýt người ta, chỉ có hai cụm khói xám xịt xì ra từ hai cái hốc trên xương mặt, chỗ mà Y Tâm vẫn thường nhầm là mõm, cứ đem cỏ chết nhét vào.
Miêu Thanh cùng Miêu Lam thả ngựa, đi tới cạnh Y Tâm, theo hướng tay nàng ngẩng đầu nhìn sang bên kia bờ. Lão tứ Miêu Thanh bật cười, xoa đầu nàng, bảo, “Vậy thì đây là một đôi hỏa châu rồi! Lão ngũ, ngươi nhìn xem, chà, đây có phải hàng thượng phẩm không?”
Lão ngũ Miêu Lam khẽ nghiêng đầu, xoay tiêu ngọc trong tay, nhíu mày, “Đầu chốc à, sao càng ngày càng nhiều thế?” nói đoạn lại giơ đốt ngón tay lên nhẩm tính.
Lão tam Miêu Tử gấp quạt, gõ hai cái lên đầu hắn, bảo, “Đệ lại nhìn cỏ đoán cây, nhìn ngựa đoán người, lại nhìn đầu chốc đoán minh châu đi? Sợ người ta không biết quỷ toán Miêu Lam đệ là ai à?”
Bên cạnh, Y Tâm một tay khoát sau lưng, tay kia vung vạt áo, ngửa đầu nhìn trời giả bộ dáng của Miêu Lam mỗi khi đoán số, thán, “Thiên cơ, thiên cơ bất khả lậu!” chọc cho ngũ lão bật cười. Nghỉ ngơi được một lúc, lão đại Miêu Cẩm mới gọi mấy anh em tiếp tục lên đường trở về trang. Lúc dừng chân thì tay không, đến khi lên ngựa thì lại thấy hai bên hông cốt mã của Y Tâm treo lủng lẳng mấy con đuôi gai còn tươi rói. Miêu Huyền nhìn màu da ánh đồng, lại nhìn bên hông cốt mã của lão tứ treo một bao cóc trâu to ộp oạp thì không khỏi chắt lưỡi hít hà. Mật cóc trâu cùng mắt đuôi gai mà đem ngâm hỏa cốt hương thì cay nồng biết mấy.
Y Tâm liếc mắt nhìn bản mặt thèm nhỏ rãi của anh trai, giơ tay bẻ quặp chi trước của một con đuôi gai to tướng đang ra sức quẫy đập, khiến con vật co giật rồi treo đơ người, lủng lẳng yên lặng. Nàng cười tươi, “Mùa đông lười ra ngoài, anh em mình ở nhà ăn lẩu huyết dơi, nhấp hỏa cốt hương là sướиɠ nhất trần đời!”
Miêu Tử đánh mã về phía trước, làm như lơ đãng nói, “Cóc trâu cũng không nhất thiết phải đem ngâm nguyên con, đuôi gai lấy thịt chẳng lẽ vứt da à?”
Lão tứ Miêu Thanh cởi trần nửa người, tay vừa vắt khô áo, vừa la oang oang, “Ta phun! Tên quỷ thần y nhà ngươi khi nãy không chịu xuống nước bắt, bây giờ đòi chia phần thì phải nói sao cho hay chứ! Ngươi lại nghĩ ra cái thuốc dưỡng nhan cặn bã gì nữa rồi?”
Miêu Tử bung quạt, quay đầu nhìn Miêu Thanh cười híp mắt, “Dạo trước tứ nương có nhờ ta làm cho nàng ít kem dưỡng gót chân, ta lại đang thiếu ít mật cóc trâu. Ai, xem ra mùa đông này có người phải chịu nứt da chân đến tứa máu rồi…” hắn còn chưa dứt lời, đã thấy Miêu Thanh thúc ngựa lon ton chạy tới xum xoe nịnh nọt, cười không thấy mặt mũi đâu cả.
Miêu Cẩm ngẩng đầu, nhìn sắc trời tím ngắt chuyển dần sang đen, e rằng nếu không nhanh thêm chút nữa, thì sẽ không kịp bữa cơm chiều. Chuyến này mấy anh em kéo nhau đi Diễn Sơn chúc thọ cho Tỏa Tích Chân Nhân, đường đi đường về nom hết bẩy hôm. Lúc này, anh trai họ Miêu nào đó đang ôm tâm tình nhớ vợ thương con mà tâm huyết dào dạt. Hơn nữa, Miêu Cẩm lặng lẽ nhìn Miêu Y Tâm đang nói nói cười cười ở phía trước mà thở dài một hơi, nhẩm tính thời gian, chắc trong nhà đều đã chuẩn bị xong cả rồi… Chuyện này, ài, khó khăn vẫn còn ở phía trước…
Yên lặng đi bên cạnh Miêu Cẩm, anh út Miêu Lam lúc này mới nhàn nhạt lên tiếng, “Đại ca đừng lo, có lo cũng lo không tới.”
Trong ngũ lão Miêu Gia, thì được biết đến nhiều nhất là lão tam Miêu Tử và lão ngũ Miêu Lam. So với biệt danh Qủy Y của Miêu Tử, cộng với cái sở thích dụng y gϊếŧ người thì Miêu Lam vẫn tốt hơn nhiều. Được mệnh danh là quỷ toán, Miêu Lam sinh ra với cặp mắt có thể nhìn đoán tương lai sinh tử của hầu hết vạn vật. Miêu Lam xưa nay đoán quẻ chỉ có đúng chứ không sai, nhưng quỷ toán lại chẳng thể nhìn ra được tương lai của bản thân mình. Đối với thiếu sót này, Miêu Lam tự nhận mình vô cầu, nên lúc nào cũng điềm nhiên như không. Miêu Cẩm theo đường binh gia, xưa giờ không lệ thuộc vào bói toán tinh tượng, nhưng trước tương lai hạnh phúc của em gái mình lại không thể không lo. Miêu Lam nói như vậy, Miêu Cẩm lại càng thêm phân vân, chả biết cha mẹ quyết định như thế là đúng hay sai.
“Nói sao thì, bé con từ nhỏ tới giờ đều được chúng ta yêu chìu, nâng trên tay sợ vỡ, ngậm trong miệng sợ tan. Lúc này gả đi U Kỳ xa như vậy, lại phải làm dâu con nhà người ta, bảo không lo làm sao được?” Miêu Cẩm càng nói, càng cảm thấy không ổn. Cửa hôn sự này xem ra phải bàn lại, coi lại, xét lại, nghĩ lại cho kỹ rồi.
Trong khi Miêu Cẩm đang còn sầu não phân vân không thôi, Miêu Lam lại chỉ cười, vẫn một câu nói, “Số phận, chỉ có thể nhận chứ không thể từ. Muốn lo, cũng lo không tới, lo không nổi.”
Nhóm người ngựa tăng tốc. Tiếng cười nói, tiếng vó ngựa dần chìm vào bóng tối âm u. Cả những cặp mắt to đùng màu xanh lá của đàn đầu chốc cũng nhanh chóng nhạt nhòa trong hư vô. Chỉ có lời nói của Miêu Lam, mang theo giọng điệu nhàn nhạt vô ưu, tựa như đang đọc lời bình cho một vở kịch, cứ dập dờn, khi xa khi gần, vọng mãi trong tiếng gió hú bên đèo Đoạn Vân…
…Đoạn Vân cheo leo đồn vắng, phủ phục trong vách đá. Từ chân đồi nhìn lên, chỉ thấy bóng tháp canh xập xệ đến không thể xập xệ hơn được. Hai tên lính ngồi thu lu trên tháp, cuộn mình trong bộ quân phục sờn màu, mỗi tên ôm một cây thương mục. Binh Bát An Đông đánh một cái ắt xì, nước mắt nước mũi thi nhau xì ra cả, bực dọc mắng, “Nhóc Hà, cậu nói xem cái thời tiết ó đăm gì đây? Ban ngày thì nóng chảy mỡ, ban đêm lại lạnh như nước đá thế này?”
Không nghe được tiếng trả lời, quay sang mới thấy tên đồng đội họ Hà đang co rúc như con chim cú, khuôn mặt nhỏ nhắn vùi sâu vào trong áo, chỉ lộ ra đôi mắt khép hờ, thân hình lắc lư như sắp đổ, mà quả thật đổ nhào xuống tháp tới nơi rồi. An Đông thấy thế hoảng hồn, vứt cả cây thương gỗ mục của mình, nhào tới chụp đai lưng của họ Hà, lôi hắn lên thành tháp. Vừa kéo lên liền giơ bàn tay thô cứng vỗ vào mặt, rít gào, “Con bà nó! Tỉnh lại ngay cho ông nhờ! Bộ thèm ngủ sắp chết rồi hả?”
Họ Hà nào đó bị lay tỉnh, chớp chớp đôi mắt trũng sâu vì thiếu ngủ. Sau một lúc mới hoàn toàn tỉnh hẳn, cơn mộng sâu kia cũng nhanh chóng lùi xa. Lúc này, họ Hà ấy mới chua xót nhớ lại, mình bây giờ không phải đang ở nhà, ôi, ngôi nhà ấm áp, có giường êm nệm ấm, có điều hòa, có chocolate nóng, có laptop, có wifi… ôi, tất cả còn là mơ mà thôi… Lại nhìn cái tên Binh Bát An Đông vừa mới lay tỉnh mình, ôi, nào là tóc búi này, nón sắt này, áo giáp này, vải thô này,… từ trên xuống dưới có chỗ nào giống tiên nhân đâu?
Ôi, con mẹ nó, vì sao lại gặp phải cái tình huống ó đăm này… thật là muốn khóc quá đi thôi…
Chuyện, cũng phải lội ngược dòng thời gian về nửa năm trước. Trong một ngày nắng đẹp nọ, họ Hà nào đấy sau lần thứ n bị bắt quả tang ngủ gục nói mớ trong lớp, đã bị thẻ đỏ ra sân. Trên đường cưỡi xe đạp tung tăng tìm quán nét đánh võ lâm, chả biết là cái vận xúi quẩy sao quả tạ gì, lại đâm xe bể kiếng của người ta. Đền thì không đền, nhưng thế mà lại nhặt được một người chú. Không phải chú kết nghĩa gì gì đó, mà là chú ruột, máu mủ đàng hoàng. Họ Hà nào đấy suốt mười bẩy năm trời đều tự thôi miên mình là từ đá sinh ra nên mới cầm tinh con khỉ, là cháu chắt của Đấu Chiến Thắng Phật, ấy thế mà tự dưng lòi ra một người chú, kế đến là một người cha.
Lúc anh trai Du Ninh bảo, ngươi có thể nhận tổ quy tông, họ Hà nào đó thiếu điều muốn dựng ngón giữa. Thế sao mười mấy năm qua các người bảo tôi lạy cái gò mối kia làm quái gì? Sao không nói thẳng là tôi không phải từ đá sinh ra đi? Lại còn đặt cái tên chả ra làm sao cho cái gò mối ấy, ‘Hà Đinh Chi Mộ,’ đó là cái khỉ gió gì? Đạo phim tàu à?
Rất tiếc, khi sự thật bày ra trước mắt, họ Hà nào đó dưới da^ʍ uy của ông anh bà chị nuôi với thân phận thần quân – tinh quân của mình, đã chính thức câm nín triệt để mà chấp nhận số phận. Cũng còn may, tuy bên mẹ là tiên tộc, nhưng bên cha là người bình thường, một trăm phần trăm bình thường. Tiếc thay, họ Hà nào đó còn chưa kịp ăn mừng, thì nụ cười trên mặt đành bỏ nhà ra đi khi lần đầu tiên đứng trước cổng nhà nội.
Có từng nghe Tập Đoàn Hà Thiên thì biết, đấy, chính là cái tập đoàn tài chính năm nào cũng tài trợ cho mấy cái trường trong thành phố đấy. Ầy, cần gì nói xa nói gần, nói trực tiếp đi, chính là cái kho tiền vô hạn đề biển Hà Thiên đấy. Chú ruột phó tổng. È, cái danh từ này cao siêu quá, nói cho dễ hiểu, chính là quản lý của kho tiền. Thế chủ nhân là ai? Là ngài tổng. Ngài tổng lại là ai? Là một người họ Hà, tên Đinh, là cái người chưa chết nhưng đã được con gái lập mộ quỳ lạy như chết rồi ấy! Nói sao, khi họ Hà nào đấy được đưa đến trước giường bệnh của cha ruột, cho dù tuyến nước mắt đã bị tê liệt, ấy thế mà cũng cầm lòng không đặng gào khóc như mưa. Nhìn cha già nửa sống nửa chết nằm trên giường suốt mười bẩy năm qua, chưa lần nào tỉnh lại được, thì đủ hiểu sự tình ngày ấy xảy ra khắc nghiệt đến chừng nào. Họ Hà khóc cứ như là cha chết thật vậy, vừa khóc vừa gào, “Cha ơi là cha! Con gái đến rồi đây, cha có thể an nghỉ được rồi!!!” Vừa dứt lời liền ăn ba cốc u đầu.
Du Ninh thần quân cũng không kềm được mà thán một câu, “Hà Đinh a Hà Đinh, ngươi tạo cái nghiệt chi mà lại có một đứa con gái hiếu thuận như vậy? Bổn thần quân thật khâm phục, khâm phục ngươi sát đất rồi!”
Ta phun! Ta là chịu ảnh hưởng của ai? Chẳng phải là từ hai cái tên thần tiên biến chất các ngươi mà ra sao? Lại nghe nói, Du Ninh, Du Thi trước kia cũng phụ một tay nuôi dưỡng công chúa Tiên Tộc Mộng Thương, chính là phu nhân của Hà Đinh. Họ Hà nào đó thật sự hoài nghi, không biết mẹ hiền yêu dấu đang ở nơi nào đấy liệu có chịu ảnh hưởng từ bọn này không đây? Ai, đây thật sự là một điều đáng lo. Nhưng rõ ràng là, bọn người dã man kia hoàn toàn không có ý định để họ Hà nào đấy có tâm tình suy nghĩ vẩn vơ đến những vấn đề trọng yếu đó. Chỉ với một câu, “Nuôi quân ba năm, dụng quân một giờ. Hà Y Tâm, tới lúc báo hiếu rồi nha!” sau đó liền đem trọng trách tìm cứu mẫu thân gắn lên đầu nàng, sảng khoái mỗi người một chân đạp nàng qua Thiên Môn Quan, ném về tiên giới.
Ơn nghĩa sinh thành, làm con thì phải báo hiếu cha mẹ, điểm này nàng đồng ý. Nhưng mà, con bà nó, là kẻ nào bảo chỉ cần qua Thiên Môn Quan là tới được tiên giới, sau đó dẫn mẹ về phàm giới gặp cha là cả nhà đoàn viên cùng hát bài Ba Ngọn Nến Lung Linh? Là kẻ nào? Họ Hà ngửa đầu mắng trời giậm đất, đây mà là tiên giới à? Đây rõ ràng là dực giới! LÀ DỰC GIỚI! Các người có nghe rõ hay không không không ông ông ông ggggg!!!!
“Không không không ông ông ông gggg!!!” đó là tiếng đá núi gào trả. Kéo theo sau đó là một trận núi lở đất sụt. Họ Hà nào đó bị vùi trong đất lún, bùn nhão tràn miệng, đến mắng người cũng không còn hơi sức. Được người ta cứu thoát từ trận bùn trôi ấy, tưởng đâu thế là hết xui, ai dè chỉ an ổn được dăm bữa nửa tháng, trong nhà có lệnh tòng quân. Con bà nó! Đây rõ ràng là một đám quan lại đui mù, bộ không nhìn thấy trong nhà chỉ có hai ông bà già rụng răng với một đứa con gái chân yếu tay mềm sao? À, còn thêm một miệng ăn chực ở chực nữa. Nhưng mà những điểm ấy không quan trọng! Trọng điểm là, các ngươi rõ ràng muốn cướp người trắng trợn! Dám vỗ bụng xì một câu, “Theo gia, gia rút tên cho!” Ta phun! Em gái xinh đẹp hiền thục nhà họ Bách, gả cho con heo nọc nhà ngươi chẳng khác nào bông hoa lài cắm bãi phân trâu!
Thế là, trong một lúc máu huyết dâng trào, họ Hà nào đấy từ trong nhà vác gậy lao ra, đánh cho lão tổng già thành đầu heo, sau đó khăn gói lên đường tòng quân, coi như là đáp trả công ơn cứu mạng nhà họ Bách. Du Ninh, cái lão thần quân biến chất kia từng nói, có vay có trả, không nên để nợ dài lâu. Ngẫm lại, nói cũng đúng, nợ lâu quá thì sẽ sinh lãi, càng ngày càng chồng chất. Bản thân là một bán tiên chẳng có tu vi gì lợi hại rồi, lại còn mắc quá nhiều nợ hồng trần, về sau muốn thăng chức cũng khó. Thôi thì, vì tương lai tiên lộ, có vay nên trả sớm cho rầu.
May mắn, nhà họ Bách cũng không khá giả lại qua một trận lụt, trong nhà đã thiếu thốn, rốt cuộc cũng chẳng còn lại gì, nên khi Y Tâm đến ở ké, trên người chỉ mặc duy nhất một bộ đồ rách của lão Bách. Khâu khâu vá vá, suốt ngày lội bãi cạn mò cua bắt ốc, khắp người lúc nào cũng nhem nhuốc bẩn thỉu, nhìn vào cứ như một tên nhóc thúi. Vậy nên khi tòng quân, bọn quan nha cũng chả thèm liếc thêm cái nào, liền ghi xong thẻ bài cho nàng, lấy cái tên Bách Hà, là hai họ Bách, Hà gộp lại, nghe cũng không tệ. Dĩ nhiên, dù là bán tiên thì cũng được chút tài lẻ, cái màn dịch dung truyền thuyết là không thể thiếu.
Nhiệt Thành là cái thành chim không đẻ trứng giáp ranh biên giới, nên quân doanh cũng đóng gần đấy. Quân doanh có hai đội, thuộc hai nhà Đỗ, Lưu. Sau khi trải qua một cuộc sát hạch chả ra làm sao, họ Hà nào đấy được phân về Đỗ Quân, làm một Binh Bát vô danh tiểu tốt, ngủ chung lều chõng với bẩy tên đàn ông thối khác. Từ sơ đến thân quen được rất nhiều người nhờ vào tài chân chó nịnh bợ học được từ Du Ninh, họ Hà rất được các vị lão Binh Bát ưu ái, gọi một tiếng nhóc Hà. Tại đây, họ Hà quen thân được một gã tên An Đông, là con nhà nông chính cống. Tướng tá to như khỉ đột, da dẻ đen nhẻm, mặc dù nhan sắc cũng coi như tạm chấp nhận, nhưng bù lại là mấy khối thịt kia kìa. Chu choa, cứ sau mỗi buổi thao dợt xong, nhìn hắn lột trần, cơ bắp săn cuộn lên, bóng loáng mồ hôi, khiến họ Hà âm thầm lau nước miếng. Lại nói, trong quân doanh, phụ nữ chỉ có mấy dì nấu bếp, thêm một tên quân y đồ tể, thì toàn bộ còn lại đều là mấy tên thú vật kiểu này.
Ban đầu họ Hà nào đấy còn nơm nớp lo sợ, bằng mặt không bằng lòng với cái trò giả trai tòng quân rất chi là vớ vẩn, nhưng ngay sau buổi dợt quân đầu tiên, thì những thứ râu ria ấy đều bị cạo sạch rửa trôi! Lại qua hơn một tháng, họ Hà đã sớm quên nhẵn bản thân mình còn là con gái, công chúa Hà Thiên gia tài bạc tỷ. Bởi mới nói, mỹ sắc no cơm, hiện tại, họ Hà kia còn ra chiều rất hưởng thụ cuộc sống tòng quân này. Dĩ nhiên, nếu mỗi đêm không phải trèo lên tháp thức gác như đêm nay thì lại càng tuyệt cú mèo!
Mấy ngày nay, trong đầu Y Tâm bắt đầu hình thành một ý niệm: nếu có thể tìm được mẹ sớm một chút, ném bà ấy về phàm giới chơi trò đoàn tụ với cha già, thì bản thân có thể tiếp tục ở trong cái quân doanh này ngốc thêm một thời gian nữa cũng được. Dù gì thì sau khi tìm được mẹ rồi, cũng không còn gì làm. Cha mẹ sinh ly tử biệt lâu như vậy, cũng nên cho bọn họ một thời gian ôn lại tình cảm, nhể? Nói chơi, không phải là mười bẩy năm như trong tưởng tượng, mà là những một ngàn bẩy trăm năm! Đây đều là nhờ vào tài lẻ của Nguyệt Thời Tinh Quân Du Thi đấy!
Nghĩ tới anh em họ Du mang theo một đứa bé lăn lộn trong vòng thời gian suốt một ngàn bẩy trăm năm để giữ cho mình một cuộc sống của đứa trẻ bình thường mười bẩy tuổi, tự dưng cảm thấy bọn họ cũng có chút thành tựu nha. Nhưng mà, họ Hà liếc An Đông đang đứng gác bên cạnh, không khỏi thở dài một hơi. Đây chẳng phải là trâu già gặm cỏ non rồi sao? Đùa gì chứ, không phải là hơn kém một hai năm, mà là một ngàn mấy trăm năm nha, cảm giác bản thân thành quỷ rồi, ôi thành quỷ mất con bà nó rầu!
“Uống chút đi cho ấm!” An Đông lén lút đẩy vào trong ngực nhóc Hà cái bình sứ.
Y Tâm ôm cái bình trong lòng, nhướn mày nhìn An Đông, nhá mắt cười cười, “Này nha! Dạo này được người đẹp chăm sóc đến cả giấc gác đêm, chả trách! Chả trách!”
An Đông đưa bàn tay thô to gãi đầu, ánh đuốc dưới gió bập bùng chiếu lên gương mặt đen như than của hắn, lắp bắp, “Làm… làm gì có!”
“Không có? Vậy sao rượu này có mùi hồng nha?” Y Tâm nhả nhớt, bật nắp bình ngửi ngửi.
“Thằng nhóc thối! Không uống thì đưa đây!” An Đông thẹn quá hóa giận, giơ tay định chộp lại bình rượu.
“Ấy nào! Lòng tốt của anh em, làm sao dám khước từ!” họ Hà nhảy lại mấy bước, vội vàng bưng bình tu vài hơi. Rượu chảy trong cổ họng, ban đầu lành lạnh, tọt xuống bụng lại như thả một mồi lửa, ấm áp ngất ngây. Mặc dù ở nơi này không thể tìm được rượu ngon như ở nhà, nhưng giữa trời đêm giá rét, một ngụm rượu loãng, có còn hơn không.
Nhìn bình rượu rỗng được An Đông lau chùi cẩn thận rồi nhét trở vào ngực áo, Y Tâm nhịn không được hỏi, “Anh làm gì vậy? Bình không mà cất lại mẩn chi?”
An Đông vòng hai tay trước ngực, ấp úng mãi không nói thành lời. Chợt nghe có tiếng người từ trong doanh đi đến, còn thêm ánh đuốc lập lòe, rõ ràng là có kẻ nào ăn no rững mỡ giữa đêm không ngủ muốn đi kiểm binh! Họ An quýnh quáng quay mòng như dế. Họ Hà lại nheo mắt nhìn, cái tướng cao to vạm vỡ, mũ giáp chỉnh tề, tay đặt trên cán đao giắt sau lưng, theo sau là một tốp phó binh, còn có thể lầm lẫn được sao? Con bà nó, còn ai khác ngoài Đỗ Đậu Đen?
“Làm sao? Làm sao bây giờ?” họ An gấp như kiến bò chảo nóng.
Y Tâm nhào tới, lôi cái bình rỗng từ trong ngực áo của hắn ra, mắng, “Đồ ngốc! Còn không biết phi tang chứng cớ?”
“Làm… làm sao phi tang?” nhìn đám tướng soái đang bắt đầu leo lên cầu thang, họ An thiếu điều cắn lưỡi.
“Vứt đi là xong!” họ Hà vừa nói vừa hành động, làm một thế ném cực kì đẹp mắt, tống tiễn cái thứ có nguy cơ hại cả hai đứa ăn đòn mềm xương khỏi tháp. Cả hai vừa đứng nghiêm chỉnh, thì nhóm tướng soái cũng leo lên tới nơi. Thiệt là… dây thần kinh phải thô mới được nha!
Thế mà còn chưa kịp nghiệm thu thành quả, đã nghe phía xa xa trong bóng đêm, một âm thanh cực kì không thích hợp vang lên, “AI DA! BỂ ĐẦU RỒI!!” Mặc kệ cái lý do xuất phát của tiếng kêu kia, chỉ cần biết, khi trong phạm vi canh gác của bạn có động, tức là có mai phục.
Trước khi mọi người kịp phản ứng, Y Tâm đã nhào tới dây chuông, ra sức mà lắc, vừa lắc vừa gào, “BÁO ĐỘNG! BÁO ĐỘNG! CÓ PHỤC KÍCH!! BÁO ĐỘNG!!!” tức thì, cả doanh trại bừng sáng ánh đuốc. Đỗ Đậu Đen quả không hổ danh tướng quân con nhà nòi, ngay khi Y Tâm đánh chuông báo động, hắn đã từ tháp canh phóng ra ngoài. Theo sau là nhóm phó binh, phó soái lão luyện, một bầy vũ bão biến mất vào trong màn đêm phía trước. Khi Lưu Hùng dẫn quân mang đuốc thắp sáng cả một góc đèo thì cũng vừa lúc nhóm Đỗ Đậu Đen trở lại, mang theo năm tên nhóc mặc quân phục. Y Tâm và An Đông đứng trên tháp nhìn xuống không khỏi há hốc mồm. Cái bọn nhóc kia đều mặc y phục dạ hành, đầu còn cột một cái khăn đen ngang mũi! Này, cũng thật quá là trúng mánh rồi! Một tên trong số chúng còn đang ôm cái đầu máu, khóc không ra lời…
Sáng sớm hôm sau, trong buổi dợt binh như thường lệ, tên tướng quân họ Đỗ nào đấy vì muốn cỗ vũ tinh thần chiến sĩ, quyết định sảng khoái tuyên dương họ Hà và họ An nào đấy. Rõ là chó ngáp phải ruồi, Hà Y Tâm từ một Binh Bát gác cổng vô danh vô thố được thăng làm Binh Nhất. Còn tên họ An hay e thẹn kia thì được đá lên làm Binh Nhì. Sự thăng chức không cần thiết này khiến họ Hà buồn rầu không thôi. Nghĩ mà xem, nếu chỉ là một tên lính quèn, khi lâm trận còn có thể thoải mái bỏ chạy mà không sợ người ta biết nha. Nhưng nếu được thăng chức, còn được tuyên dương trước đám đông, ra trận mà chạy thì không cần hỏi cũng biết cái đám thú vật này nhất định sẽ lôi mình lên thớt mà băm cho hả dạ…
Mặc dù ù ù cạc cạc được lên chức, lương cũng được thăng từ mười đồng lên mười đồng năm hào, ôm tâm tình không mấy vừa ý nhưng vẫn không ngăn cản được họ Hà nào đó vui đến quên trời đất trong bữa tiệc mừng của cái đám thú vật cùng lều. Trên bàn rượu, trái ôm phải ấp, từ khi lạc trong cái doanh trại toàn mãnh nam này, họ Hà kia đã triệt để bị tẩy não. Vốn dĩ trước kia đã không phải là thứ thục nữ gì cho cam, mặc áo dài vẫn có thể cột tà đánh nhau, nhưng ít ra vẫn còn có chút gì đó của thiếu nữ. Bây giờ thì, ai, nếu mà Du Ninh, Du Thi hai cái vị thần quân ấy mà nhìn thấy cảnh này, không chừng sẽ lộn cổ từ trên mây xuống mất. Sau một hồi i a vô lại cùng cái đám thú vật kia, họ Hà cọ đùi, ôm bụng thịt đứng lên, ợ một câu, “Toilet!” rồi khệ nệ chân trước chân sau đi khỏi phòng bao.
Trên bàn rượu, một gã tướng trâu mặt đỏ như gấc quay sang chộp vai An Đông, lè nhè hỏi, “Toi lét là cái giề vậy? Hức? Cái thằng nhóc đó… hức… nói cái giề vậy?”An Đông nấc lên, lắc lắc đầu, ầm một cái, cả thân người to như quả núi mini đổ rạp trên bàn nhậu.
Quán rượu về đêm càng lúc càng nhộn nhịp. Tiếng đàn ca múa hát, tiếng cười nói chửi bới, tiếng cụng bình vỗ bàn, ôi thôi, ồn đến không thể nào ồn hơn được nữa. Y Tâm chộp vai tên bồi bàn ở ngoài hành lang, hỏi toilet ở đâu. Ú a ú ớ một hồi mới thả cho người ta đi, lầm bầm chửi rủa cái quán nhậu này phục vụ thiệt kém.
Phía trước cuối hành lang xuất hiện một đám người, một tên đi trước vén rèm cho người phía sau đi tới, thái độ rất ư là cung kính. Ở giữa cái chỗ hỗn tạp gà chó này, xuất hiện một nhúm người như vậy, nghiễm nhiên sẽ làm không ít người nghi ngờ. Tuy nhiên, xét thấy tình hình hiện tại, cái đám trâu chó trong quán đều đã xỉn đến quên hết cha mẹ vợ con mình là ai thì làm gì còn đầu óc mà nhòm ngó ai đâu chứ!
Dẫn đầu bước ra là một thanh niên trẻ, vai khoác gấm bào đen, trong vận trường bào cũng một màu đen thêu văn chìm. Người này thoạt nhìn vô cùng tao nhã, da dẻ trắng trẻo, răng sáng môi hồng, một đầu tóc đen xõa dài, sợi cước bạc vắt xuống một bên vai. Nhưng ánh mắt lại hiển rõ sự bài xích, tựa như trước ngực có treo bảng ‘người và thú chớ gần’ vậy, khiến cho đám người đi theo cũng e ngại nhiều phần.
Ấy nhưng có kẻ lại say đến quên hết đất trời rồi, hiện chỉ muốn tìm một chỗ có phong thủy tốt để giải quyết, giác quan hay cảnh giác gì gì đó, vứt cho rảnh! Đang lầu bầu tìm chỗ phóng, thì đυ.ng một cái bật ngửa ra sàn. Y Tâm ôm mặt rêи ɾỉ, cảm giác say bị thổi bay hết mấy phần. Cái lỗ mũi muốn gãy luôn rầu! Mắt còn chưa nhìn rõ người ta, đã tay chỉ mồm mắng, “Con bà nó đứa nào đυ.ng gia? Đυ.ng muốn gãy mũi luôn nè! Bộ đui rầu sao?”
Người thanh niên đứng đờ ra, nhìn cái đống bùi nhùi đang lăn lộn trên đất, lại nhìn ngực áo của mình, nghiễm nhiên còn dinh dính cái gì đó. Trong khi hắn khẽ nhíu mày, đang có ý định vứt bỏ cái áo khoác thì tùy tùng của hắn đã nhảy ra trước, nắm cổ áo tên say rượu kia lôi dậy, mắng, “Thằng oắt con láo lếu! Có biết người ngươi vừa động tới là ai không hả? Con bà nó còn mắng người? Hôm nay ông đây thọc cho mắt ngươi sáng luôn mới được!”
“Văn Hưng, đừng nóng! Hắn say rồi!” một thanh niên vận trường bào màu xanh sẫm từ phía sau tiến tới, kéo tay áo Văn Hưng.
“Phùng Thiếu, cái thằng nhóc này không cho nó một bài học là không xong!” Văn Hưng vẫn còn giận. Thiệt là sôi máu mà, nếu không phải vì cái tên ăn hại nhà họ Nghiêm kia bị bắt thì Tứ Gia của hắn đâu cần phải tới cái chỗ khỉ ho cò gáy này? Nghiêm Gia, toàn là con mẹ nó, một lũ ăn hại!
Càng nghĩ càng tức, Văn Hưng một đấm giơ lên, đang định tạc banh mặt thằng oắt thì Tứ Gia của hắn đã lên tiếng, “Văn Hưng.” Chỉ một tiếng gọi nhàn nhạt không lớn không nhỏ, cũng đủ khiến một gã lưng hùng vai gấu như Văn Hưng hắn phải rùng mình. Ngay trong lúc họ Văn phân tâm, thì họ Hà nào đấy rất lanh tay lẹ chân phản pháo. Hai ngón tay chữ V giơ lên, bụp một phát chọc cho họ Văn mém chút lòi luôn cặp mắt, còn may, từ ngày nhập ngũ nàng đã có thói quen cắt móng tay, nếu không thì đã thấy máu rồi. Họ Văn hai tay bưng mặt, rú lên một tiếng như chó tru. Họ Hà lật tà áo, tung ra ngón nghề tuyệt hảo: “Chưa hết đâu, hãy xem Tuyệt Tử Cước của gia đây!!”
Họ Văn trúng chiêu, ngay cả tru cũng tru không nổi, cụm hai đầu gối, đổ ầm xuống đất, co giật. Nhóm đàn ông đứng sau cái người được gọi là Tứ Gia kia, và Phùng thiếu đều đồng loạt khép chặt đùi, cảm giác đau nhức trừu tượng, vô cùng trừu tượng. Phùng thiếu kia xanh mặt lùi lại, nhìn chằm chằm thiếu niên vóc người nhỏ nhắn, mặt mũi cũng coi như có phần thanh tú kia, không thể nhịn được mà lầm rầm một câu, “Nhỏ nhưng có võ… nhỏ nhưng có võ…”
Họ Hà nào đó phủi vạt áo, vỗ vỗ tay, giơ chân khuyến mãi thêm một cước vào mắt cá họ Văn, quẹt mũi khinh bỉ, “Hừ! Cho ngươi về thắp nhang lạy ông bà phù hộ! Phù hộ cho… à mà hắn họ gì ấy nhể?”
“Họ Văn! Hắn họ Văn!” Phùng thiếu trong lúc nhất thời bàng hoàng, hỏi gì đáp nấy thực là ngoan.
“Cám ơn! Phù hộ cho họ Văn ngươi đời này có thể nối dõi tông đường! Dám chặn đường ông đây! Ông nội nhà ngươi thấy ông còn phải đi đường vòng! Thật là không biết lượng sức! Hừ!!” nói xong hất hàm thẳng hướng nhà xí mà đi, cũng chẳng để ý xem ánh mắt lạnh buốt lặng lẽ dán lên tấm lưng gầy nhỏ của mình có bao nhiêu đáng sợ trong mắt những người khác.
Tứ Gia thu hồi tầm mắt, giơ chân, tặng thêm một cước cho tên thuộc hạ có đầu nhưng không có óc đang lăn lộn trên đất, giọng vẫn lạnh te, “Còn nằm đó?”
“Đau… Tứ Gia… đau quá à…” Văn Hưng chật vật bò dậy, nước mắt nước mũi tràn trề như đê vỡ.
Tứ Gia của hắn lại nhếch miệng cười, nụ cười có biết bao nhiêu tao nhã quý khí, nhưng lời phát ra lại khủng bố, “Vậy thì cắt luôn đi, sau này cũng không sợ bị đá trúng nữa? Để ta giúp ngươi một tay, hửm?”
Văn Hưng lập tức bật dậy, nhịn đau đớn lắc đầu, “Hết đau rồi! Không còn đau nữa! Chỉ là hở chút gió thôi mà, không đau gì hết trơn!”
Nụ cười lập tức thu lại, Tứ Gia quyết định vứt luôn tấm áo choàng mà hắn cho là đã dính cái gì kia, cất bước rời khỏi quán nhậu. Trên đường phố giữa đêm liền xuất hiện một tốp người ngựa phóng đi vô cùng khả nghi. Đặc biệt cái tư thế cưỡi ngựa của một tên trong số đó càng khiến người ta nghi ngờ hơn. Lại nói, bây giờ đã hơn nửa đêm, gió rét như vậy, trừ mấy tên chè chén bết nhác kia ra thì còn ai rảnh mà mở cửa ló đầu ra nhìn ngựa phi? Không có rảnh dữ vậy đâu!