Kẻ Trộm Mộ

Chương 13: Ước hẹn ba người

Tôn Kim Nguyên hưng

phấn nói: “Yên tâm đi, tớ tin Phật mà, không sát sinh đâu, ha ha! Nói

thật với cậu, vàng bạc châu báu, vinh hoa phú quý gì đó kỳ thực chỉ là

thứ yếu mà thôi, cậu còn nhớ lúc ở trong Đại Hạp Cốc, chúng ta từng bị

cù sưu cắn không? Tớ đã kể chuyện này với sư phụ, ông cho rằng cù sưu

rất có thể chính là sâu độc mà Lương Vương nuôi dưỡng năm xưa. Tuy đã

nhiều năm trôi qua, chúng ta vẫn bình an, không xảy ra chuyện gì nhưng

tớ rất sợ sau này sẽ có biến cố xuất hiện, do đó, trong lòng vẫn luôn

thấp thỏm bất an. Sư phụ nói chúng ta muốn thanh trừ hoàn toàn chất độc

trong cơ thể thì nhất định phải tìm được mộ Lương Vương thật sự, hòa vào nước uống, như thế mới có thể đảm bảo an toàn cho bản thân được. Do đó, lần này tớ tới đây chủ yếu là để bàn bạc chuyện này với các cậu, vì sợ

cậu khó chịu với việc trộm mộ nên mới phải nói lê thê một hồi như thế để thuyết phục cậu trước, chứ không đến lúc đó, lập trường của cậu không

kiên định thì gay to. Tình hình dưới mộ không ai có thể lường trước

được, rnột khi không tập trung, hậu quả sẽ vô cùng thê thảm.”

Tôi tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi: “Tại sao cứ phải dùng xương của Lương Vương mới có thể giải được độc vậy?”

Tôn Kim Nguyên đáp: “Việc này nói kĩ ra thì dài lắm, để tớ giải thích sơ

qua cho cậu hiểu vậy. Nghe sư phụ tổ nói, nếu ai đó trúng phải Cổ độc

thì chỉ có ba cách để giải độc mà thôi. Cách thứ nhất là tự tay gϊếŧ

chết người nuôi Cổ. Cách thứ hai là nhờ người nuôi Cổ đích thân giải độc cho mình. Con cách thứ ba thì chính là như tớ vừa mới nói. Mà cậu cũng

biết rồi đấy, Lương Vương đã chết được sáu trăm năm rồi, hai cách đầu

hiển nhiên không thể nao dùng được nữa, cho nên chúng ta chỉ có thể dùng cách thứ ba mà thôi.”

Tôi rốt cuộc đã hiểu được đại khái nguồn

cơn, có điều về mặt này, tôi quả thực là người ngoại đạo, bèn nói: “Mấy

chuyện này tớ không hiểu lắm, đành trông cậy vào cậu thôi. Chúng ta rốt

cuộc cần chuẩn bị những gì vậy?”

Cậu ta xua tay, nói: “Tớ chỉ cần duy nhất một món đồ ở chỗ cậu thôi, chính là thứ mà chúng ta nhặt được

bên cạnh vị tiền bối xương khô trong gian phòng đá kia ấy.”

Lúc

xưa, tiền bối xương khô Trương Duy Trí viết trên giấy rằng có ba món đồ

tặng cho người có duyên để làm thù lao cho việc giúp ông ta báo thù,

trong đó có hai cái móng vuốt một đầu bọc kim loại, một đầu sắc bén, thứ còn lại là một miếng ngọc rất thơm. Sau khi về trường, tôi và Tôn Kim

Nguyên mỗi người giữ lấy một cái móng, miếng ngọc kia thì đưa cho Vương

Tiên Dao. Nhà Vương Tiên Dao vốn mở tiệm bán đồ cổ, cô nàng vừa nhìn đã

nhận ra ngay miếng ngọc là một món đồ cổ tốt, nên tỏ ra vô cùng kích

động.

Thực ra thời đại học của tôi trôi qua một cách hết sức nhạt nhẽo, thoắt cái đã hết cả bốn năm, chẳng có việc gì đáng để hoài niệm.

Duy có lần du ngoạn cửu tử nhất sinh đó là làm tôi nhớ mãi, mồi lần hồi

tưởng lại là đều có cảm giác việc như mới vừa xảy ra, cho nên vật duy

nhất mang về được trong lần đó, tôi đương nhiên vẫn luôn giữ kĩ để làm

kỷ niệm, lúc này nghe Tôn Kim Nguyên nhắc tới thì nói ngay: “Cái móng ấy tớ vẫn luôn cất kĩ, còn thường xuyên lấy ra xem, mỗi lần nhìn thấy nó

là lại nhớ về chuyện thửo nào. Nói thật, chuyến đi đó của chúng ta tuy

nguy hiểm thật nhưng đúng là rất kí©ɧ ŧɧí©ɧ, mong là cuộc tìm kiếm dạ

minh châu lần này cũng được như vậy.”

Nghe tôi nói vậy, Tôn Kim

Nguyên hô liền mấy tiếng “hay”, sau đó nói: “Ngày mai, cậu mang cái móng ấy tới đây rồi chúng ta cùng đi tìm Tiên Dao, chỉ cần mượn đưọc miếng

ngọc của cô ấy nữa là chúng ta có thể xuất phát được rồi. Theo ý tớ,

chuyện nay tạm thời không cần phải nói với Tiên Dao vội, chờ sau này

giải độc cho cô ấy luôn thể là được rồi, kẻo cô ấy lại lo lắng.”

Tôi nghe mà chẳng hiểu ra sao, bèn hỏi: “Cái móng và miếng ngọc rốt cuộc có tác dụng gì vậy?

Tôn Kim Nguyên cười tủm tỉm, nói: “Việc này xin cho phép tớ tạm thời bảo mật, không bao lâu sau, cậu khắc sẽ tự biết thôi.”

Hết cách, tôi đành về nhà tìm lấy cái móng kia, lại nói với người nhà là

mình phải đi xa một chuyến bàn chuyện làm ăn, rồi thu dọn qua loa đồ

dạc, chờ đến chiều tối thì tới khách sạn kia hội họp với Tôn Kim Nguyên

vốn đã chuẩn bị xong xuôi từ sớm.

Nhà của Vương Tiên Dao nằm ở

thành phố Cát An tỉnh Giang Tây. Hồi học đại học, tôi và Tôn Kim Nguyên

đã từng tới đó mấy lần. Nhưng sau khi lập gia đình, cô nàng đã chuyển

đến sống ở đâu thì chúng tôi không hề hay biết.

Chúng tôi lên xe

khởi hành vào lúc mười giờ tối, đến năm, sáu giờ sáng hôm sau thì đến

nơi. Sau khi xuống xe, chúng tôi kiếm một chỗ ăn sáng qua rồi đi tìm cửa hàng đồ cổ trong ký ức, trong lòng thầm mong nó chưa bị chôn vùi giữa

dòng thời gian.

Chúng tôi cùng bước đi trên Thiên Nhai - một con

đường dành riêng cho người đi bộ. Sau khi đi qua một ngã rẽ thì thấy

trước mặt xuất hiện một cửa hàng cổ kính, ba chữ lớn mạ vàng “Thư Cổ

Trai” trên tấm biển trước cửa hàng vẫn y như thuở nào.

Lúc này,

cửa hàng rất vắng vẻ, chẳng có dù chỉ một vị khách. Phía sau quầy hàng,

một người phụ nữ đang ngồi nghịch máy tính, dáng vẻ thoạt nhìn tuy không xinh xắn dễ thương như các cô gái trẻ tuổi nhưng lại toát ra một nét gì đó hết sức quyến rũ động lòng người. Đưa mắt nhìn quanh, chúng tôi thấy cách bố trí trong cửa hàng tuy đơn giản nhưng không kém phần trang nhã, bước đi trên mặt sàn lát gỗ sạch sé không dính một hạt bụi, lại ở giữa

những món đồ cổ đủ mọi chủng loại, kiểu dáng, chúng tôi như có thể ngửi

thấy một thứ mùi xa xưa thăm thẳm, cảm giác vô cùng đặc biệt.

Thấy chúng tôi đi vào, người phụ nữ đó vội càng đứng lên, để lộ một nụ cười

mà lâu lắm rồi tôi mới được thấy lại. Từ lúm đồng tiền trên đôi gò má

kia, tôi nhận ra ngay người này chính là Vương Tiên Dao.

Không

đợi cô nàng mở miệng, tôi và Tôn Kim Nguyên đã đồng thành hô to ba chữ

“Vương Tiên Dao”. Vương Tiên Dao nhìn hai chúng tôi suốt một hồi lâu vẻ

nghi hoặc, rồi mới kinh ngạc kêu lên: “Bạch Vân Sơn, Tôn Kim Nguyên, hóa ra là các cậu!”

Vưong Tiên Dao vẫn nhiệt tình giống hệt như xưa, lập tức chạy tới ôm chẩm lấy hai đứa chúng tôi, sau đó nhất quyết

kéo chúng tôi đi uống cà phê.

Trong một gian phòng riêng của nhà

hàng kiểu Tây Babela, chúng tôi ngồi ôn lại chuyện xưa, kể về cuộc sống

của mỗi người bây giờ, sau đó mới bắt đầu nói tới chuyện chính. Kết quả

là Vưong Tiên Dao cũng giống như chúng tôi, vẫn nhớ như in chuyên đi tới Đại Hạp Cốc năm nào, còn miếng ngọc kia thì bấy lâu nay vẫn chưa từng

rời khỏi thân thể, lập tức lấy ra cho chúng tôi xem, còn nói là đã làm

rõ được lai lịch của nó.

Vương Tiên Dao nói: “Loại ngọc này có

tên gọi là Văn Hương, quanh năm tỏa ra một thứ mùi thơm nồng đậm, đeo

trên người thì không cần dùng nước hoa mà vẫn luôn toả hưong thơm. Hơn

nữa, có thứ này rồi thì uống cà phê hoàn toàn trở thành một việc làm

thừa thãi, bởi mùi thơm của nó có công dụng làm tinh thần hưng phấn,

thành ra những khi mất ngủ tớ thậm chí chẳng dám để nó trong phòng. Mà

nó còn có một tác dụng khác nữa, nhưng nói ra các cậu đừng bảo là tớ mê

tín đấy nhé! Nghe đồn thứ này còn có thể dùng để tránh tà, ai đeo nó

trên người thì lũ tiểu yêu tiểu quủ đừng hòng làm gì được. Thực ra,

miếng ngọc Văn Hương này có lai lịch lớn lắm, nói ra có lẽ các cậu không tin đâu. Nó là bảo vật trấn phái của phái trộm mộ miền Nam, cho nên bộ

xương khô Trương Duy Trí kia đeo nó trên người không chỉ là để làm đồ

trang sức như suy nghĩ của chúng ta trước kia đâu, có lẽ bên trong đó

còn ẩn chứa bí mật gì nữa đấy!”

Tôn Kim Nguyên một mực im lặng

lắng nghe, cho Vương Tiên Dao nói xong thì mới cười ha ha, nói: “Hóa ra

những việc này cậu đều đã biết cả rồi. Vậy thì tớ cũng không cần phải

giấu giếm thêm nữa. Lần này, bọn tớ tới đây là muốn mượn miếng ngọc Văn

Hương nay của cậu về dùng tạm.”

Vương Tiên Dao nhìn hai chúng tôi bằng ánh mắt hoài nghi, sau đó liền tỏ vẻ nghiêm túc nói: “Khai mau, có phải các cậu lại chuẩn bị đi làm việc gì đó xấu xa không thể để cho

người khác biết không? Không được đâu nhé!”

Tôn Kim Nguyên thản nhiên nói: “Chỉ là trộm mộ mà thôi. Cậu không cần tỏ ra kinh ngạc như vậy làm gì.”

Tôi không kìm được buồn bực làu bàu: “Cái gì mà “lại” chứ, nghe cứ như là

bọn tớ đã làm việc này nhiều lần rồi vậy. Hơn nữa, đây cũng không phải

việc gì xấu xa tồi tệ cả, có bao nhiêu vàng bạc châu báu bị chôn vùi

dưới đất như thế mà cậu không thấy xót xa sao? Bọn tớ làm thế này cũng

là mong chúng có thể thấy lại ánh mặt trời, xét ra có thể coi là hành

thiện tích đức đấy!”

Vương Tiên Dao nói: “Cậu chuẩn bị đi trộm mộ mà còn làm ra vẻ như là mình có lý lắm ấy! Mau nói đi, định lật đấu ở đâu vậy?”

Tôn Kim Nguyên nghe thế thi cười, nói: “Xem ra cậu cũng là người trong nghề rồi, ngay cả tiếng lóng mà cũng biết. Tớ thấy người cao thâm khó lường

nhất trong chúng ta có khi lại chính là cậu ấy chứ!”

Vương Tiên

Dao nói: “Điều này thì tớ không dám nhận đâu, bởi khác nghề vốn như cách núi mà. Có điều cậu nhớ lại mà xem, những món đồ trong cửa hàng của tớ

có món nào không phải là đồ chôn theo người chết đâu? Cho nên tớ đã tiếp xúc khá nhiều với dân lật đấu, từ lâu đã muốn tự mình đi thử một phen.”

Nghe cô nàng nói vậy, tôi bất giác sợ giật nảy mình, vì tôi và Tôn Kim

Nguyên vốn định đi hai người với nhau, tìm Vương Tiên Dao chỉ là để mượn ngọc, không ngờ cô nàng cũng có hứng thú với việc trộm mộ như thế, xem

ra lần này không đưa theo cô nàng thì không xong rồi.

Tôn Kim

Nguyên chắc cũng có suy nghĩ giống tôi, bèn nói: “Được rồi, vậy bọn tớ

sẽ dưa cậu đi cùng, mà nơi đó cậu cũng từng đi rồi đấy, chính là nơi cậu đã có được miếng ngọc Văn Hương này.” Sau đó lại giảng giải tỉ mỉ cho

Vương Tiên Dao nghe chuyện tìm kiếm dạ minh châu và giải Cổ độc.

Vương Tiên Dao nói: “Lần đó tớ bị cắn nhiều như thế, mà đến bây giờ vẫn chưa

xuất hiện triệu chứng gì lạ thường, nếu lời của vị tiền bối xương khô đó là sự thật thì thời gian chất độc ẩn mình chờ phát tác hình như dài quá thì phải? Hì hì! Có điều, việc này thà rằng tin là có chứ không thể

không tin, chúng ta nên có sự chuẩn bị chu đáo là tốt nhất. Phải rồi, tớ nhớ là khi đó, mỗi người các cậu cũng lấy được một món đồ, theo tớ đoán thì đều là đồ tốt cả, các cậu đã tra ra được lai lịch của chúng chưa?”

Tôn Kim Nguyên nói: “Đó là bùa Mô Kim(*), làm từ móng của con tê tê, một

đầu được bọc đồng thau, do Tào Tháo năm xưa phát cho các Mô Kim hiệu úy. Nghe đổn về sau, phần lớn bùa Mô Kim đều đã thất truyền, hai chiếc này

của chúng ta có thể coi là cặp duy nhất còn sót lại trên thế gian.”

(*) “Mô kim” tức là “tìm vàng”, “hiệu úy” là tên gọi của một chức vị trong

quân đội ở Trung Quốc thời cố. “Mô Kim hiệu úy” theo nghĩa đen tức là

hiệu úy chuyên đi quật mộ tìm vàng.

Tôi vô cùng kinh ngạc, không

ngờ chiếc móng nhỏ nhoi đó lại có lai lịch lớn như vậy, bèn vội vàng lấy ra xem. Chỉ thấy bùa Mô Kim này đen bóng, trong suốt, lấp lánh tỏa ra

những tia sáng dìu dịu dưới ánh đèn, phần đầu sắc nhọn, phẩn dưới hình

chóp cụt, được khảm mấy sợi kim tuyến tạo thành hoa văn “thấu địa”, trên thân bùa có khắc hai chữ “Mô Kim” theo lối chữ Triện(*) cổ, nét khắc

cứng cáp, hùng hồn, mang đầy cổ ý, tuy đã trải qua nhiều năm tháng nhưng vẫn chẳng hề bị mài mòn.

(*) Chữ Triện hay còn gọi là Triện thư là một kiểu chữ thư pháp Trung Quốc cổ.

Vương Tiên Dao đón lấy bùa Mô Kim rồi đưa lên mũi ngửi thử, lại cẩn thận vuốt ve, sau đó mới nói: “Không sai, dựa theo niên đại của kim loại thì thứ

này quả thực đã có một hai ngàn năm lịch sử rồi. Nhưng trải bao sương

gió mà vẫn giữ gìn được tốt đến như thế này, nguyên liệu làm nên nó quả

đúng là hiếm có vô song, e rằng ngay đến kim cương cũng chỉ đến vậy mà

thôi.”

Tôn Kim Nguyên khẽ gật đầu tỏ ý tán đồng, rồi Vương Tiên

Dao lại nói tiếp: “Nghe nói từ cổ chí kim, những người trộm mộ được chia ra làm bốn môn phái, lần lượt là Phật Khâu, Mô Kim, Ban Sơn, Tá Lĩnh.

Người của các môn phái này thì được gọi là Phát Khâu tướng quân, Mô Kim

hiệu úy, Ban Sơn đạo nhân và Tá Lĩnh lực sĩ. Có câu rằng “Phát Khâu có

ấn, Mô Kim có bùa, Ban Sơn có thuật, Tá Lĩnh có giáp”, cậu có thể nhận

ra bùa Mô Kim như thế, lẽ nào đã nhận được sự chân truyền của Mô Kim môn rồi? Như thế thì quả là một cơ duyên rất lớn.”

Tôn Kim Nguyên

khẽ gật đầu, nói: “Ông thầy phong thủy mà tớ đi theo trước đây từng là

một vị Mô Kim hiệu úy, khi về già đã thoái ẩn giang hồ, chuyên đi xem

phong thủy cho người ta. Về sau, không cự lại được sự năn nỉ của tớ, ông ấy có dẫn tớ đi lật đấu mấy lần. Từ chỗ ông ấy, tớ đã học được bí thuật phong thủy, tuy chỉ là một ít kiến thức sơ sài nhưng cũng có thể ban

ngày xem xét sông núi, ban đêm quan sát trăng sao, từ đó tìm long mạch,

xác định vị trí của những ngôi mộ. Dựa vào sở học của bản thân, tớ hoàn

toàn có thể khẳng định Đại Hạp Cốc chính là nơi đầu rồng ẩn náu, ở đó

tàng phong tụ khí(*), thực là một chốn bảo địa hiếm có để xây dựng lăng

mộ.”

(*) “Tàng phong tụ khí” là một khái niệm trong lĩnh vực

phong thủy, có nghĩa là nên tránh những nơi gió lùa để tụ được những

luồng khí tốt.

Nghe thấy những lời này của Tôn Kim Nguyên, chúng

tôi đều vô cùng kích động. Vương Tiên Dao vốn bộp chộp, vội vàng hỏi:“Vậy khi nào thì chúng ta ra tay? Bây giờ đang dịp thời tiết dịu mát,

không khí khô hanh, rất thích hợp để làm việc dưới lòng đất đấy!”

Tôn Kim Nguyên nói: “Chỉ chừng mấy ngày tới thôi, hiện giờ vẫn còn mấy món

công cụ chưa tới, chờ khi lấy được rồi thì chúng ta có thể xuất phát

ngay. Các cậu cũng phải chuẩn bị sẵn sàng đấy, đặc biệt là Vân Sơn, tố

chất tâm lý của cậu cần nâng cao hơn nữa mới được.”

”Tớ đâu có tệ như vậy chứ! Cậu cứ chống mắt lên mà xem, đến lúc đó, tớ nhất định sẽ

khiến cậu hài lòng.” Tôi lập tức tỏ ra không phục.

Tôn Kim Nguyên nói: “Được rồi, nếu các cậu đã hạ quyết tâm sẽ đi chuyến này thì đều có thể tính là thành viên của Mô Kim môn rồi, đương nhiên cần phải có một

chút hiểu biết về trộm mộ và về Mô Kim môn. Trộm mộ - tiếng lóng gọi là

lật đấu. Việc trộm mộ ở nước ta kỳ thực đã tồn tại từ lâu, căn cứ theo

những ghi chép trong sử sách, ngôi mộ bị trộm sớm nhất là mộ của Thương

Thang - vị vua đầu tiên của nhà Thương, cách chúng ta bây giờ khoảng ba

nghìn sáu trăm năm. Hình thái ban đầu của Mô Kim môn chúng ta xuất hiện

từ thời Chiến Quốc, tinh thông “Tầm Long quyết” và “Phân Kim Định

Huyệt”, cực kỳ chú trọng đến khâu kỹ thuật. Đến cuối thời Đông Hán, Tào

Tháo lập ra chức Mô Kim hiệu úy cho những người chuyên đi đào mồ quật mả tìm vàng, do đó đệ tử của Mô Kim môn còn được gọi là Mô Kim hiệu úy.

Đến thời Tống, Nguyên, đệ tử của Phát Khâu môn, Ban Sơn môn, Tá Lĩnh môn đều hiếm khi xuất hiện, do đo người đời cho rằng truyền thừa của các

môn phái này đã đoạn tuyệt cả rồi, chỉ còn sót lại Mô Kim môn mà thôi.

Trong Mô Kim môn không nhất định là phải có sư phụ truyền thụ cho bản lĩnh

thì mới có thể tính là người của môn phái. Chúng ta có một bộ quy tắc,

tiếng lóng, kỹ thuật riêng, chỉ cần biết được quy tắc và thuật ngữ thì

đều là đồng môn, cái này thì về sau tớ sẽ từ từ dạy cho các cậu. Có điều trong Mô Kim môn, chỉ những người nào có bùa Mô Kim chính thống thì mới được gọi là Mô Kim hiệu úy. Tiếc là theo dòng chảy thời gian, phần lớn

bùa Mô Kim đã thất lạc, do đó các quy tắc cũ cũng thay đổi ít nhiểu, có

bùa Mô Kim hay không trở nên không còn quá quan trọng nữa. Thế nhưng như vậy không có nghĩa là có thể hoàn toàn không tuân thủ theo các quy tắc

cũ, có một số quy tắc vẫn còn lưu truyền đến tận bây giờ. Chẳng hạn như

khi quật được một ngôi mộ lớn, trước tiên phải thắp một cây nến rồi đặt ở góc đông nam của mộ thất, sau đó mới có thể mở quan tài tìm bảo vật;

khi động thủ, không được gây tổn hại đến di thể của người chết, cần nhẹ

nhàng tìm kiếm từ đỉnh đầu cho tới gan bàn chân, cuối cùng nhất định

phải để lại cho người chết một, hai món bảo vật.

Trong quá trình

này, nếu ngọn nến ở góc đông nam bị tắt thì nhất định phải trả những món bảo vật đã đến tay về chỗ cũ, sau đó cung kính dập đầu ba cái, trở về

theo đường cũ. Ngoài ra, đi trộm mộ thông thường đều là một nhóm ba

người, một người đào đất, vì cạnh hố không thể chất đầy đất lên được nên lại phải có một người chuyên chuyển đất, người còn lại thì đứng phía xa canh chừng, xem ra ba chúng ta đi với nhau vừa hay thích hợp. Còn về

những chuyện khác, tớ tạm thời chẳng biết phải bắt đầu nói từ đâu nữa,

đành đợi tới lúc thực chiến rồi nghĩ ra cái gì thì nói về cái đó vậy.”