Vua Phương Bắc

Chương 13: Jon

‘Othor’ Ser Jaremy Rykker tuyên bố, “không còn nghi ngờ gì nữa. Con người này là Jafer Flowers.” Chú dùng chân lật xác chết lên, và khuôn mặt người chết trắng bệch nhìn lên bầu trời cao bằng đôi mắt xanh, xanh biếc. “Tất cả bọn họ đều là người trong đội của Benjen Stark.”

Những người của chú mình, Jon điếng người nghĩ. Cậu nhớ cậu đã cầu xin chú cho cậu đi cùng thế nào. thần linh ơi, mình đúng là một thằng nhóc miệng còn hôi sữa. Nếu chú cho mình đi cùng, có lẽ mình cũng đang nằm ở đâyrồi...

Cổ tay bên phải của Jafer kết thúc với phần thịt và xương bị Bóng Ma cắn nham nhở. Tay phải anh ta đang được ngâm trong lọ giấm trên tháp của Maester Aemon. Bàn tay trái lành lặn đen sẫm như màu áo khoác.

“Thằn thánh lòng lành,” Gấu Già lẩmbẩm. Ông nhảy xuống ngựa và giao dây cương cho Jon. Sáng nay ấm áp đến lạ thường; từng giọt mồ hôi lấm tấm trên vầng trán rộng của tướng chỉ huy như những giọt sương mai lấm tấm trên một quả dưa vậy. Con ngựa của ông đang bồn chồn, đảo mắt và cố lùi xa những xác chết hết mức hết mức có thể. Jon dẫn nó đi cách xa vài bước và cố gắng để ghìm không cho nó nhảy lên. Những con ngựa không thích nơi này. Và Jon cũng thế.

Những con chó mới là những sinh vật không ưa nơi này nhất. Bóng Ma đã dẫn đàn tới đây; nhưng bầy chó tỏ ra vô dụng. Khi chú Bass chủ trại chó cho chúng ngửi mùi bàn tay kia, chúng trở nên điên cuồng, hết tru gào lại sủa ầm ĩ và cố cúp đuôi chạy mất. Kể cả lúc này thi thoảng chúng lại gầm ghè và kéo dây xích trong khi anh Chett cứ quay ra chửi rủa chúng.

Đây chỉ là một khu rừng thôi mà, Jon tự nhủ, và họ chỉ là những xác chết. Cậu đã từng thấy xác chết rồi...

Đêm trước cậu lại mơ thấy Winterfell. Cậu đi lang thang trong lâu đài trống trải để tìm cha mình và lần bước xuống hầm mộ. Chỉ có điều lần này giấc mơ đã đi xa hơn trước. Trong bóng tối, cậu nghe thấy tiếng lạo xạo của đá với đá. Khi quay đầu lại, cậu nhìn thấy hết huyệt mộ này tới huyệt mộ khác bật mở nắp. Khi những vị vua đã chết từ từ loạng choạng bước ra từ những huyệt mộ đen ngòm lạnh lẽo, Jon tỉnh dậy trong màn đêm tối đen như mực, tim đập thình thịch. Kể cả khi Bóng Ma nhảy lên giường liếʍ mặt cậu, cậu cũng không thể xua tan nỗi ám ảnh tận tâm can. Cậu không dám ngủ nữa. Thay vào đó, cậu trèo lên Tường Thành mà tản bộ, nhưng tâm trạng vẫn bồn chồn như cũ, cho tới khi cậu thấy ánh sáng bình minh phía chân trời. Đó chỉ là một giấc mơ thôi. Giờ mình là anh em đồng hữu của Đội Tuần Đêm chứ không phải một thằng nhóc run rẩy sợ hãi nữa.

Samwell Tarly co mình dưới những thân cây, nửa trốn sau lũ ngựa. Khuôn mặt tròn xoe của cậu ta đã chuyển sang màu sữa đông cục. Tới giờ cậu ta vẫn chưa chân thấp chân cao chạy đi nôn mửa, nhưng cậu ta cũng chẳng dám liếc mắt tới những tử thi một cái. “Mình không nhìn nổi,” cậu ta thảm hại thì thào.

“Cậu phải nhìn,” Jon bảo, cố nói nhỏ hết mức để những người khác không nghe thấy. “Maester Aemon bảo cậu đến để quan sát hộ ông ấy, đúng không? Nếu cậu nhắm tịt mắt lại thì còn làm ăn gì nữa?”

“Đúng, nhưng... mình đúng là một thẳng hèn, Jon ạ.”

Jon đặt tay lên vai Sam. “Chúng ta có cả tá lính biệt kích và lũ chó, rồi cả Bóng Ma đi cùng cơ mà. Không ai làm hại nổi cậu đâu, Sam. Tiến lên mà xem đi. Nhìn lần đầu tiên bao giờ cũng khó nhất.”

Sam run rẩy gật đầu, cố hết sức để lấy can đảm. Cậu ta từ từ quay đầu lại. Mắt cậu ta mở to, nhưng Jon giữ chặt tay để cậu ta không bỏ chạy được.

“Ser Jeramy,” Gấu Già hắng giọng hỏi, “Khi rời khỏi Tường Thành, Ben Stark đi cùng sáu người nữa. Vậy những người còn lại đâu?”

Ser Jaremy lắc đầu. “Giá mà tôi biết được.”

Plainly Mormont was not pleased with that answer. “Two of our brothers butchered almost within sight of the Wall, yet your rangers heard nothing, saw nothing. Is this what the Night’s Watch has fallen to? Do we still sweep these woods?”

Olainly Mormont không vừa lòng với câu trả lời. “Hai trong số các anh em chúng ta bị gϊếŧ phần lớn trong tầm ngắm của Tường thành, trong khi đó những người biệt kích của cậu thì không nghe thấy gì, nhìn thấy gì cả. Đây là thứ nà đôi Tuần Tra Đêm đã bắt đầu tấn công ư? Chúng ta vẫn phải tiếp tục rà soát những đống gỗ này ư?”

“Vâng, thưa chỉ huy, nhưng….”

“Chúng ta vẫn là Đội Tuần Tra Rừng?”

“Phải, nhưng…”

“Người đàn ông này mang một cái tù và săn thú.” Mormont chỉ vào Othor. “Tôi có nên tin rằng anh ta đã chết mà không có một âm thanh báo động nào không? Hay tất cả những người biệt kích của cậu đều bị mù và điếc?”

Ser Jaremy nổi giận, các dây thần kinh mặt của anh căng lên với vẻ tức giận. “ Không một cái tù và nào được thổi, thưa chỉ huy, hoặc các biệt kích của tôi không nghe chúng. Tôi không có đủ những chàng trai để đi tuần như những tuần tra viên mà tôi nên có…và khi Benjen bị mất tích, chúng tôi đã tiến gần đến Tường Thành hơn những gì chúng tôi sẽ không làm trước kia, khi có mệnh lệnh của chỉ huy.”

Gấu Già làu bàu. “Vâng. Tốt lắm. Cứ cho là như vậy đi.” Ông làm điệu bộ mất bình tĩnh. “Nói cho tôi nghe họ chết như thế nào.”

Ngồi xổm bên cạnh cái xác của người đàn ông tên Jafer Flowers, Ser Jaremy nắm lấy đầu của cái xác bẵng da đầu. Mái tóc lộ ra giữa các ngón tay, chúng dễ gãy như những cọng rơm. Con dao nguyền rủa và nhét vào phía mặt của gót tay. Một vết cắt “ngọt” sâu vào trong cổ của xác chết mở ra như cái miệng, phủ một lớp máu đã khô cứng. Chỉ còn một vài sợi dây gân nhợt nhạt vẫn còn nối liền đầu và cổ. “Là do rìu làm.”

“Đồng ý,” càu nhàu Dywen, người tuần rừng già nói, “Giống như cái rìu mà Othor đã mang theo, thưa chỉ huy.”

Jon có thể cảm thấy bữa sáng của mình đang cuồn cuộn nổi lên trong dạ dày, nhưng cậu cố mìm môi lại và ép mình nhìn cái xác thứ hai. Othor là một người đàn ông to bự xấu xí, và điều đó khiến anh ta trở thành một cái xác to lớn xấu xí y như vậy. Không có cái rìu nào trong chứng cứ. Jon nhớ Othor; người duy nhất có thể rống vang những bài hát tục tĩu mà khó có người tuần rừng nào có thể vượt qua. Những ngày hát hò của anh ta đã kết thúc. Da thịt của anh ta đã chuyển sang tái nhọt như sữa, khắp cơ thể trừ bàn tay. Tay của của anh ta đen y như tay của Jafer.

Những bông hoa của vết máu khô cứng rạn nứt trang hoàng thêm cho những vết chém trí mạng bao phủ anh ta như lan rộng, ngực và háng và thanh quản. Trong khi đó mắt của anh ta vẫn còn mở. Chúng nhìn chằm chằm lên bầu trời, xanh như ngọc sa-phia.

Ser Jaremy đứng dậy. “Bọn du mục cũng có rìu.”

Mormont quay lại anh ấy. “Vì vậy anh tin rằng chính Mance Rayder làm chuyện này? Người ở gần tường Thành?”

“Vậy thì ai nữa, thưa chỉ huy?”

Jon có thể sẽ nói cho anh ấy biết. Cậu biết, tất cả đều biết, nhưng không một ai dám hé lời nào. Những câu chuyện khác chỉ là một câu chuyện mà thôi, một câu chuyện cổ tích khiến trẻ em rùng mình. Nếu tất cả họ luôn sống, họ đã tám ngàn tuồi rồi. Thậm chí việc nghĩ thôi cũng làm cậu cảm thấy mình như một thằng ngốc; cậu đã là một người đàn ông, một anh em áo đen của Đội Tuần Đêm, chứ không một một thẳng bé ngồi bên chân Già Nan cùng Bran, Robb và Arya nữa.

Cậu đã là một người đàn ông, một anh em áo đen của Đội Tuần Đêm, chứ không phải một thẳng bé ngồi bên chân Già Nan cùng Bran, Robb và Arya nữa. Nhưng tướng chỉ huy Mormont lại khịt mũi. “Nếu Ben Stark bị tấn công bởi dân du mục khi chỉ cách Hắc Thành nửa ngày cưỡi ngựa, ông ấy sẽ quay về lấy thêm quân chi viện, đuổi theo những kẻ gϊếŧ người khắp bảy địa ngục và mang đầu chúng về cho ta.”

“Trừ khi chính ông ấy cũng bị gϊếŧ,” Ser Jaremy một mực nói.

Lời nói đó tới bây giờ vẫn làm Jon đau đớn. Thời gian trôi qua đã quá lâu, và dường như chỉ còn những kẻ ngốc mới vẫn tin rằng Ben Stark còn sống, nhưng cậu vẫn cứng đầu tin vào điều đó.

“Benjen đã mất tích nửa năm nay rồi, thưa chỉ huy,” Ser Jaremy tiếp tục. “Khu rừng quá rộng lớn. Bọn dân du mục có thể tấn công ông ấy ở bất cứ nơi nào. Tôi cược rằng đây là hai kẻ sống sót cuối cùng đang tìm đường về với chúng ta... nhưng kẻ địch đã bắt được họ trước khi họ tới được vòng an toàn của Tường Thành. Những xác chết vẫn còn mới, những người này không thể chết quá một ngày được.”

“Không phải,” Samwell Tarly kêu rít lên.

Jon giật mình. Cái giọng tông cao lo lắng của Sam là điều cuối cùng cậu nghĩ tới. Cậu nhóc béo này sợ các chỉ huy, và Ser Jaremy lại không phải người kiên nhẫn cho lắm.

"Ta không hỏi ý kiến của cậu, cậu bé,” chú Rykker lạnh lùng nói.

“Ngài hãy để cậu ấy nói đi,” Jon buột miệng.

Ông Mormont hết nhìn Sam lại nhìn Jon. “Nếu cậu bé này có điều cần nói, ta sẵn lòng nghe. Con trai, hãy tới gần hơn nào. Chúng ta không thể thấy rõ con đằng sau lũ ngựa được.”

Sam lách mình qua Jon và những con ngựa, mồ hồi túa ra như tắm. “Thưa chỉ huy, họ... họ không thể chỉ mới chết một ngày... hãy... nhìn... máu ạ...”

“Sao?” Mormont thiếu kiên nhẫn càu nhàu. “Máu, thì sao?”

“Nó tè ra quần khi nhìn thấy máu,” anh Chett hét lên, và những lính biệt kích cười ồ ồ.

Sam lau mồ hôi trên trán. “Mọi người... mọi người có thể thấy nơi Bóng Ma... con sói tuyết của Jon... mọi người có thể thấy nó xé đứt bàn tay người kia ra, nhưng... vết thương không chảy máu... hãy nhìn...” Cậu ta vẫy tay. “Cha tôi....L-Lãnh chúa Randyll, ông ấy, ông ấy bắt tôi xem ông ấy gϊếŧ thú vật suốt, và khi... sau khi...” Sam lắc đầu quầy quậy, cái cằm rung lên. Giờ cậu ta đã nhìn vào những xác chết, dường như cậu ta không thể nhìn đi nơi khác. “Nếu như mới chết... máu sẽ vẫn tiếp tục chảy, thưa chỉ huy. Sau đó, sau đó nó sẽ đông lại, như... như thạch, đặc... và... và...” Cậu ta nhìn như thể bị ốm. “Người đàn ông này... hãy nhìn cổ tay đi ạ, nó... đã đông cục... khô... như...”

Jon ngay lập tức nhận ra Sam muốn nói gì. Cậu có thể thấy những đường gân vỡ ở cổ tay xác chết, nổi rõ trên làn da trắng ởn. Máu hắn ta đen đặc. Nhưng Ser Jaremy Rykker vẫn chưa bị thuyết phục. “Nếu họ chết lâu hơn một ngày, giờ họ đã thối rữa rồi, cậu bé ạ. Họ thậm chí còn chẳng bốc mùi nữa.”

Dywen, ông kiểm lâm già hay cằn nhằn, người luôn khoe khoang rằng mình có thể ngửi thấy mùi tuyết sắp rơi, rụt rè tới gần xác chết hơn và đánh hơi. “ừm, họ không có mùi hoa, nhưng, ngài đây nói đúng. Không hề có một xác chết nào bốc mùi hết.”

“Họ... họ không thể thối rữa.” Sam run run chỉ trỏ bằng ngón tay béo múp. “Nhìn đi, ở đây không có giòi... hay... hay... bọ hay bất cứ thứ gì... họ đã nằm ở đây trong khu rừng này... nhưng họ... họ không bị động vật gặm hay ăn xác... ngoại trừ Bóng Ma... ngoài ra họ... họ...”

“Không mảy may tổn hại,” Jon nhẹ nhàng nói. “Và Bóng Ma không giống những động vật khác. Những con chó và lũ ngựa không dám tới gần những xác chết kia.”

Những lính biệt kích liếc nhìn nhau, tất cả đều thấy sự thật trong đó. Mormont nhíu mày và liếc nhìn những tử thi cùng lũ chó. “Chett, dắt chó lại gần đây.”

Chett cố gắng, chửi rủa, kéo xích, đá mỗi con một nhát. Hầu hết lũ chó chỉ kêu ăng ẳng và đứng ì ra. Anh cố kéo một con. Con cɧó ©áϊ chống cự, tru lên và kêu ăng ẳng cố thoát khỏi vòng cổ. Cuối cùng nó lao vào anh. Chett làm rơi dây xích và lùi lại. Con chó nhảy qua anh và chạy biến vào rừng.

“Chuyện này... chuyện này không đúng.” Sam Tarly nghiêm túc nói. “Máu... máu khô dính trên quần áo và... da họ, khô cứng lại rồi, nhưng... không có chút máu nào dính dưới đất, hoặc... bất cứ nơi nào khác. Với những... những... những...” Sam nuốt khan và hít một hơi sâu. “với những vết thương thế này... những vết thương kinh khủng... thì đáng ra máu phải vương vãi khắp nơi. Nhưng sao ở đây lại không có?”

Ông Dywen hít vào qua kẽ răng. “Có thể họ không chết tại đây. Có thể có ai đó lôi họ tới đây và bỏ lại cho chúng ta. Giống như một lời cảnh báo vậy.” Ông kiểm lâm già nheo mắt nhìn vẻ ngờ vực. “Và có thể tôi ngốc, nhưng tôi không biết rằng mắt Othor màu xanh.”

Ser Jaremy có vẻ bị giật mình. “Cả Flowers cũng vậy,” ngài ta thốt lên và quay sang nhìn chằm chằm vào tử thi.

Sự im lặng bao trùm cánh rừng. Trong chốc lát tất cả chỉ nghe thấy tiếng thở nặng nhọc của Sam và âm thanh ướŧ áŧ do ông Dywin thở qua kẽ răng. Jon ngồi xuống cạnh Bóng Ma.

“Thiêu họ đi,” một người thì thào. Một trong những lính biệt kích; nhưng Jon không biết là ai. “Đúng, thiêu họ đi,” giọng thứ hai giục.

Gấu Già ương ngạnh lắc đầu. “Chưa được. Ta muốn Maester Aemon kiếm tra họ. Chúng ta sẽ mang họ trở lại Tường Thành.”

Nhiều khi ra lệnh dễ hơn là thực hiện. Họ cuốn những tử thi trong áo choàng, nhưng khi Hake và ông Dyvven cố buộc một cái xác vào ngựa, con vật trở nên điên loạn, rống rít hoảng sự rồi nhảy chồm lên, thậm chí cắn Ketter khi anh chạy tới giúp. Những lính biệt kích cũng chẳng may mắn hơn với con ngựa còn lại; kể cả những con ngựa điềm tĩnh nhất cũng không muốn dính líu tới phần gánh nặng này. Cuối cùng họ phải chặt cành cây và tạo thành một cái cáng thô sơ để tự mình mang những cái xác về. Phải quá trưa họ mới bắt đầu khởi hành.

“Tôi muốn mọi người tìm kiếm khắp khu rừng,” ông Mormont ra lệnh cho Ser Jaremy khi họ bắt đầu khởi hành. “Mọi cái cây, mọi tảng đá, mọi bụi rậm, mọi dấu chân trên bùn trong vòng mười dặm. Hãy sử dụng tất cả nhân lực anh có, và nếu anh không có đủ người, hãy mượn thợ săn và thợ đốn củi từ đội quản gia. Nếu Ben và những người khác còn ở ngoài kia, dù sống hay chết, ta cũng muốn tìm thấy họ. Và nếu có bất cứ ai trong khu rừng này, ta cũng muốn biết. Anh phải lần theo họ và mang họ về, nếu có thể hãy bắt sống. Anh hiểu chưa?”

“Tuân lệnh, thưa chỉ huy,” Ser ]aremy nói. “Tôi sẽ làm theo lời ngài.”

Sau đó, ông Mormont im lặng trầm tư đi tiếp. Jon đi sát sau ông; vì cậu là quản gia của tướng chỉ huy nên đó là chỗ của cậu. Ngày hôm nay thật tệ, ẩm thấp, đầy mây, một ngày mà người ta mong mưa đi cho xong. Gió không làm khu rừng xào xạc; không khí ẩm ướt và nặng nề, và áo Jon dán chặt và người. Thời tiết thật ấm áp. Quá ấm áp. Tường Thành nồm kinh khủng, mấy ngày hôm nay lúc nào cũng ươn ướt nước, và thi thoảng Jon còn tưởng Tường Thành đang co vào nữa.

Những ông lão gọi kiểu thời tiết này là mùa hè thần thánh, và nói rằng điều này đồng nghĩa với việc cuối cùng mùa hè đã từ bỏ những vị thần của nó. Họ cảnh báo rằng sau đó gió lạnh sẽ tới, và mùa hè dài luôn đồng nghĩa với mùa đông dài. Mùa hè đã kéo dài mười năm. Jon chỉ là một đứa bé còn ẵm ngửa khi mùa hè ấy bắt đầu.

Bóng Ma chạy cùng họ một lúc rồi biến mất trong rặng cây. Không có con sói tuyết, Jon có cảm giác như mình dang tя͢ầи ͙ȶя͢υồиɠ vậy. Cậu lo lắng liếc nhìn mọi bóng cây. Tự nhiên cậu vô thức nghĩ về những câu chuyện Già Nan kể khi cậu còn là một cậu bé ở Winterfell. Cậu gần như có thể lại nghe thấy giọng bà, và tiếng lanh canh từ cây kim đan. Trong bóng tối mịt mùng đó, bà thường kể, giọng càng lúc càng nhỏ dần. Chúng lạnh lẽo, ngập tử khí, ghét sắt thép, lửa ấm và những tia nắng mặt trời cùng tất cả những sinh vật mang máu nóng trong huyết quản. Chúng tràn qua những pháo đài, những thành phố, những vương quốc, gϊếŧ chết hằng ha sa số các anh hùng và đạo quân, cưỡi trên lưng những con tử mã và dẫn theo một đoàn cương thi. Lưỡi kiếm của loài người không thể chống lại chúng, chúng không rủ lòng thương ngay cả với phụ nữ và những đứa nhỏ còn đang ẵm ngửa. Chúng săn lùng những thiếu nữ trong những khu rừng đóng băng và cho lủ thâyma theo hầu ăn thịt lũ trẻ...

Khi thoáng thấy Tường Thành sừng sững trên những cây sồi cổ thụ, Jon thấy nhẹ nhõm kinh khủng. Ông Mormont đột ngột ghìm cương ngựa và quay đầu lại. “Tarly,” ông quát, “lại đây.”

Jon thấy Sam bắt đầu sợ hãi khi cậu ta lừ lừ tiến đến; chắc chắn cậu ta đang nghĩ mình gặp rắc rối. “Cháu béo nhưng không hề ngu ngốc đâu” Gấu Già khàn khàn giọng nói. “Cháu đã làm rất tốt. Và cả cháu nữa, Snow.”

Sam mặt đỏ tía tai và lúng búng cố nói lời cảm ơn. Jon phải mỉm cười.

Khi họ xuất hiện từ sau rặng cây, ông Mormont bắt con ngựa nhỏ chạy nước kiệu. Bóng Ma xuất hiện khỏi khu rừng, liếʍ láp chút máu của con mồi xấu số còn dính trên mép. Phía trên cao, những người lính trên Tường Thành đã thấy đám đông đi tới. Jon nghe thấy tiếng tù và trầm trầm vang rền từ người lính gác vọng xa hàng dặm; một chuỗi âm thanh dài đơn độc xuyên qua rừng cây và vang vọng trong những khe băng.

UUUUUUUOOOOOOOOOOOOOOoooooooooooooo.

Âm thanh tắt dần rồi im lặng. Một tiếng nghĩa là đội biệt kích đã về, và Jon nghĩ, chí ít có ngày mình sẽ trở thành lính biệt kích. Dù thế nào, họ cũng không thể cướp nó khỏi mình.

Bowen Marsh đang đợi ở cánh cổng đầu tiên khi họ dẫn những con ngựa qua đường hầm lạnh buốt. Đại tổng quản mặt đỏ lựng và kích động. “Thưa tướng chỉ huy,” ông thốt lên với Mormont khi đứng ở những thanh chắn sắt, “có chim đưa thư tới, và ngài phải tới ngay lập tức.”

“Chuyện gì thế?” ông Mormont hỏi cộc lốc.

Marsh tò mò liếc nhìn Jon trước khi trả lời. “Maester Aemon đang cầm lá thư. Ông ấy đợi ngài trong thư phòng.”

“Được rồi. Jon, trông ngựa cho ta, và nói với Ser Jaremy hãy đặt tử thi trong nhà kho cho tới khi học sĩ sẵn sàng tới khám nghiệm.” Nói rồi ông Mormont bỏ đi.

Khi dẫn ngựa trở về chuồng, Jon vô cùng khó chịu khi thấy mọi người đang quan sát mình. Ser Alliser Thom đang huấn luyện lính mới trên sân, nhưng lão ta dừng lại nhìn chằm chằm vào Jon, một nụ cười nhạt nở trên môi. Donal Noye một tay đứng trước cửa kho vũ khí. “Thần thánh sẽ luôn bên cháu, Snow ạ,” ông nói lớn.

Có gì không ổn rồi, Jon nghĩ. Có gì đó rất rất không ổn.

Những xác chết được mang tới một trong những nhà kho ở chân Tường Thành thường được sử dụng để chứa thịt, ngũ cốc và thậm chí là cả bia. Jon cho ngựa của ông Mormont ăn uống, tắm rửa, chải lông rồi thì mới quay ra chăm sóc ngựa của mình. Sau đó, cậu chạy đi tìm bạn. Grenn và Toad đang trong ca gác, nhưng cậu tìm thấy Pyp trong phòng sinh hoạt chung. “Chuyện gì thế?” cậu hỏi.

Pyp hạ giọng. “Đức vua băng hà rồi.”

Jon choáng váng. Vua Robert Baratheon có vẻ già và béo khi tới thăm Winterfell, nhưng trông ông vẫn còn tráng kiện và không hề có dấu hiệu của bệnh tật. “Sao cậu biết?”

“Một trong những lính gác nghe lỏm được khi anh Clydas đọc thư cho Maester Aemon nghe.” Pyp nhoài người tới gần hơn. “Jon, mình rất tiếc. Bệ hạ là bạn của cha cậu, đúng không?”

“Họ từng thân thiết như anh em vậy.” Jon phân vân tự hỏi liệu Joffrey có để cha tiếp tục làm Quân sư của Nhà vua không. Có lẽ là không. Như vậy Lãnh chúa Eddard sẽ trở về Winterfell cùng các em gái cậu. Cậu có thể sẽ được về thăm họ, nếu như tướng chỉ huy Mormont cho phép. Thật tốt nếu được nhìn thấy lại nụ cười của bé Arya và nói chuyện cùng cha. Mình sẽ hỏi cha về mẹ, cậu dự định. Giờ mình đã trưởng thành rồi, giờ là lúc ông ấy phải nói cho mình hay. Kể cả nếu bà ấy có là gái làng chơi, mình củng không còn quan tâm, mình chỉ muốn biết thôi.

“Mình nghe Hake nói những tử thi thuộc đội của chú cậu,” Pyp nói.

“Đúng,” Jon trả lời. “Hai trong số sáu người đi cùng chú ấy. Họ đã chết một thời gian dài rồi, chỉ là... xác chết hơi quái.”

“Quái ư?” Pyp cực kỳ tò mò. “Quái thế nào?”

“Sam sẽ nói cho cậu nghe.” Jon không muốn nói tới chuyện đó. “Mình nên đi xem Gấu Già có cần tới mình không.”

Cậu một mình tới Tháp Chỉ Huy, với cảm giác nhột nhạt trong người. Những người anh em trong ca gác cứ nghiêm trang nhìn cậu khi cậu đi tới. “Gấu Già ở trong phòng,” một trong số họ thông báo. “Ông ấy đang muốn gặp cậu.”

Jon gật đầu. Đáng ra cậu phải đi thẳng từ chuồng ngựa tới đây. Cậu vội vã trèo lên tháp. Ông ấy muốn mình lấy rượu hay đốt lò sưởi thôi mà, cậu tự nhủ.

Khi vào thư phòng, con quạ của ông Mormont ré lên với cậu. “Ngô!” con chim ré lên. “Ngô! Ngô! Ngô!"

“Đừng tin nó, ta vừa cho nó ăn rồi,” Gấu Già lèm bèm. Ông đang ngồi cạnh cửa sổ và đọc thư. “Cháu mang tới cho ta một cốc rượu và tự rót cho mình một cốc đi.”

“Cho cháu sao, thưa chỉ huy?”

Mormont nhướn mắt nhìn Jon. Cậu cảm nhận được sự thương hại trong cái nhìn đó. “Cháu nghe thấy rồi đấy.”

Jon rót rượu với sự cần trọng hơn mức bình thường và lờ mờ ý thức rằng cậu có liên quan tới lá thư kia. Khi hai chiếc cốc đầy rượu, cậu sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài đối mặt với bất cứ điều gì viết trong thư. Nhưng sao chúng đầy nhanh thế. “Ngồi đi cháu,” Ông Mormont ra lệnh. “Uống đi.”

Jon vẫn đứng im. “Lá thư viết về cha cháu, đúng không ạ?”

Gấu Già gõ gõ lên lá thư. “Cha cháu và nhà vua,” ông nói giọng đùng đυ.c. “Ta sẽ không nói dối cháu, đây là một tin cực kỳ kinh khủng. Ta chưa bao giờ nghĩ được gặp một nhà vua nữa, khi ta đã ở độ tuổi này và Robert chỉ bằng nửa tuổi ta nhưng khỏe như bò mộng vậy.” Ông nhấp một ngụm rượu. “Họ nói nhà vua thích săn bắn. Cháu à, lúc nào thứ chúng ta yêu thích cũng hủy hoại chúng ta mà thôi. Hãy nhớ lấy. Con trai ta vô cùng yêu vợ mình. Một con ả khốn nạn. Nếu không phải vì con bé đó, nó sẽ không bao giờ nghĩ tới việc đi bán bọn săn trộm.”

Jon hầu như chẳng hiểu nổi điều ông đang nói. “Thưa chỉ huy, cháu không hiểu. Chuyện gì xảy ra với cha cháu ạ?”

“Ta bảo cháu ngồi xuống,” ông Mormont gầm lên. “Ngồi," Con quạ ré theo. “Và uống rượu đi, quỷ tha ma bắt nhà cháu. Đây là lệnh, Snow.”

Jon ngồi xuống và nhấp một ngụm rượu.

“Lãnh chúa Eddard đã bị bắt giam. Ông ấy bị buộc tội mưu phản. Trong thư nói ông ấy đã thông đồng cùng những người em trai vua Robert để tước ngai vàng khỏi thái tử Joffrey.”

“Không,” Jon nói ngay lập tức. “Không thể nào. Cha cháu sẽ không bao giờ phản bội nhà vua!”

“Có lẽ thế,” ông Mormont nói. “Nhưng lời buộc tội không phụ thuộc vào ta. Hay vào cháu...”

“Nhưng đó là lời dối trá," Jon một mực nói. Sao họ có thể nghĩ cha là một kẻ phản bội, họ điên hết rồi sao? Lãnh chúa Eddard Stark không bao giờ tự làm nhục bản thân... đúng không?”

Cha cậu nuôi dưỡng một đứa con rơi, một giọng nói khe khẽ thì thầm trong đầu cậu. Làm gì có chút vinh dự nào trong đó chứ? Và mẹ cậu, bà ấy là cái gì đây? Mày còn không biết tên bà.

“Thưa chỉ huy, ông ấy sẽ như thế nào ạ? Họ sẽ gϊếŧ ông ấy ư?”

“Về chuyện đó thì ta không nói chắc được. Ta định gửi thư đi. Ta biết một vài người bạn thời niên thiếu giờ nằm trong hội đồng. Lão Pycelle, Lãnh chúa Stannis, Ser Barristan... Dù cha cháu có làm gì, hay không làm gì, ông ấy cũng là một lãnh chúa vĩ đại. Chắc chắn ông ấy sẽ được khoác áo đen và tới đây cùng chúng ta. Thần thánh thừa biết chúng ta cần những người có khả năng như Lãnh chúa Eddard.”

Jon từng nghe chuyện những người bị buộc tội phản nghịch sẽ được phục hồi danh dự trên Tường Thành. Thế thì sao Lãnh chúa Eddard lại không được chứ? Cha cậu sẽ tới đây. Ý nghĩ đó thật kỳ lạ, và khó chịu tới kỳ lạ. Quả là không công bằng khi tước đoạt Winterfell khỏi tay ông và bắt ông mặc đồ đen, nhưng điều đó sẽ đổi lại mạng sống cho cha...

Nhưng Joffrey có đồng ý không? Cậu vẫn nhớ hoàng tử hồi tới Winterfell, cái cách hẳn chế nhạo Robb và Ser Rodrik ở trong sân. Hắn chẳng thèm để mắt tới Jon; hắn không để mắt tới những đứa con rơi. “Thưa tướng chỉ huy, nhà vua có lắng nghe lời ngài không ạ?”

Gấu Già nhún vai. “Một nhà vua còn trẻ người non dạ... ta nghĩ cậu ta sẽ lắng nghe lời thái hậu. Đáng tiếc là người lùn không ở cùng họ. Anh ta là cậu của nhà vua, và anh ta đã thấy chúng ta cần gì rồi. Tệ là, mẹ cháu dã bắt giữ anh ta...”

“Phu nhân Stark không phải mẹ cháu,” Jon cực lực nhắc ông nhớ. Tyrion Lannister là bạn cậu. Nếu Lãnh chúa Eddard bị gϊếŧ, bà ta phải chịu tránh nhiệm như thái hậu. “Thưa chỉ huy, các em gái cháu ra sao ạ? Arya và Sansa, họ ở cùng cha cháu, ngài có biết...”

“Pycelle không đề cập tới họ, nhưng chắc chắn họ được đối xử tử tế. Ta sẽ hỏi thăm về họ trong bức thư tới.” Ông Mormont lắc đầu. “Điều này không thể xảy ra tại thời điểm nào tệ hại hơn nữa. Hơn bao giờ hết vương quốc cần một đấng minh quân... những ngày đen tối và đêm lạnh giá đang chờ đợi chúng ta, ta cảm thấy nó từ sâu trong xương tủy...” Ông nhìn Jon như thấu hiểu. “Ta mong cháu không làm gì ngu ngốc, cậu bé ạ.”

Ồng ấy là cha cháu, Jon muốn nói, nhưng cậu biết ông Mormont không muốn nghe. Cổ họng cậu khô khốc. Cậu uống thêm một ngụm rượu nữa.

“Giờ nhiệm vụ của cháu là ở đây,” Tướng chỉ huy nhắc nhở. “Cuộc đời cũ của cháu đã kết thúc khi cháu mặc trang phục đen lên mình rồi.” Con chim nhại lại. “Đen.” Mormont không thèm để ý. “Dù họ làm gì ở Vương Đô cũng chẳng liên quan gì tới cháu.”

. Khi Jon không trả lời, ông lão uống hết rượu và nói, “Cháu đi được rồi. Hôm nay ta không cần tới cháu nữa. Ngày mai cháu sẽ giúp ta viết thư.”

Jon không nhớ mình đã đứng lên hay rời thư phòng thế nào. Thứ tiếp theo cậu biết, là cậu đang xuống cầu thang, vừa đi vừa nghĩ. Đó là cha mình, em gái mình, làm sao chuyện lại không liên quan đến mình được chứ?

Bên ngoài, một trong những người lính gác nhìn cậu và nói, “Mạnh mẽ lên cậu bé. Đôi khi thần thánh rất độc ác.”

Jon nhận ra rằng họ đều biết. “Cha tôi không phải kẻ phản bội,” cậu khàn giọng nói. Lời nói như nghẹn đắng trong cổ họng cậu, làm cậu nghẹt thở. Gió đang thổi mạnh hơn, và sân dường như lạnh hơn trước khi cậu vào tháp. Mùa hè thần thánh đang trút hơi thở cuối cùng.

Buổi chiều qua đi như giấc mộng. Jon không biết mình đi tới đâu, làm gì, nói chuyện với ai. Cậu chỉ biết là Bóng Ma luôn bên cậu. Sự hiện diện im lặng của con sói tuyết an ủi cậu đôi phần. Các cô em gái đâu được như mình, cậu nghĩ. Những con sói đáng ra sẽ bảo vệ họ, nhưng giờ Quý Cô đã chết rồi còn Nymeria đi đâu không rõ, và họ đơn độc một mình.

Cơn gió từ phương bắc thổi tới bắt đầu mạnh hơn khi mặt trời khuất bóng. Jon có thể nghe tiếng gió rít trên Tường Thành và qua những bức tường lỗ châu mai khi cậu đi tới phòng sinh hoạt chung ăn tối. Chú Hobb đã nấu món súp thịt nai, ðặc quánh bột lúa mì, hành và cà rốt. Khi ông cho thêm một muôi vào suất của Jon và cho cậu một ổ bánh mỳ, cậu biết chú muốn nói gì. Chú ấy biết. Cậu nhìn quanh pḥòng, thấy những cái đầu vội vã quay đi và những đôi mắt lịch sự tránh đi chỗ khác. Họ đều biết.

Những người bạn tập hợp quanh cậu. “Chúng mình đã nhờ thầy tu thắp nến cầu nguyện cho cha cậu,” Matthar nói. “Họ nói dối, chúng tớ đều biết vậy, kể cả Grenn cũng biết vậy,” Pyp phụ họa. Grenn gật đầu, còn Sam nắm lấy tay Jon. “Giờ cậu là anh em của mình, vì thế ông ấy cũng là cha mình nữa,” cậu bé béo nói. “Nếu cậu muốn ra ngoài gốc cây đước cầu nguyện cựu thần, mình sẽ đi cùng cậu.”

Những cây đước nằm ngoài Tường Thành, nhưng cậu biết Sam nói thực. Họ là anh em của mình, cậu nghĩ. Cũng như Robb, Bran và Rickon vậy...

Và sau đó cậu nghe thấy tiếng cười sắc lạnh và độc ác như tiếng roi rít, đó là giọng của Ser Alliser Thorne. “Không chỉ là một thằng con hoang, mà còn là một thằng con hoang của kẻ phản nghịch nữa chứ,” lão đang nói với những người xung quanh.

Trong chớp mắt, Jon đã nhảy lên bàn với con dao cầm sẵn trên tay. Pyp nắm lấy chân cậu, nhưng cậu giằng ra, rồi nhảy xuống bàn và đá tung cái bát khỏi tay Ser Alliser. Súp văng tung tóe khắp nơi, dính lên những người anh em khác. Lão Thorne nhảy bật lên. Những người xung quanh đang la hét, nhưng Jon Snow không thèm nghe. Cậu cầm con dao nhắm thẳng vào mặt Alliser, cố chém vào đôi mắt mã não lạnh lẽo đó, nhưng Sam đã lao vào giữa họ và trước khi Jon kịp vòng qua, Pyp đã leo lên lưng cậu lẹ như một con khỉ, còn Grenn nắm lấy tay cậu trong khi Toad giằng dao ra.

Sau đó, rất lâu sau đó, sau khi họ đưa cậu về lại phòng ngủ, ông Mormont xuống thăm cậu với con quạ đậu trên vai. “Ta đã nói là cháu đừng làm trò ngu ngốc rồi mà," Gấu Già nói. “Cháu” con chim nhại lại. Ông Mormont lắc đầu vẻ ngán ngẩm. “Và đừng nghĩ là ta kỳ vọng nhiều nơi cháu.”

Họ tước dao và kiếm của cậu rồi nói với cậu rằng cậu không được rời phòng cho tới khi các sĩ quan cấp cao quyết định sẽ làm gì với cậu. Và họ cho một người canh gác bên ngoài cửa phòng để đảm bảo rằng cậu nghe lời. Những người bạn không được phép tới thăm cậu, nhưng Gấu Già vẫn nhân từ cho phép cậu ở cùng Bóng Ma, như vậy cậu không hoàn toàn cô đơn.

“Cha tao không phải kẻ phản bội,” cậu nói với con sói tuyết khi những người khác đã bỏ đi. Bóng Ma im lặng nhìn cậu. Jon ngồi sụp xuống bên chân tường, tay ôm lấy gối và nhìn chăm chăm vào ngọn nến trên bàn bên cạnh cái giường hẹp. Ánh nến bập bùng, những cái bóng di chuyển quanh cậu, căn phòng dường như càng lúc càng tối và lạnh hơn. Tối nay mình sẽ không ngủ, Jon nghĩ.

Nhưng chắc hẳn cậu đã chợp mắt. Khi tỉnh dậy, chần cậu cứng ngắc vì chuột rút còn ngọn nến đã cháy hết từ lâu. Bóng Ma đang đứng trên hai chần sau và cào cửa. Jon giật mình khi thấy giờ đây Bóng Ma đã cao thế nào. “Bóng Ma, chuyện gì thế?”cậu khẽ gọi. Con sói tuyết quay đầu và nhìn cậu, nhe răng nanh trong tiếng gầm gừ câm lặng. Nó điên rồi sao? Jon tự hỏi. “Tao đây mà, Bóng Ma,” cậu thì thào, cố không tỏ ra sợ hãi. Nhưng cậu đang run lẩy bẩy. Trời lạnh thế này từ bao giờ vậy?

Bóng Ma quay lại cánh cửa. Nó cào cửa. Jon quan sát với vẻ càng lúc càng lo lắng. “Có gì đó ngoài kia, đúng không?” cậu thì thào. Con sói co người lùi lại, lớp lông trắng dựng đứng lên. Lính gác, cậu nghĩ, họ đã cho một người gác bên ngoài phòng mình, Bóng Ma đánh hơi thấy anh ta, chỉ thế mà thôi.

Jon từ từ đứng dậy. Cậu run lẩy bẩy và ước gì mình vẫn có kiếm. Cánh cửa chỉ cách cậu ba bước chân. Cậu nắm lấy tay cầm và kéo vào. Tiếng bản lề cót két gần như khiến cậu nhảy dựng lên. Người lính gác của cậu đang nằm èo uột trên những bậc thang hẹp, ngước mắt lên nhìn cậu. Anh ta ngước mắt nhìn cậu, dù đang nằm úp bụng xuống. Đầu anh ta bị vặn ngược lại.

Không thể nào, Jon tự nhủ. Đây là Tháp Chỉ Huy, được canh gác suốt ngày suốt đêm, chuyện này không thể xảy ra được, đây chỉ là một giấc mơ, mình đang gặp ác mộng thôi.

Bóng Ma lướt qua cậu và đi ra cửa. Con sói bắt đầu đi lên rồi dừng lại, nhìn Jon. Đúng lúc đó thì cậu nghe thấy tiếng lộp cộp khe khẽ của giày nện trên đá, tiếng vặn then cửa. Âm thanh vang lên từ phía trên. Từ phòng ngủ của tướng chỉ huy.

Nó có thể là một cơn ác mộng, nhưng nó không phải một giấc mơ.

Thanh gươm của anh lính gác vẫn nằm trong vỏ. Jon quỳ xuống và lấy nó ra. Thanh kiếm trên tay tiếp thêm dũng khí cho cậu. Cậu bước lên những bậc thang với Bóng Ma im lặng bám sát sau. Những cái bóng xuất hiện ở mỗi khúc quanh. Jon cảnh giác co người lại, dùng đầu kiếm săm soi từng góc tối khả nghi.

Đột nhiên cậu nghe thấy tiếng ré lên của con quạ của ông Mormont. “Ngô,” con chim đang thét. “Ngô, ngô, ngô, ngô, ngô, ngô.” Bóng Ma nhảy lên, còn Jon loạng choạng đi sau. Cánh cửa thư phòng ông Mormont mở toang. Con sói tuyết phóng vào. Jon dừng lại ở ngưỡng cửa, kiếm cầm trong tay, để mắt mình có thời gian điều chỉnh. Tấm rèm cửa dày đã được kéo kín, và trong phòng tối đen như mực. “Ai đó?” cậu lên tiếng.

Sau đó cậu thấy nó, một cái bóng trong bóng đêm, đang trườn tới cánh cửa trong dẫn vào phòng ngủ của ông Mormont, một người đàn ông mặc đồ đen, mặc áo choàng và đội mũ trùm... nhưng bên dưới mũ, đôi mắt nó sáng rực màu xanh của băng tuyết...

Bóng Ma nhảy lên. Người và sói quần thảo nhưng không hề phát ra một tiếng động, ngã nhào xuống một cái ghế, làm đổ cây đèn bàn lên giấy. Con quạ của ông Mormont đập cánh và ré lên, “Ngô, ngô, ngô, ngô.”Jon thấy mình mù lòa giống như Maester Aemon vậy. Cậu dựa lưng vào tường lần mò tới cửa sổ và giật tấm rèm cửa xuống. Ánh trăng ùa vào thư phòng. Cậu thoáng thấy đôi bàn tay đen trong lóp lông trắng, những ngón tay đen đúa đang bóp cổ con sói. Bóng Ma quay người táp lại, chân quẫy đạp trong không khí, nhưng không thể thoát nổi.

Jon không còn thời gian mà sợ. Cậu vừa hét vừa lao lên, dùng hết sức bình sinh chém xuống. Lưỡi kiếm chém xuyên qua ống tay áo, thịt và xương, nhưng âm thanh vẫn có gì đó không đúng. Cái mùi xộc vào mũi cậu kỳ lạ và lạnh lẽo khiến cậu muốn ói ra. Cậu thấy cánh tay và bàn tay trên nền nhà, những ngón tay đen đúa ngọ nguậy dưới ánh trăng. Bóng Ma xé đứt một bàn tay khác và tránh xa ra, cái lưỡi đỏ của nó thè ra khỏi miệng.

Người đàn ông đội mũ trùm ngẩng khuôn mặt trắng bệch lên, và Jon chém xuống không hề do dự. Lưỡi kiếm xẻ dọc kẻ đột nhập tới tận xương, chém bay nửa cái mũi và để lại một vết sau rỗng toác ngay dưới mắt hắn, ôi đôi mắt, đôi mắt xanh như những ngôi sao đang cháy sáng vậy. Jon biết khuôn mặt đó. Othor, cậu nghĩ và lùi lại. Trời đất quỷ thần ơi, anh ta chết rồi, anh ta chết rồi, mình đã thấy xác anh ta mà.

Cậu cảm thấy có gì đó quờ quạng dưới mắt cá chân. Những ngón tay đen tóm lấy cổ chân cậu. Bàn tay đang bò lên trên chân cậu, xé toạc vải và chạm vào da thịt cậu. Hét lên vì hoảng sợ, Jon cố nạy những ngón tay khỏi chân mình bằng mũi kiếm và ném nó đi. Nó nằm động đậy trên đất, những ngón tay hết nắm vào lại mở ra.

Cái xác lao tới. Không hề có máu. Một tay, mặt bị cắt gần như làm đôi, nhưng dường như nó chẳng cảm thấy gì. “Tránh xa ra!” cậu ra lệnh, giọng run rẩy. “Ngô,”con quạ hét. “ngô, ngô.” Cánh tay bị thương nặng đang thòi ra khỏi tay áo rách rưới như một con rắn tái nhợt với năm cái đầu

bé tý là năm ngón tay đen sì. Bóng Ma nhảy lên và ngoạm lấy. Những ngón tay gẫy vụn. Jon xả kiếm vảo cổ cái xác, cảm thấy lưỡi kiếm ăn khá sâu và mạnh.

Thây ma Othor lao vào cậu, đánh ngã cậu xuống đất.

Jon hụt hơi khi cái bàn đổ xuống đè trúng hai xương đòn gánh. Thanh kiêm, thanh kiếm đâu rồi? Cậu đã mất thanh kiếm chết tiệt đó rồi! Khi cậu định mở miệng hét, sinh vật kia thọc những ngón tay chết chóc đen sì vào miệng cậu. Cậu vừa cố nhổ cái tay vừa cố đẩy ra, nhưng người chết quá nặng. Tay nó cố chọc sầu hơn vào cổ họng cậu với cái lạnh băng giá, khiến cậu nghẹn họng. Mặt nó dí sát vào mặt cậu, và cậu chẳng còn thấy gì khác ngoài nó. Băng giá in đậm trong mắt nó với màu xanh lấp lánh. Jon cào cấu lớp da lạnh lẽo và đá vào chân nó. Cậu cố cắn, cố đá, cố thở...

Và đột nhiên cậu thấy nhẹ hẳn. Những ngón tay của nó rời khỏi cổ họng cậu. Tất cả những gì Jon có thể làm là lăn sang một bên, nôn khan và run rẩy.

Bóng Ma lại tóm được nó. Cậu quan sát con sói tuyết cắn ngập răng vào bụng sinh vật kia và bắt đầu cắn xé. Cậu chỉ ngồi đó nhìn, nửa tỉnh nửa mơ một lúc lâu trước khi cậu nhớ tới thanh kiếm... và thấy chỉ huy Mormont vẫn trong tình trạng tя͢ầи ͙ȶя͢υồиɠ và ngái ngủ đang đứng ở ngưỡng cửa với ngọn đèn dầu trên tay. Cánh tay cụt ngón nham nhở bò trên sàn nhà và tiến về phía ông.

Jon cố hét, nhưng mất giọng. Cậu loạng choạng đứng dậy, đá cánh tay đi và giật lấy ngọn đèn từ tay Gấu Già.

Ánh lửa bập bùng gần tắt. “Đốt!” con quạ ré lên. “Đốt, đốt, đốt!”

Jon quay lại và thấy cái rèm cửa cậu vừa giật khỏi cửa sổ. Cậu dùng cả hai tay ném ngọn đèn vào đống vải nhàu nhĩ. Vành kim loại bẹp dúm, thủy tinh vỡ tan, dầu tràn ra và tấm rèm bùng cháy. Hơi nóng táp vào mặt cậu dễ chịu hơn bất cứ nụ hôn nào Jon từng biết tới. “Bóng Ma!” cậu hét.

Con sói tuyết tránh ra và chạy tới chỗ cậu khi sinh vật kia cố đứng dậy, những con rắn đen sì lòi ra ngoài từ vết thương lớn trên ổ bụng. Jon thò tay vào đám lửa, nắm lấy tấm rèm cháy và quật chúng về phía tử thi. Hãy đốt cháy nó đi, cậu cầu nguyện trong khi lớp vải bắt lửa vào cái xác, thân thánh ơi, con xin người, con xin người, hãy đốt cháy nó đi.