Hậu Duệ Của Sư Tử Vàng

Chương 14: Jon

Cây Trắng là tên ngôi làng trên những tấm bản đồ cũ của Sam. Jon không nghĩ đó là một ngôi làng. Bốn ngôi nhà một gian siêu vẹo, một hàng rào bằng tường đá thô bao quanh bãi nuôi cừu trống huếch, và một cái giếng. Những ngôi nhà được lợp bằng cỏ, cửa sổ được che bằng những mảnh da sống rách tả tơi. Tỏa bóng xuống ngôi nhà là tán lá đỏ thẫm và những cành cây trắng xám loang lổ của một cây đướccây đước khổng lồ kỳ quái.

Jon Snow chưa từng thấy cái cây nào như vậy. Đường kính thân cây rộng gần ba mét và cành lá vươn xa đến mức phủ khuất cả ngôi làng. Nhưng kích thước đó cũng không làm cậu bận tâm bằng khuôn mặt… đặc biệt là cái miệng, không có vết chạm trổ hay đυ.c đẽo, chỉ là một chiếc lỗ với răng cưa lởm chởm, lớn đến nỗi có thể nuốt trọn một con cừu.

Đây không phải xương cừu. Cũng không phải đầu lâu của một con cừu trong đám tro tàn.

“Một cây cổ thụ.” Mormont ngồi trên lưng ngựa và nhíu mày. “Cổ thụ,” con quạ trên vai ông đồng tình. “Cổ, cổ, cổ.”

“Và đầy sức mạnh.” Jon có thể cảm nhận được sức mạnh của nó.

Thoren Smallwood xuống ngựa đứng cạnh cái cây, trong bộ giáp và tấm che ngực màu đen. “Hãy nhìn khuôn mặt này xem. Thảo nào con người sợ chúng, khi lần đầu tiên họ tới Westeros. Tôi chỉ muốn cho cái thứ quỷ quái này một nhát rìu!”

Jon lên tiếng: “Cha tôi tin rằng không ai có thể nói dối trước một cây mặt người. Các cựu thần biết khi nào con người nói dối.”

“Cha ta cũng tin vào điều đó,” Gấu Già nói. “Để ta xem cái đầu lâu đó.”

Jon xuống ngựa. Sau lưng cậu là chiếc bao da màu đen đựng thanh Móng Dài, một thanh kiếm dài bản rộng mà Gấu Già tặng cậu vì đã cứu sống ông ấy. Thanh kiếm vô chủ dành cho đứa con hoang, người ta vẫn thường giễu cợt như vậy. Chuôi kiếm đã được trang trí mới cho hợp với Jon, đuôi kiếm hình đầu sói bằng đá xám, nhưng lưỡi kiếm thì vẫn bằng thép Valyrian, cũ, nhẹ và vô cùng sắc bén.

Cậu quỳ xuống và thò bàn tay đeo găng vào bụng cái xác. Phần bên trong chiếc lỗ toàn một màu đỏ của nhựa cây khô và có phần bị cháy đen vì lửa. Phía dưới chiếc sọ là một chiếc sọ khác nhỏ hơn, với xương hàm bị vỡ, được chôn một nửa trong đám tro tàn và những mẩu xương.

Khi Jon đem chiếc sọ tới cho tướng Mormont, Gấu Già nhấc nó bằng cả hai tay và nhìn chăm chăm vào hai hốc mắt. “Dân du mục hỏa thiêu người chết. Chúng ta vẫn biết điều đó. Giá như ta hỏi chúng lý do tại sao, khi vẫn còn một vài tên quanh đây.”

Jon Snow nhớ cái xác đứng lên như thế nào, đôi mắt xanh sáng rực trên khuôn mặt trắng bệch. Cậu biết tại sao, cậu chắc chắn điều đó.

“Ước gì những cái xương này biết nói,” Gấu Già lẩm bẩm. “Khi đó gã sẽ kể cho chúng ta nhiều chuyện đấy. Hắn chết như thế nào. Ai đốt hắn, và tại sao. Bọn dân du mục đã đi đâu.” Ông thở dài. “Những đứa con của rừng rậm có thể nói chuyện với người chết. Nhưng ta thì không.” Ông vứt cái sọ lại phía miệng cái cây, nó rơi bịch lên một đống tro tàn. “Đi kiểm tra những ngôi nhà này xem. Khổng Lồ, cậu leo lên ngọn cây này xem thế nào. Ta sẽ đem những con chó săn tới đây. Có lẽ lần này ta sẽ tìm thấy vài dấu vết mới hơn.” Giọng điệu của ông chứng tỏ ông đã hy vọng rất nhiều vào đợt tuần tra lần trước.

Mỗi ngôi nhà được hai người kiểm tra, để chắc chắn họ không bỏ sót thứ gì. Jon đi cặp với Eddison Tollett cau có khó ưa, một cận vệ tóc xám và gầy như một cây lao, những người anh em khác gọi cậu ta là Edd U Sầu. “Người chết sống dậy đi lại được đã đủ kinh khủng rồi,” cậu ta nói với Jon khi hai người băng qua ngôi làng. “Giờ thì Gấu Già lại còn muốn chúng nói chuyện được nữa à? Nếu vậy thì kết cục sẽ chẳng có gì tốt đẹp đâu. Tôi đảm bảo đấy. Mà ai dám chắc những cái xương đó không nói dối? Tại sao người chết lại phải thành thật hơn, thậm chí thông minh hơn? Rất có thể chúng là những gã ngu độn với những câu phàn nàn nhạt nhẽo – dưới đất lạnh quá, bia mộ của tôi đáng lẽ phải hoành tráng hơn chứ, tại sao thằng cha đó có nhiều dòi hơn tôi...”

Jon phải khom người để đi qua một chiếc cửa thấp, bước vào trong là nền nhà đầy đất bẩn thỉu. Ở đây chẳng có đồ đạc, không có dấu hiệu nào chứng tỏ ai đó từng sống ở đây, ngoại trừ một ít tro bên dưới ống khói trên mái nhà. “Thật là một nơi ảm đạm để sinh sống,” Jon nói.

“Tôi được sinh ra trong một ngôi nhà rất giống như thế này,” Edd U Sầu nói. “Đó là những năm tháng tươi đẹp đối với tôi. Quãng thời gian đó rất khó khăn.” Một chiếc giường rơm đặt ở một góc phòng. Edd nhìn nó với vẻ hoài niệm. “Tôi sẽ đánh đổi tất cả số vàng ở Casterly Rock để được ngủ trên giường một lần nữa.”

“Cậu gọi đó là cái giường sao?”

“Nếu nó mềm hơn mặt đất và có mái che bên trên, thì tôi gọi đó là cái giường.” Edd U Sầu hít hít không khí. “Tôi ngửi thấy mùi phân.”

Thoang thoảng. “Mùi phân đã lâu ngày,” Jon nói. Ngôi nhà có vẻ như đã bị bỏ trống một thời gian dài. Cậu quỳ xuống và kiểm tra đống rơm xem có gì giấu bên trong không, sau đó đi quanh các bức tường. Việc đó không mất nhiều thời gian cho lắm. “Chẳng có gì ở đây cả.”

Không có gì chính là điều mà Jon mong đợi; Cây Trắng là ngôi làng thứ tư mà họ đi qua, và ngôi làng nào cũng tương tự như nhau. Người đã đi hết, biến mất cùng với số của cải ít ỏi của họ và những con vật nuôi nếu có. Không ngôi làng nào có dấu vết của vụ tấn công. Chúng chỉ đơn giản là… trống rỗng.

“Cậu nghĩ chuyện gì đã xảy ra với tất cả bọn họ?” Jon hỏi.

“Một điều gì đó tồi tệ hơn chúng ta tưởng tượng,” Edd U Sầu gợi ý. “Ừm, có thể tôi cũng tưởng tượng được nó đấy, nhưng tốt hơn là không nên. Biết trước một kết cục kinh khủng chờ đợi mình là đủ lắm rồi, không cần phải suy nghĩ về nó làm gì.”

Hai con chó săn chạy lại ngửi ngửi chỗ cánh cửa. Những con chó khác chạy lăng xăng trong làng. Chett đang la lối chửi rủa chúng, giọng cậu ta vẫn đầy vẻ tức giận như thường lệ. Ánh sáng chiếu qua những tán lá đỏ của cây đước khiến mụn trên mặt cậu ta trông càng thêm đỏ tấy. Nhìn thấy Jon, anh ta nheo mắt; chẳng có chút tình cảm nào trong đó cả.

Ở những ngôi nhà khác họ cũng không tìm thấy thứ gì. “Đi rồi,” con quạ của ngài Mormont kêu lên rồi đập cánh bay lên đậu trên cây đước. “Đi rồi, đi rồi, đi rồi. “

“Bọn dân du mục mới chỉ ở ngôi làng này cách đây một năm.” Thoren Smallwood trông ra dáng lãnh chúa hơn tướng Mormont, ông ta mặc chiếc áo giáp đen bóng loáng và tấm che ngực rập nổi của Ser Jaremy Rykker. Chiếc áo choàng nặng nề được trang trí bằng tấm lông chồn, và gài huy hiệu bạc hình hai chiếc búa đặt chéo nhau của Nhà Rykkers. Đó từng là áo choàng của Ser Jaremy... nhưng bọn Ngoại Nhân đã gϊếŧ chết ông ấy, và Đội Tuần Đêm không để phí thứ gì cả.

“Một năm trước khi Robert là vua, cả vương quốc được sống trong hòa bình,” Jarman Buckwell nói. Anh ta là một người đàn ông thẳng thắn và lãnh đạm, đội trưởng Đội Biệt Kích. “Rất nhiều thứ có thể thay đổi trong vòng một năm.”

“Có một thứ không thay đổi,” Ser Mallador Locke nhấn mạnh. “Ít dân du mục hơn nghĩa là ít nỗi lo hơn. Ta sẽ không thương tiếc, dù chúng có là gì. Bọn cướp của hay gϊếŧ người, tất cả bọn chúng.”

Jon nghe thấy tiếng sột soạt trong tán lá trên đầu. Hai cành cây tách nhau ra, và cậu thoáng thấy một người đàn ông chuyền từ cành cây này sang cành cây khác nhanh như một con sóc. Bedwyck cao không quá một mét rưỡi và tóc đã điểm bạc. Đám lính biệt kích gọi ông ấy là Khổng Lồ. Ông ngồi trên một chạc cây phía trên cao và cất giọng: “Ở phía bắc có nước. Có thể là một cái hồ. Một vài ngọn đồi đá lửa mọc lên ở phía tây, không cao cho lắm. Ngoài ra không có gì nữa, thưa ngài.”

“Chúng ta có thể cắm trại ở đây tối nay,” Smallwood gợi ý.

Gấu Già ngước nhìn lên, mong rằng có thể nhìn thấy một thoáng bầu trời qua những cành cây trắng nhợt và những tán lá đỏ của cây đước. “Không,” ông tuyên bố. “Khổng Lồ, còn bao lâu nữa thì trời tối?”

“Ba tiếng, thưa ngài.”

“Chúng ta sẽ tiến về phía bắc,” Mormont quyết định. “Nếu tới cái hồ đó, chúng ta có thể hạ trại trên bờ hồ, có thể sẽ bắt được vài con cá. Jon, đưa giấy cho ta, đã đến lúc ta phải viết thư cho Maester Aemon.”

Jon tìm một mảnh giấy da, bút lông và mực trong túi đeo yên ngựa của mình và đem tới cho tướng chỉ huy. Ở làng Cây Trắng, Mormont viết nguệch ngoạc. Ngôi làng thứ tư. Tất cả đều trống rỗng. Bọn du mục đã đi hết. “Tìm Tarly và hãy giám sát cậu ta chuyển bức thư đi,” ông nói và đưa tờ giấy cho Jon. Khi ông huýt sáo, con quạ đập cánh bay xuống đậu lên đầu con ngựa của ông. “Ngô,” nó nhảy nhót gợi ý. Con ngựa hí lên inh ỏi.

Jon trèo lên lưng ngựa, quay đầu và phi đi. Dưới bóng cây đước vĩ đại, các anh em trong Đội Tuần Đêm đang chăm nom những con ngựa, họ nhai những sợi thịt bò muối, đi tiểu, sột soạt gãi, và chuyện trò râm ran. Khi nhận được lệnh đi tiếp, những câu chuyện chấm dứt và tất cả lại trèo lên yên ngựa. Nhóm biệt kích của Jarman Buckwell đi lên trước; cùng với họ là đạo quân tiên phong dưới sự chỉ huy của Thoren Smallwood xếp hàng dọc tiến lên. Tiếp theo đó là Gấu Già chỉ huy lực lượng chính, Ser Mallador Locke với ngựa thồ hành lý, cuối cùng là Ser Ottyn Wythers và lính gác phía sau. Hai trăm người tất cả, với số ngựa nhiều gấp rưỡi.

Ban ngày họ đi theo đường mòn và men theo sông suối, “con đường tuần binh” dẫn họ vào sâu hơn trong khu rừng hoang vu đầy lá và rễ cây. Đêm xuống, họ cắm trại dưới bầu trời đầy sao và cùng nhìn lên ngôi sao chổi. Những người anh em áo đen rời Hắc Thành với tinh thần lạc quan, những câu chuyện đùa và những truyền thuyết, nhưng sự im lặng đến ghê người của khu rừng dường như càng lúc càng khiến họ trở nên ủ rũ. Họ ít đùa giỡn nhau hơn, và mọi người cũng trở nên khó tính. Dù vậy nhưng không ai thừa nhận rằng mình sợ hãi – bởi họ là người của Đội Tuần Đêm, nhưng Jon có thể cảm nhận được sự khó chịu của mọi người. Bốn ngôi làng bỏ hoang, chẳng thấy bóng dáng dân du mục ở đâu, ngay cả bọn Ngoại Nhân dường như cũng lẩn trốn họ. Rừng ma chưa bao giờ trông rùng rợn hơn thế, ngay cả lính biệt kích kỳ cựu cũng phải công nhận điều đó.

Trên đường, Jon cởi chiếc găng tay ra để hong khô vết bỏng trên ngón tay. Những vết bỏng xấu xí. Cậu bỗng chợt nhớ mình vẫn hay xoa đầu Arya, cô em gái gầy như que củi của cậu. Cậu tự hỏi không biết cô bé giờ đang như thế nào. Cậu hơi buồn một chút khi nghĩ đến việc không bao giờ được xoa lên tóc em gái nữa. Cậu bắt đầu luyện tập những ngón tay, nắm lại rồi mở ra. Nếu để bàn tay cầm kiếm cứng lại và trở nên vụng về thì có lẽ cuộc đời cậu sẽ chấm dứt, cậu biết chắc chắn là như vậy. Ở bên ngoài Tường Thành, người ta luôn cần một thanh kiếm.

***

Jon thấy Samwell Tarly đang cùng những người phục vụ khác tắm cho lũ ngựa. Cậu có ba con để chăm sóc: ngựa của cậu ta và hai con ngựa thồ, mỗi con mang theo một chiếc chuồng lớn nhốt đầy quạ. Lũ quạ đập cánh loạn xạ khi Jon tiến đến và kêu inh ỏi đằng sau những chấn song. Một số con ré lên như thể chúng muốn nói điều gì đó. “Cậu đã dạy chúng nói à?” Jon hỏi Sam.

“Một vài từ thôi. Ba con đã biết nói Snow rồi đấy.”

“Một con kêu tên tôi đã đủ tệ lắm rồi,” Jon nói, “và các anh em áo đen chẳng ai thích nghe từ snow (tuyết) đâu.” Ở phía bắc, tuyết đồng nghĩa với sự chết chóc.

“Có gì ở làng Cây Trắng không?”

“Xương cốt, tro bụi, và những ngôi nhà trống huếch.” Jon đưa cho Sam cuộn giấy da. “Gấu Già muốn gửi thư về cho Aemon.”

Sam lấy một con chim ra khỏi l*иg, vuốt ve bộ lông, gài thông điệp vào chân nó và nói: “Bay về nhà nào, chú chim dũng cảm. Về nhà thôi.” Con quạ kêu lên vài tiếng khó hiểu như đáp lời Sam, rồi Sam tung nó lên không trung. Vỗ cánh, nó bay thẳng lên trời qua những tán cây. “Ước gì nó có thể đem mình theo cùng.”

“Cậu vẫn ước vậy sao?”

“Ừ,” Sam nói, “đúng, nhưng... mình không còn hay sợ sệt như trước nữa. Đêm đầu tiên, mỗi lần nghe ai đó thức dậy đi tiểu, mình lại nghĩ đó là bọn du mục bò vào để cắt cổ mình. Mình sợ rằng nếu nhắm mắt lại, mình có thể sẽ không bao giờ mở mắt ra được nữa, chỉ đến khi… bình minh đến.” Cậu ta gượng cười. “Mình có thể nhút nhát, nhưng mình không ngu ngốc. Toàn thân mình nhức mỏi vì cưỡi ngựa quá nhiều, và vì ngủ trên nền đất, nhưng hầu như mình chẳng thấy sợ chút nào. Nhìn này.” Cậu ta giơ một tay cho Jon thấy cậu thật sự vững vàng. “Mình đang nghiên cứu những tấm bản đồ.”

Thế giới thật kỳ lạ, Jon nghĩ. Hai trăm người dũng cảm rời Tường Thành, và người duy nhất không trở nên sợ hãi lại là Sam, kẻ luôn tự nhận mình là hèn nhát. “Vậy thì bọn mình sẽ cho cậu làm lính biệt kích,” cậu nói đùa. “Sau đó, cậu sẽ muốn trở thành người dẫn đường như Grenn ấy. Mình có cần thưa chuyện với Gấu Già không nhỉ?”

“Cậu dám à!” Sam kéo mũ của chiếc áo choàng đen vĩ đại đội lên đầu rồi vụng về trèo lên ngựa. Đó là một con ngựa cày, to lớn nhưng chậm chạp và lóng ngóng, chỉ nó mới có thể gánh được cân nặng của cậu ta. “Mình đã hy vọng chúng ta có thể ở lại khu làng một đêm,” cậu ta nói với vẻ nuối tiếc. “Chúng ta sẽ ngủ ngon lành dưới một mái nhà.”

“Không đủ cho tất cả chúng ta đâu.” Jon lại lên ngựa, và mỉm cười chia tay Sam. Đoàn người đang đi theo hàng rất ngay ngắn, vì vậy cậu phải đi vòng qua ngôi làng để tránh tắc nghẽn đường. Cậu đã quan sát làng Cây Trắng rất kỹ rồi.

Bóng Ma đột ngột lao ra từ bụi cây khiến con ngựa hoảng hốt chồm lên. Con sói trắng đi săn khá xa đoàn tuần tra, nhưng nó cũng không may mắn hơn những người được Smallwood cử đi theo dấu bọn du mục. Khu rừng cũng trống trải như ngôi làng vậy. Một buổi tối cậu đã nói chuyện với Dywen bên đống lửa.

“Đội của chúng ta rất đông, đi tới đâu ồn ào tới đó,” Jon nói. “Có lẽ vì thế bọn chúng sợ hãi và bỏ chạy trước rồi.”

“Sợ hãi và bỏ đi vì một cái gì đó, rõ ràng là như vậy,” Dywen nói.

Khi con ngựa đã bình tĩnh trở lại, Bóng Ma thoải mái chạy nhảy bên cạnh nó. Jon đuổi kịp Mormont khi ông đang đi qua một bụi cây táo gai. “Con chim đã đi chưa?” Gấu Già hỏi.

“Rồi thưa ngài. Sam đang dạy chúng nói.”

Gấu Già khịt mũi. “Cậu ta sẽ hối hận vì điều đó. Những con khốn đó rất ồn ào và chẳng bao giờ nói được lời nào đáng nghe cả.”

Họ cưỡi ngựa trong im lặng cho đến khi Jon cất lời, “Nếu chú của cháu cũng phát hiện ra những ngôi làng đều trống rỗng… “

“…thì ông ấy sẽ muốn tìm hiểu lý do tại sao,” Tướng Mormont nói thay cho Jon, “và đó có thể là ai đó, hoặc thứ gì đó không muốn kẻ khác biết được. Thôi, đội quân của chúng ta sẽ lên tới ba trăm người khi Qhorin tới. Dù kẻ địch ngoài kia là ai thì chúng ta cũng không phải là những kẻ dễ xơi. Chúng ta sẽ tìm thấy chúng, Jon, ta hứa với cháu.”

Hoặc là chúng sẽ tìm đến chúng ta, Jon thầm nghĩ.