Trại Trẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine

Chương 13

Cảm giác sợ hãi lần khắp người tôi. "Vâng."

"Tôi chết rồi." Từng từ được phát ra chậm chạp như một thứ chất lỏng đang ri rỉ nhỏ giọt. Ông ta chỉnh lại. "Tôi là người chết."

"Hãy nói cho cháu biết chuyện gì đã xảy ra", tôi nói. "Ông có thể nhớ lại không?"

Tiếp theo là một khoảng ngừng bặt. Gió rít qua các khe hở trên tường. Ông Martin nói gì đó nhưng tôi không nghe được.

"Ông nói lại đi. Làm ơn nào, Martin." "Ông ta đã gϊếŧ tôi", người chết thì thầm. "Ai cơ?"

"Ông lão của tôi.""Ý ông là cụ Oggie sao? Là chú của ông sao?"

"Ông lão của tôi", ông nhắc lại. "Ông ta to ra. Và khỏe, khỏe lắm." "Ai đã gϊếŧ ông, ông Martin?"

Con mắt ông ta nhắm lại, và tôi sợ ông ta đã lịm hẳn. Tôi nhìn sang Enoch.

Cậu ta gật đầu. Quả tim trên bàn tay cậu ta vẫn đập.

Mi mắt ông Martin lại động dậy. Ông ta lại bắt đầu nói, chậm chạp, đều đều, như thể đang thuật lại điều gì đó. "Ông ta đã ngủ yên qua cả trăm thế hệ, cuộn mình lại như một bào thai trong lòng đất bí hiểm, bị rễ cây tiêu hóa, đã phân hủy trong bóng tối, như hoa quả mùa hè đóng hộp bị lãng quên trong chạn thức ăn cho tới khi lưỡi mai của một người nông dân moi ông ta ra, một bà đỡ thô vụng cho một vụ thu hoạch lạ lùng."

Ông Martin ngừng lời, đôi môi run rẩy, và trong khoảng im lặng ngắn ngủi Emma nhìn tôi thì thầm, "Ông ấy đang nói gì thế?"

"Tớ không biết", tôi nói. "Nhưng nghe như một bài thơ vậy."

Ông ta nói tiếp, giọng lạc đi nhưng lúc này đã đủ lớn để tất cả mọi người có thể nghe thấy - "Ông ta nằm an nghỉ, đen nhánh, khuôn mặt hiền hòa mang màu bồ hóng, tứ chi héo tàn như những vỉa than, đôi bàn chân như những súc gỗ trồi bám đầy những chùm nho héo quắt" - và cuối cùng tôi cũng nhận ra bài thơ. Đó là bài thơ ông ta viết về cậu bé đầm lầy.

"Ôi, Jacob, tôi đã chăm lo cho ông ta cẩn thận biết bao!" ông Martin nói. "Lau bụi trên kính, thay đất và làm cho ông ta một ngôi nhà - như chăm đứa con đã lớn bị bầm giập của chính mình. Tôi chăm lo cẩn thận biết bao, vậy mà..." Ông ta bắt đầu run rẩy, và một giọt nước mắt chảy xuống gò má ông ta rồi đóng băng ở đó. "Vậy mà ông ta đã gϊếŧ tôi."

"Ý ông là cậu bé đầm lầy sao? Là Ông Lão sao?"

"Đưa tôi trở lại đi", ông ta cầu xin. "Đau quá." Bàn tay lạnh giá của ông ta nắm lấy vai tôi, giọng nói của ông ta lại tắt dần.

Tôi đưa mắt nhìn Enoch cầu cứu. Cậu ta siết chặt các ngón tay cầm quả tim và lắc đầu. "Giờ hãy nhanh lên, anh bạn", cậu ta nói.

Thế rồi tôi hiểu ra một điều. Cho dù ông Martin đã mô tả về cậu bé đầm lầy, nhưng không phải cậu bé đầm lầy đã gϊếŧ ông ta. Chúng chỉ trở nên hữu hình với những người còn lại, với chúng ta, khi chúng đang ăn, bà Peregrine đã nói với tôi như thế, có nghĩa là khi đã quá muộn. Ông Martin đã nhìn thấy một hồn rỗng - vào ban đêm, trong mưa, trong khi nó xé ông ta thành từng mảnh - và tưởng nhầm đó là hiện vật trung bày quý giá nhất của mình.

Cảm giác sợ hãi cố hữu lại sống dậy, làm cả người tôi nóng bừng. Tôi quay sang những người khác. "Một hồn rỗng đã gây ra chuyện này với ông ấy", tôi nói. "Nó đang ở đâu đó trên đảo."

"Hãy hỏi ông ấy xem ở đâu", Enoch nói.

"Ông Martin, ở đâu, cháu cần biết ông đã thấy nó ở đâu?" "Làm ơn. Đau quá."

"Ông đã thấy nó ở đâu?" "Ông ta tới cửa nhà tôi." "Ông Lão sao?"

Hơi thở Martin bỗng nín bặt lạ lùng. Thật kinh khủng khi phải nhìn vào ông nhưng tôi buộc mình làm thế, dõi theo ánh mắt ông trong khi nó di chuyển rồi tập trung nhìn vào thứ gì đó sau lưng tôi."Không", ông ta nói. "Là hắn."

Thế rồi một luồng sáng quét qua trên người chúng tôi và một giọng quát to,

"Ai ở đằng kia đấy!"

Emma nắm tay lại, và ngọn lửa tắt phụt, tất cả chúng tôi cùng quay ngoắt lại thì thấy một người đàn ông đang đứng trên ngưỡng cửa, một bàn tay cầm đèn pin, trên bàn tay kia là một khẩu súng ngắn.

Enoch rút cánh tay ra khỏi cái bồn đá trong khi Emma và Bronwyn đứng sát lại quanh cái bồn để che Martin khỏi tầm nhìn. "Chúng cháu không hề có ý đột nhập", Bronwyn nói. "Chúng cháu đang định rời đi đây, thật đấy ạ!"

"Đứng yên tại chỗ của chúng mày!" người đàn ông quát. Giọng ông ta trầm trầm, không rõ khẩu âm vùng nào. Tôi không thể nhìn thấy được khuôn mặt ông ta đằng sau luồng sáng, nhưng những cái áo khoác được mặc chồng lên nhau lập tức cho biết danh tính chủ nhân. Đó chính là người quan sát chim nọ.

"Thưa ông, chúng cháu chưa có gì ăn suốt cả ngày hôm nay rồi", Enoch rêи ɾỉ, và một lần hiếm hoi nghe đúng như một cậu nhóc mười hai tuổi. "Chúng cháu chỉ đến đây tìm một hai con cá thôi, cháu xin thề đấy ạ!"

"Vậy sao?" người đàn ông nói. "Có vẻ chúng mày đã moi một con ra rồi. Để xem là loại nào nào." Người đàn ông đưa qua đưa lại cây đèn pin như thể muốn dùng luồng sáng tách chúng tôi ra. "Dẹp sang bên!"

Chúng tôi làm theo, và ông ta quét luồng sáng lên người ông Martin, một cảnh tượng bệnh hoạn đến rùng rợn. "Chúa ơi, quả là một con cá kỳ lạ, phải không nào?" ông ta nói, hoàn toàn dửng dưng. "Chắc phải là cá tươi. Nó vẫn còn đang quẫy!" Luồng sáng dừng lại trên khuôn mặt ông Martin. Con mắt ông ta đảo đảo, đôi môi ông ta mấp máy không thành tiếng, chỉ là chút hồi quang phản chiếu trong khi sự sống Enoch truyền cho ông ta cạn dần.

"Ông là ai?" Bronwyn hỏi.

"Điều đó còn phụ thuộc vào việc mày muốn hỏi về ai", người đàn ông đáp, "và điều đó còn xa mới quan trọng bằng việc tao biết chúng mày là ai." Ông ta chiếu đèn pin vào mỗi chúng tôi và nói như thể đang dẫn ra một hồ sơ mật. "Emma Bloom, một người phát lửa, bị bỏ rơi tại một gánh xiếc khi bố mẹ cô ta không bán được con mình cho gánh xiếc nào. Bronwyn Bruntley, sở hữu thần lực, chiến binh hung hãn, không hề biết đến sức mạnh của chính mình cho tới buổi tối cô ta thộp cổ gã bố dượng thối tha. Enoch O'Connor, có năng lực hồi sinh, ra đời trong một gia đình làm nghề mai táng không thể hiểu nổi tại sao các khách hàng của họ cứ liên tục bỏ đi." Tôi thấy từng người thu mình lại tránh xa khỏi ông ta. Rồi ông ta chiếu đèn vào tôi. "Và Jacob. Những ngày vừa rồi cậu qua lại với những người đặc biệt thật nhỉ."

"Làm sao ông biết tên tôi?"

Người đàn ông hắng giọng, và khi lên tiếng trở lại, giọng ông ta đã thay đổi hẳn. "Cậu quên tôi nhanh vậy sao?" ông ta nói với khẩu âm New England. "Nhưng khi đó tôi chỉ là ông già lái xe buýt tầm thường, vì thế tôi đoán là cậu không nhớ nổi."

Chuyện này nghe thật vô lý, nhưng bằng cách nào đó người đàn ông này đã làm tôi nhớ ngay tới ông lái xe buýt ở trường cấp hai của tôi, ông Barron. Một người chẳng mấy ai ưa, tính khí khó chịu, cứng nhắc như người máy tới mức vào ngày cuối cùng của năm lớp tám chúng tôi đã dùng ghim dập kín lên khuôn mặt ông ta trên bức ảnh trong cuốn niên giám trường, làm nó trông như một hình nộm đang ngồi sau tay lái vậy. Tôi vừa kịp nhớ ra những gì ông ta thường nói khi tôi bước xuống xe buýt vào mỗi buổi chiều thì người đàn ông trước mặt tôi nhắc lại nó:"Hết tuyến, Portman!"

"Ông Barron?" tôi hoài nghi hỏi lại, cố tìm cách nhìn ra khuôn mặt ông ta đằng sau luồng sáng đèn pin.

Người đàn ông phá lên cười rồi hắng giọng, khẩu âm ông ta lại thay đổi: "Hoặc ông ta hoặc người làm vườn", ông ta nói bằng giọng Florida trầm trầm lè nhè. "Cây nhà ôôông bààà cần được cắt tỉa. Tôi sẽ tính giá phải chăng cho ôôông bààà!" Đó chính xác là giọng nói của người đàn ông trong nhiều năm đã chăm lo bãi cỏ của gia đình tôi và dọn sạch bể bơi cho chúng tôi.

"Làm sao ông làm được thế", tôi hỏi. "Làm thế nào ông biết những người đó?"

"Vì tôi chính là những người đó", người đàn ông nói, khẩu âm lại trầm xuống. Ông ta bật cười, làm bùng lên nỗi kinh hoàng trong tôi.

Tôi chợt nghĩ tới một điều. Đã bao giờ tôi thấy đôi mắt của ông Barron chưa nhỉ? Thực sự thì chưa. Ông ta luôn đeo cặp kính mát to tướng che kín mặt. Người làm vườn cũng đeo kính mát, và đội một cái mũ rộng vành. Tôi đã bao giờ quan sát thật kỹ bất cứ ai trong số họ chưa? Kẻ muôn mặt này còn từng đóng bao nhiêu vai nữa trong cuộc đời tôi đây?

"Có chuyện gì xảy ra thế?" Emma hỏi. "Người này là ai?" "Im mồm!" gã đàn ông gắt lên. "Rồi sẽ đến lượt mày."

"Ông đã theo dõi tôi", tôi nói. "Ông đã gϊếŧ những con cừu đó. Ông đã gϊếŧ ông Martin."

"Ai, tôi ư?" hắn nói, giọng vẻ như vô tội. "Tôi chẳng gϊếŧ ai cả." "Nhưng ông là một xác sống, đúng chứ?"

"Đó là cách gọi của chúng", hắn nói.

Tôi không hiểu nữa. Tôi đã không còn gặp người làm vườn kể từ khi mẹ tôi thay ông ta bằng người khác ba năm trước, và ông Barron cũng đã biến mất khỏi cuộc đời tôi sau năm lớp tám. Liệu có thật là họ - gã này - đã theo dõi tôi không?

"Làm thế nào ông biết phải tìm tôi ở đâu?"

"Sao chứ, Jacob", hắn nói, giọng lại thay đổi thêm lần nữa, "chính cậu đã cho tôi biết. Một cách bí mật, tất nhiên rồi." Giờ lại là khẩu âm miền Trung nước Mỹ, nhẹ nhàng, có học thức. Hắn chĩa cây đèn pin lên trên để quầng sáng của nó chiếu vào mặt mình.

Bộ râu tôi thấy hắn mang hôm trước đã biến mất. Giờ đây thì không thể nhầm lẫn được nữa.

"Bác sĩ Golan", tôi thốt lên, giọng nói lào thào của tôi bị chìm nghỉm trong tiếng mưa trút xuống rầm rầm.

Tôi nhớ lại cuộc nói chuyện điện thoại giữa chúng tôi mấy ngày trước. Tiếng ồn phía đầu dây bên kia - hắn nói đang ở sân bay. Nhưng không phải hắn đang đi đón em gái. Hắn đang tới tìm tôi.

Tôi tựa lưng vào cái bồn ông Martin nằm, choáng váng, cả người mụ mị. "Người hàng xóm", tôi nói. "Ông già đang tưới nước bãi cỏ vào đêm ông nội tôi chết. Đó cũng là ông."

Gã đàn ông mỉm cười.

"Nhưng còn đôi mắt của ông", tôi nói.

"Kính áp tròng", hắn trả lời. Hắn dùng ngón cái lấy một bên kính áp tròng ra, để lộ một con mắt trắng đυ.c. "Ngày nay người ta có thể làm giả những thứ thật đáng kinh ngạc. Và nếu tôi có thể dự đoán thêm vài câu hỏi nữa của cậu thì, phải, tôi là một bác sĩ tâm lý có bằng cấp - đầu óc của những người bình thường đã từ lâu hấp dẫn tôi - và không, bất chấp việc những buổi trị liệu của chúng ta dựa trên sự dối trá, tôi không nghĩ chúng hoàn toàn lãng phí thời gian. Kỳ thực, tôi có thể tiếp tục giúp đỡ cậu - hay đúng hơn là chúng ta có thể giúp đỡ lẫn nhau.""Làm ơn, Jacob", Emma nói, "đừng nghe hắn ta."

"Đừng lo", tôi nói. "Tớ đã một lần tin tưởng hắn. Tớ sẽ không mắc lại sai lầm đó đâu."

Golan tiếp tục nói như thể không nghe thấy lời tôi. "Tôi có thể trao cho cậu sự an toàn, tiền bạc. Tôi có thể trả lại cho cậu cuộc sống của cậu, Jacob. Tất cả những gì cậu phải làm là làm việc cùng chúng tôi."

"Chúng tôi?"

"Malthus và tôi", hắn nói, quay người ra sau gọi, "Hãy tới chào hỏi đi nào, Malthus."

Một cái bóng xuất hiện trên ngưỡng cửa đằng sau ông ta, và giây lát sau tất cả chúng tôi đều nghẹt thở bởi một thứ mùi tanh tưởi nồng nặc xộc lên. Bronwyn đưa tay bịt miệng và lùi lại một bước, còn tôi thấy hai nắm tay Emma siết lại, như thể cô đang định tấn công nó. Tôi đặt bàn tay lên cánh tay cô và mấp máy miệng nhắc, Đợi đã.

"Đây là toàn bộ đề nghị của tôi", Golan tiếp tục, cố làm ra vẻ chừng mực. "Giúp chúng tôi tìm ra thêm những người như cậu. Đổi lại, cậu sẽ không có gì phải sợ từ Malthus hay các đồng loại của ông ấy. Cậu có thể sống ở nhà. Những lúc rỗi rãi cậu sẽ đi cùng tôi và tìm hiểu thế giới, và chúng tôi sẽ trả cậu hậu hĩnh. Chúng ta sẽ nói với bố mẹ cậu rằng cậu là trợ lý nghiên cứu của tôi."

"Nếu tôi đồng ý", tôi nói, "chuyện gì sẽ xảy ra với các bạn tôi?"

Gã đàn ông làm một cử chỉ đe dọa bằng khẩu súng của mình. "Bọn họ đã có lựa chọn cho mình từ lâu rồi. Điều quan trọng là có một kế hoạch lớn lao đang diễn ra, Jacob, và cậu sẽ là một phần trong đó."

Tôi có cân nhắc tới điều đó không ư? Tôi đoán hẳn là có, cho dù chỉ trong một khoảnh khắc. Bác sĩ Golan đã đề nghị tôi đúng thứ tôi đang tìm kiếm: lựa chọn thứ ba. Một tương lai không phải là ở đây vĩnh viễn hay rời đi và chết. Nhưng chỉ cần một cái đưa mắt nhìn qua các bạn tôi, những khuôn mặt căng thẳng tột độ vì lo âu của họ, là đủ để xua tan mọi cám dỗ.

"Thế nào?" Golan hỏi. "Câu trả lời của cậu là gì?" "Tôi thà chết còn hơn làm bất cứ điều gì để giúp ông."

"Thế à", hắn nói, "nhưng cậu vốn đã giúp tôi rồi." Hắn bắt đầu lùi ra phía cửa. "Thật tiếc là chúng ta sẽ không có thêm buổi trị liệu nào cùng nhau nữa, Jacob. Cho dù tôi nghĩ đây không hoàn toàn là một mất mát vô ích. Bốn người các cậu có thể đủ để cuối cùng cũng giúp ông bạn Malthus trút bỏ được hình thù thấp kém ông ấy đã mắc kẹt quá lâu này."

"Ôi không", Enoch khóc nấc lên, "tớ không muốn bị ăn thịt!"

"Đừng khóc, mất mặt quá đấy", Bronwyn gắt. "Chúng ta phải gϊếŧ chúng, có thế thôi."

"Uớc gì tôi có thể ở lại quan sát", Golan nói trên ngưỡng cửa. "Tôi thực sự thích chứng kiến!"

Sau đó hắn bỏ đi, chỉ còn lại chúng tôi và nó. Tôi có thể nghe thấy con quái vật kia thở trong bóng tối, tiếng thở rin rít như đường ống hỏng bị rò. Tất cả chúng tôi đều lùi lại một bước, rồi một bước nữa, cho tới khi lưng chúng tôi chạm tường, và chúng tôi đứng sát vào nhau như những tội nhân bị kết án trước một đội xử bắn."Tớ cần ánh sáng", tôi thì thầm với Emma, cô đang rơi vào trạng thái bị sốc đến mức dường như quên mất năng lực của mình.

Bàn tay cô như bốc cháy, và giữa những cái bóng chập chờn tôi nhìn thấy nó, đang ẩn nấp giữa mấy cái bồn. Cơn ác mộng của tôi. Nó cúi rạp xuống đó, trần trụi, nhẵn thín, lớp da xám đen lốm đốm rũ xuống ngoài bộ xương thành những nếp gấp chừng, đôi mắt nó nằm giữa thứ chất nhầy tanh thối chảy nhỏ giọt viền quanh, chân vòng kiềng, bàn chân thô kệch và các bàn tay xương xẩu biến dạng thành các móng vuốt vô dụng - từng phần cơ thể trông đều nhăn nheo tàn tạ như thân hình của một người già không đếm nổi số tuổi, trừ một thứ. Bộ hàm ngoại cỡ của nó là đặc trưng nổi bật, bên trong là bộ răng dài và sắc như những con dao lóc thịt nhỏ, cồng kềnh đến mức phần lợi không tài nào chứa đựng nổi, vì thế đôi môi của nó luôn co lại thành một nụ cười quái gở.

Thế rồi những cái răng khủng khϊếp đó bắt đầu há ra, miệng con quái vật mở rộng để ba cái lưỡi ngoằn ngoèo thò ra vươn lên trong không khí, mỗi cái to bằng cỡ cổ tay tôi. Chúng duỗi dài ra tới nửa chiều dài căn phòng, phải đến ba mét hoặc hơn, rồi lơ lửng ở đó, uốn éo, con quái vật thở phì phò qua hai cái lỗ như bị hủi trên khuôn mặt, tựa hồ đang ngửi mùi chúng tôi và ngẫm nghĩ xem nên ngấu nghiến chúng tôi thế nào là hay nhất. Lý do duy nhất khiến chúng tôi chưa chết là vì chúng tôi quá dễ bị gϊếŧ như một kẻ sành ăn đang chiêm ngưỡng một bữa thịnh soạn, nó chẳng có lý do nào để nóng vội.

Những người khác không thể nhìn thấy con quái vật như tôi nhưng nhận ra cái bóng của nó cùng những cái lưỡi như dây thừng hắt trên tường. Emma vẫy cánh tay, và ngọn lửa của cô cháy mạnh hơn. "Nó đang làm gì?" cô thì thầm. "Tại sao nó không xông vào chúng ta?"

"Nó đang đùa bỡn với chúng ta", tôi nói. "Nó biết chúng ta đã như cá nằm trên thớt."

"Chúng ta không phải thế", Bronwyn thì thầm. "Chỉ cần tớ nhìn được rõ thẳng mặt nó. Tớ sẽ tống bộ răng kinh tởm đó tụt hết vào trong mồm nó."

"Tớ sẽ không lại gần bộ răng đó đâu nếu tớ là cậu", tôi nói.

Con hồn rỗng ì ạch bước thêm vài bước tương ứng với những bước chúng tôi lùi lại, những cái lưỡi của nó rời nhau hơn rồi tách hẳn khỏi nhau, một cái hướng về phía tôi, cái thứ hai về phía Enoch và cái thứ ba về phía Emma.

"Để bọn tao yên!" Emma hét lên, vung bàn tay rừng rực như một ngọn đuốc đánh ra. Cái lưỡi ngoặt đi tránh khỏi ngọn lửa của cô, sau đó rụt lại như một con rắn chuẩn bị tấn công.

"Chúng ta cần tới chỗ cánh cửa!" tôi hô lớn. "Con hồn rỗng đang ở chỗ cái bồn thứ ba từ trái sang, vì vậy hãy đi sang bên phải!"

"Chúng ta sẽ không bao giờ tới được đó!" Enoch kêu to. Một cái lưỡi chạm vào má cậu ta, cậu ta liền hét toáng lên.

"Chúng ta sẽ chạy khi đếm đến ba!" Emma hô lớn. "Một..."

Thế rồi Bronwyn lao mình về phía con quái vật, hét lớn như một nữ thần báo tử. Con quái vật rít lên và đứng thẳng người dậy trên hai chân, mớ da bùng nhùng của nó căng lên. Đúng lúc nó định lao ba cái lưỡi về phía cô, cô bèn đâm sầm cả người vào cái bồn đá có Martin, đưa hai cánh tay luồn xuống đáy cái bồn khi nó lật nghiêng rồi nhấc bổng nó lên, và cả cái bồn to tướng đó, đầy ắp đá cá và thi thể của Martin, bay bổng trong không trung và rơi ập xuống con hồn rỗng với một tiếng rầm khủng khϊếp.Bronwyn quay ngoắt lại lao về phía chúng tôi. "TRÁNH RA!" cô hét lên, tôi vừa kịp tránh sang bên thì cô lao rầm vào bức tường ngay cạnh tôi, phá tung thành một cái lỗ qua những tấm ván nát mục. Enoch, người bé nhỏ nhất trong chúng tôi, lao qua đầu tiên, theo sau là Emma và tôi còn chưa kịp phản đối thì Bronwyn đã chộp lấy hai vai lẳng vai tôi vào màn đêm ướt sũng. Tôi tiếp đất đập ngực xuống một vũng nước mưa. Cái lạnh làm tôi rùng mình, nhưng miễn đã cảm nhận được bất cứ cái gì ngoài cái lưỡi con quái vật hồn rỗng siết lại quanh cổ mình, tôi đã mừng lắm rồi.

Emma và Enoch kéo tôi đứng dậy, và chúng tôi bắt đầu chạy. Một lát sau, Emma lớn tiếng gọi tên Bronwyn rồi dừng lại. Chúng tôi ngoái lại sau và nhận ra Bronwyn không đi cùng chúng tôi.

Chúng tôi gọi cô và căng mắt tìm kiếm trong bóng tối không đủ can đảm để chạy trở lại, rồi sau đó Enoch reo lên, "Đằng kia!" và chúng tôi thấy Bronwyn đang dựa người vào một góc cái kho lạnh.

"Bạn ấy đang làm gì thế!" Emma kêu lên. "BRONWYN CHẠY ĐI!"

Có vẻ như cô gái đang bám lấy cái nhà kho. Sau đó, cô lùi lại chạy lấy đà rồi thúc vai vào góc chịu lực của căn nhà, và như một công trình xếp bằng que diêm, cả nhà kho đổ sập xuống, một đám mưa đá vụn và mảnh dăm gỗ văng ra tung tóe và bị một cơn gió thổi cuốn theo xuống con đường.

Tất cả chúng tôi cùng reo hò và hoan hô trong khi Bronwyn chạy hết tốc lực về phía chúng tôi với một nụ cười hể hả trên khuôn mặt, rồi đứng dưới cơn mưa xối xả, chúng tôi ôm hôn cô và cười phá lên. Song chẳng mấy chốc, tâm trạng chúng tôi lại chùng xuống vì cú sốc từ những gì vừa xảy ra dần đè nặng xuống, rồi sau đó Emma quay sang tôi hỏi một câu chắc hẳn đang nằm trong đầu cả ba người.

"Jacob, làm sao gã xác sống kia lại biết nhiều về cậu thế? Và cả bọn tớ nữa?" "Cậu gọi hắn là bác sĩ", Enoch nói.

"Hắn là bác sĩ tâm lý của tớ."

"Bác sĩ tâm lý!" Enoch thốt lên. "Tuyệt làm sao! Không chỉ đem kể tuốt về chúng ta với một gã xác sống, cậu ta còn bị điên nữa!"

"Nói lại ngay!" Emma hét lên, đẩy cậu ta thật mạnh. Cậu ta định đẩy lại thì tôi chen vào giữa.

"Dừng lại!" tôi nói, tách hai người khỏi nhau. Tôi nhìn thẳng vào Enoch. "Cậu nhầm rồi. Tớ không điên. Hắn làm cho tớ nghĩ như thế, mặc dù chắc chắn hắn đã biết tớ là người đặc biệt ngay từ đầu rồi. Nhưng cậu đã đúng về một điều. Tớ đã để lộ về các cậu. Tớ đã kể những câu chuyện của ông nội với một người xa lạ."

"Đó không phải lỗi của cậu", Emma nói. "Cậu đâu biết là chúng tớ có thật." "Tất nhiên là có chứ!" Enoch hét lên. "Abe kể cho cậu ta mọi thứ. Thậm chí còn cho cậu ta xem cả những bức ảnh chết tiệt chụp chúng ta!"

"Golan biết mọi thứ ngoài việc làm thế nào để tìm ra các cậu", tôi nói. "Và tớ đã dẫn hắn tới thẳng đây."

"Nhưng hắn đã lừa cậu", Bronwyn nói. "Tớ chỉ muốn các cậu biết tớ rất xin lỗi."

Emma ôm lấy tôi. "Ổn rồi. Chúng ta còn sống."

"Trong lúc này", Enoch nói. "Nhưng gã điên đó vẫn ở ngoài kia, và từ chuyện hắn sẵn sàng cho con thú cưng hồn rỗng của mình chén chúng ta, tớ dám cược hắn đã biết được cách để tự mình đi vào vòng.""Ôi Chúa ơi, cậu có lý", Emma nói.

"Nếu vậy", tôi nói, "tốt hơn chúng ta nên quay về đó trước hắn."

"Và trước khi nó chui ra", Bronwyn nói thêm. Chúng tôi quay lại và thấy cô đang chỉ vào kho lạnh vừa đổ sập, những mảnh vỡ đã bắt đầu nhúc nhích trong đống đổ nát. "Tớ đoán nó sẽ lao thẳng tới chỗ chúng ta, và vừa khéo tớ chẳng còn cái nhà nào để đẩy sập xuống đầu nó nữa."

Ai đó hô lớn, Chạy! nhưng chúng tôi vốn đã chạy rồi, lao xuống con đường về nơi duy nhất hồn rỗng không thể bắt kịp chúng tôi - trong vòng. Chúng tôi hối hả chạy khỏi thị trấn trong bóng tối đặc quánh, những đường viền xanh mờ mờ của các trại trẻ nhường chỗ cho những cánh đồng dốc thoai thoải, rồi đến lượt chạy lên triền dốc, từng dòng nước chảy xiết ngang qua chân chúng tôi, làm lối mòn trở nên đầy bất trắc.

Enoch trượt chân ngã nhào. Chúng tôi nâng cậu ta dậy và chạy tiếp. Khi chúng tôi sắp leo lêи đỉиɦ đồi, hai bàn chân Bronwyn cũng trượt đi, và cô gái trượt dài xuống dốc đến sáu mét rồi mới dừng lại được. Emma và tôi chạy trở lại giúp đỡ, và trong khi hai chúng tôi nắm lấy tay cô, tôi quay lại nhìn phía sau chúng tôi, hy vọng trông thấy bóng dáng con quái vật kia. Nhưng chỉ có màn mưa xối xả, tối đen như mực. Khả năng phát hiện ra các hồn rỗng của tôi chẳng còn mấy giá trị khi không có ánh sáng để nhìn thấy chúng. Nhưng sau đó, khi chúng tôi leo ngược trở lêи đỉиɦ đồi, l*иg ngực phập phồng hổn hển, một tia chớp chạy dài lóe lên thắp sáng màn đêm, tôi liền quay lại thì thấy nó. Nó ở cách phía sau chúng tôi một quãng nhưng đang leo lên rất nhanh, những cái lưỡi chắc nịch cắm xuống bùn và kéo nó lên sườn dốc dần dần như một con nhện.

"Chạy!" tôi hét lên, và tất cả chúng tôi cùng lao xuống triền dốc bên kia, cả bốn cùng ngồi bệt xuống trượt đi cho tới khi xuống tới đất bằng và có thể chạy tiếp.

Lại một tia chớp nữa lóe lên. Con quái vật đã ở gần hơn lúc trước. Với tốc độ này, chúng tôi khó lòng chạy thoát khỏi nó. Hy vọng duy nhất của chúng tôi là bày mưu đánh lừa nó.

"Nếu nó bắt kịp chúng ta, nó sẽ gϊếŧ hết chúng ta", tôi nói lớn tiếng, "nhưng nếu chúng ta tách ra, nó sẽ phải lựa chọn. Tớ sẽ dẫn nó đi vòng vèo theo đường dài và cố làm nó bị lạc trong đầm. Các cậu hãy tới chỗ vòng nhanh nhất có thể!"

"Cậu điên rồi!" Emma kêu lên. "Nếu có ai đó cần ở lại đằng sau, người đó phải là tớ! Tớ có thể dùng lửa chiến đấu với nó!"

"Trong mưa thì không được đâu", tôi nói, "với lại cậu cũng đâu có nhìn thấy nó!"

"Tớ sẽ không để cậu tự sát như thế đâu!" cô hét lên.

Không còn thời gian tranh luận nữa, Bronwyn cùng Enoch chạy tiếp về phía trước trong khi Emma và tôi rẽ khỏi lối mòn, hy vọng con quái vật sẽ đuổi theo, và nó làm thế thật. Lúc này nó đã đuổi gần tới mức không cần tia chớp nào lóe lên tôi cũng biết nó đang ở đâu; chỉ cần cảm giác cuộn thắt lại trong bụng là đủ để tôi xác định nó.

Chúng tôi cầm tay nhau chạy, băng qua một cánh đồng đầy luống cày và rãnh, vấp ngã và níu lấy nhau trong cuộc chạy trốn thục mạng. Tôi đang đưa mắt nhìn quanh tìm những hòn đá để dùng làm vũ khí thì trong màn đêm phía trước xuất hiện một cái nhà - một cái lán nhỏ xiêu vẹo, cửa sổ vỡ kính còn cửa ra vào thì đâu mất, lúc trước vì quá hoảng hốt nên tôi đã không nhìn thấy nó."Chúng mình phải trốn đi thôi!" tôi nói giữa hai nhịp thở.

Cầu trời cho con quái vật này ngu ngốc, tôi thầm cầu nguyện trong khi chúng tôi rẽ về phía cái lán, cầu trời, cầu trời cho nó ngu ngốc. Chúng tôi đi thành một vòng cung rộng, hy vọng vào được trong lán mà không bị phát hiện ra.

"Đợi đã!" Emma kêu lên khi chúng tôi chạy vòng ra đằng sau lán. Cô lấy một miếng vải thưa của Enoch từ trong áo khoác ra và cuống cuồng quấn nó quanh một hòn đá nhặt dưới đất, làm thành một thứ kiểu như dây lăng đá. Cô bưng nó giữa hai bàn tay cho tới khi nó bắt lửa rồi lăng nó ra xa khỏi chúng tôi. Nó rơi xuống đám bùn lầy ngoài xa, sáng lên yếu ớt trong bóng tối.

"Để đánh lạc hướng", cô giải thích, rồi chúng tôi quay lại chui vào ẩn mình trong căn lán u ám.

Chúng tôi lách qua một cánh cửa đã bung khỏi bản lề rồi đặt chân vào một bãi phân chuồng tối đen rộng mênh mông nồng nặc mùi. Khi bàn chân chúng tôi lún xuống trong tiếng òm ọp lộn mửa, tôi mới nhận ra chúng tôi đang ở đâu.

"Cái gì thế này?" Emma thì thầm, rồi đột ngột có tiếng con vật gì đó thở hắt ra làm cả hai chúng tôi giật nẩy mình. Căn lán đầy nghịt những con cừu tìm chỗ trú ẩn khỏi màn đêm bất trắc, hệt như chúng tôi. Khi thị lực đã dần dần thích ứng được, chúng tôi bắt gặp những ánh mắt lờ mờ của chúng đang nhìn chằm chằm vào mình - có đến hàng chục, hàng chục con.

"Đây đúng là thứ tớ nghĩ phải không", Emma vừa nói vừa rón rén nhấc một bàn chân lên.

"Đừng nghĩ về nó", tôi đáp. "Lại đây nào, chúng ta cần tránh xa khỏi cái cửa này."

Tôi cầm lấy tay cô và hai chúng tôi tiến sâu vào trong lán, lách giữa một bầy những con vật nhút nhát co rúm lại khi chúng tôi chạm phải. Chúng tôi đi qua hành lang hẹp vào một căn phòng có cái cửa sổ cao và cửa ra vào vẫn nằm nguyên trên bản lề, tách biệt khỏi màn đêm bên ngoài, còn những căn phòng khác chẳng biết có được vậy hay không. Lách vào tận góc trong cùng, chúng tôi quỳ gối xuống chờ đợi và lắng nghe, nấp sau một bầy cừu sợ sệt.

Chúng tôi cố ngồi không quá sát xuống lớp phân nhưng thực sự không thể nào tránh nổi chuyện này. Sau một phút nhìn chăm chăm mờ mịt vào bóng tối, tôi bắt đầu nhận ra những hình dáng trong phòng. Trong một góc có những chiếc thùng và hộp xếp chất đống, dọc theo bức tường sau lưng chúng tôi treo những món dụng cụ han gỉ. Tôi tìm kiếm xem có thứ gì đó đủ sắc để dùng làm vũ khí. Nhìn thấy một vật trong giống cái kéo khổng lồ, tôi đứng dậy cầm lấy.

"Định xén lông vài con cừu à?" Emma hỏi. "Còn hơn không có gì."

Đúng lúc tôi gỡ cái kéo xén lông cừu từ trên tường xuống, có tiếng gì đó vang lên bên ngoài cửa sổ. Lũ cừu be be hoảng hốt, rồi sau đó một cái lưỡi dài đen sì chui vào qua khung cửa sổ mất kính. Tôi ngồi trở lại xuống sàn nhẹ nhàng hết mức có thể. Emma đưa bàn tay lên che miệng để giấu hơi thở của mình.

Cái lưỡi sục sạo quanh phòng như một cái kính tiềm vọng, dường như đang xem xét không gian này. May thay, chúng tôi đã ẩn trốn trong căn phòng nặng mùi nhất trên cả hòn đảo. Mùi của từng ấy con cừu hẳn đã át hết mùi hai chúng tôi, vì sau một phút có vẻ như con quái vật đã bỏ cuộc và thu lưỡi ra ngoài cửa sổ. Chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân nó đi xa dần.Emma đưa bàn tay che miệng xuống và thở hắt ra. "Tớ nghĩ nó bị lừa rồi", cô thì thầm.

"Tớ muốn cậu biết một điều", tôi nói. "Nếu chúng ta thoát được lần này, tớ sẽ ở lại."

Emma nắm lấy bàn tay tôi. "Cậu định thế thật chứ?"

"Tớ không về nhà được. Không thể, sau những gì đã xảy ra. Dù thế nào đi nữa, dù không biết tớ có giúp được không, tớ cũng nợ các cậu điều đó và còn nợ nhiều hơn nữa. Tất cả các cậu từng an toàn tuyệt đối cho tới khi tớ đến đây."

"Nếu chúng ta qua được lần này", cô vừa nói vừa tựa vào tôi, tớ sẽ không nuối tiếc gì nữa."

Rồi, dường như một thứ nam châm kỳ lạ nào đó khiến đầu chúng tôi cứ thế xáp lại gần nhau, nhưng đúng lúc môi chúng tôi sắp chạm nhau, sự yên tĩnh bị những tiếng be be kinh hoàng vọng lại từ căn phòng bên cạnh phá vỡ. Chúng tôi rời nhau ra trong khi âm thanh kinh khủng kia làm lũ cừu xung quanh chúng tôi cuồng lên nhốn nháo, nhảy chồm lên nhau và đẩy chúng tôi áp vào tường.

Con quái vật không ngu ngốc như tôi đã hy vọng.

Rồi sau đó tôi có thể ngửi thấy mùi nó, thậm chí còn nồng nặc hơn những thứ mùi xú uế khác trong căn lán, và tôi có thể cảm thấy nó đang ở ngưỡng cửa căn phòng. Toàn bộ lũ cừu lập tức dạt ra xa cửa, xúm xít vào nhau như một đàn cá, thành ra chúng tôi bị lèn chặt vào tường đến mức không khí bị ép hết ra khỏi phổi. Hai chúng tôi bám chặt vào nhau nhưng không dám phát ra âm thanh nào, và trong một khoảnh khắc căng thẳng tột độ, chúng tôi chỉ nghe thấy tiếng be be của lũ cừu và tiếng những cái móng chân loạng choạng đang khua lộc cộc. Sau đó, một tiếng kêu kinh hoàng vang lên, đột ngột và tuyệt vọng rồi im bặt cũng đột ngột như thế, bị cắt ngang bởi tiếng gặm xương răng rắc rởn tóc gáy. Không cần nhìn tôi cũng biết một con cừu vừa bị xé toạc ra.

Cảnh hỗn loạn nổ ra. Những con vật hoảng loạn nhảy chồm chồm lên va vào nhau, hất chúng tôi đập vào tường nhiều lần đến mức tôi xây xẩm mặt mày. Con hồn rỗng rít lên một tiếng chói tai rồi bắt đầu tóm lũ cừu đưa lên hai hàm răng ròng ròng nước dãi của nó, hết con này tới con khác, ngoạm mỗi con một nhát làm máu phun ra tung tóe rồi ném sang bên như một ông vua phàm ăn đang ngốn ngấu một bữa tiệc thời Trung cổ. Nó lặp đi lặp lại hành động đó - gϊếŧ dần lũ cừu để mở đường về phía chúng tôi. Tôi cứng đờ người vì sợ hãi. Đó là lý do vì sao tôi hoàn toàn không lý giải được điều diễn ra sau đó.

Tất cả bản năng của tôi đều lớn tiếng thúc giục tôi hãy ẩn kín, hãy rúc sâu nữa xuống đống phân, nhưng rồi một ý nghĩ rõ ràng lóe lên xuyên qua cơn tê liệt - mình sẽ không để hai đứa chết trong cái lán đầy phân này - và tôi kéo Emma ra đằng sau con cừu to nhất tôi có thể thấy rồi lao tới chỗ cửa ra vào.

Cánh cửa đang đóng và cách đó ba mét, đồng thời có rất nhiều cừu đứng chen giữa nó và tôi, nhưng tôi mở một đường lách qua chúng như một cầu thủ tiền vệ. Tôi thúc vai vào cánh cửa và nó mở tung ra.

Tôi nhào ra cơn mưa bên ngoài và hét lên, "Lại đây bắt tao đi, đồ khốn kiếp xấu xí!" Tôi biết mình đã thu hút được sự chú ý của nó vì nó rống lên một tiếng thật ghê rợn và những con cừu bay ra khỏi cửa qua trước mặt tôi. Tôi loạng choạng đứng lên, và khi đã chắc con quái vật đang đuổi theo tôi chứ không phải Emma, tôi chạy về phía đầm lầy.Tôi có thể cảm thấy nó đằng sau mình. Tôi đã có thể chạy nhanh hơn, nhưng tôi vẫn cầm theo cái kéo xén lông cừu - dường như tôi không thể buộc mình bỏ nó đi được - và rồi mặt đất mềm ra dưới chân tôi, và tôi biết mình đã tới đầm lầy.

Hai lần con hồn rỗng đã tới đủ gần để lưỡi của nó quệt được lên lưng tôi, và cả hai lần, đúng lúc tôi tin chắc một cái lưỡi sắp sửa quấn quanh cổ tôi và siết lại đến khi đầu tôi vỡ tung, nó lại vấp ngã và tụt lại. Lý do duy nhất khiến tôi đến được chỗ mộ đá với cái đầu vẫn còn nguyên vẹn gắn vào người là vì tôi biết chính xác phải đặt chân lên chỗ nào; nhờ Emma, tôi có thể chạy gấp qua chặng đường đó vào một đêm không trăng giữa cơn bão tố.

Leo lên gò đất của mộ đá, tôi chạy vòng quanh tới lối vào kè đá và chui vào. Bên trong đen kịt như hắc ín, nhưng điều đó cũng chẳng quan trọng - chỉ cần tới được căn phòng trong cùng là tôi sẽ an toàn. Tôi bò tới bằng hai bàn tay và đầu gối, vì thậm chí đứng thôi cũng sẽ làm mất thêm thời gian mà tôi thì không có thời gian để lãng phí, và khi đã bò được nửa đường tới đích, đồng thời cảm thấy một chút lạc quan dè dặt về cơ may sống sót của mình, thì đột nhiên tôi không thể bò đi thêm được nữa. Một trong những cái lưỡi đã quấn lấy cổ chân tôi.

Con hồn rỗng đã quấn hai cái lưỡi của nó quanh những tảng đá bên ngoài cửa đường hầm như để giữ cho nó khỏi trượt đi trên bùn, rồi phủ kín lối vào bằng thân hình của nó như một cái nắp úp lên miệng bình. Cái lưỡi thứ ba đang lôi tôi về phía nó, tôi đã trở thành một con cá mắc câu.

Tôi cào xuống đất, nhưng phía dưới toàn là sỏi và các ngón tay tôi lập tức trượt đi. Tôi lật ngửa người ra và dùng bàn tay còn tự do bấu vào các tảng đá, nhưng tôi đang trôi đi quá nhanh. Tôi cố dùng cái kéo xén lông cừu của mình đăm vào cái lưỡi, nhưng nó quá gân guốc và chắc chắn, như cái dây chão tạo thành từ những bó cơ đang uốn lượn, trong khi lưỡi kéo của tôi quá cùn. Vậy là tôi nhắm chặt mắt lại, vì tôi không muốn hai hàm răng đang há hoác của nó là thứ cuối cùng tôi nhìn thấy, và nắm chặt cái kéo xén lông cừu chĩa ra phía trước bằng cả hai bàn tay. Thời gian dường như bị kéo căng ra, người ta bảo đó là tình trạng thường thấy trong những vụ đâm xe, tai nạn tàu hỏa hay những cú rơi tự do từ trên máy bay xuống, và điều tiếp theo tôi cảm thấy là một cú va đập làm cả người tôi nẩy lên khi tôi đâm sầm vào con hồn rỗng.

Tất cả không khí trong l*иg ngực tôi bị ép hết ra ngoài, và tôi nghe thấy nó rống lên. Tôi và nó cùng nhào ra khỏi đường hầm rồi lăn từ trên gò mộ xuống đầm lầy, và khi mở được mắt ra, tôi thấy cái kéo xén lông cừu của mình đâm lút cán vào hai hốc mắt của con quái vật. Nó rống lên như mười con lợn cùng bị thiến một lúc, lăn lộn và quẫy đạp trong lớp bùn đang dềnh lên vì mưa, tuôn ra cả một dòng chất lỏng đen ngòm của chính nó, thứ chất lỏng sền sệt phun lên tay cầm han gỉ của cái kéo.

Tôi có thể cảm thấy nó đang chết dần, sự sống bị tháo cạn dần khỏi nó, lưỡi nó lỏng ra quanh cổ chân tôi. Tôi có thể cảm thấy cả sự khác biệt ở mình, cơn hoảng loạn khiến dạ dày tôi quặn thắt đã dần dần biến mất. Cuối cùng, con quái vật cứng đờ ra và chìm nghỉm, trước mắt tôi, lớp chất lỏng nhớt quánh khép lại trên đầu nó, một đám máu đen thẫm là dấu hiệu duy nhất cho hay nó từng ở đó.Tôi có thể cảm thấy đầm lầy đang nuốt tôi xuống cùng con quái vật. Tôi càng vùng vẫy, nó dường như càng muốn tôi hơn. Tôi thầm nghĩ hẳn sẽ kỳ lạ lắm nếu một nghìn năm sau người ta tìm thấy tôi và con vật kia cùng được bảo quản trong than bùn dưới đầm lầy.

Tôi cố quẫy đạp tiến về phía đất cứng nhưng chỉ càng làm mình lún xuống sâu hơn. Bùn lầy dường như đang leo lên tôi, dâng lên theo cánh tay tôi, lên ngực tôi, bao quanh cổ tôi như một nút thòng lọng.

Tôi la lên kêu cứu - và thật kỳ diệu, cứu viện đến thật dưới dạng mà ban đầu tôi nghĩ là một con đom đóm đang nhấp nháy bay về phía tôi. Sau đó nghe thấy tiếng Emma gọi, tôi liền đáp lại.

Một cành cây đáp xuống nước. Tôi chộp lấy nó rồi Emma kéo, và cuối cùng khi đã ra được khỏi đầm lầy, tôi run rẩy đến mức không thể đứng nổi. Emma ngồi xuống bên cạnh tôi, và tôi đổ ập vào vòng tay cô.

Mình đã gϊếŧ nó, tôi nghĩ. Mình gϊếŧ được nó thật rồi. Trong suốt khoảng thời gian sống trong sợ hãi, tôi chưa bao giờ mơ mình có thể thực sự gϊếŧ được một con quái vật!

Điều đó làm tôi cảm thấy mạnh mẽ. Giờ đây tôi có thể tự bảo vệ bản thân. Tôi biết mình sẽ không bao giờ có thể mạnh mẽ như ông nội, nhưng tôi cũng không phải là một kẻ yếu đuối hèn nhát. Tôi có thể gϊếŧ chúng.

Tôi dè dặt cất lời. "Nó chết rồi. Tớ đã gϊếŧ nó."

Tôi bật cười. Emma ôm lấy tôi, áp má cô vào má tôi. "Tớ biết anh ấy hẳn sẽ rất tự hào về cậu", cô nói.

Chúng tôi hôn nhau, cảm giác thật êm ái dễ chịu, mưa nhỏ xuống từ mũi chúng tôi và chạy vào trong khuôn miệng vừa hé mở của chúng tôi thật ấm. Emma lùi ra ngay và thì thầm, "Điều lúc trước cậu đã nói ấy, cậu có ý đó thật chứ?"

"Tớ sẽ ở lại", tôi nói. "Nếu bà Peregrine cho phép." "Cô sẽ cho phép. Tớ sẽ đảm bảo chắc chắn điều đó." Truy๖enDKM.com

"Trước khi lo lắng về chuyện ấy, tốt hơn chúng ta cần tìm ra tay bác sĩ tâm lý của tớ và đoạt lấy súng của hắn."

"Đúng thế", cô nói, nét mặt đanh lại. "Vậy đừng lãng phí thời gian nữa."

Chúng tôi bỏ lại cơn mưa sau lưng và chui ra giữa một khung cảnh mờ mịt khói và tiếng động. Vòng thời gian vẫn chưa được khởi động lại, đầm lầy chi chít hố bom, bầu trời ầm ì tiếng động cơ máy bay, từng bức tường lửa màu cam lần về phía hàng cây ngoài xa. Tôi đang định đề xuất là chúng tôi hãy đợi đến khi hôm nay trở thành hôm qua và tất cả những thứ này biến mất rồi hãy cố gắng tìm đến trại trẻ thì hai cánh tay rắn rỏi bỗng ôm chầm lấy tôi.

"Cậu còn sống!" Bronwyn reo lên. Enoch và Hugh đang ở cùng cô, và khi cô lùi ra hai cậu con trai tiến lại bắt tay tôi và ngắm nghía tôi từ đầu đến chân.

"Tớ xin lỗi đã gọi cậu là một kẻ phản bội", Enoch nói. "Tớ rất vui là cậu không chết."

"Cả tớ cũng thế", tôi đáp.

"Tất cả vẫn lành lặn chứ?" Hugh vừa hỏi vừa ngắm nghía tôi.

"Còn đủ hai tay hai chân", tôi nói, vung chân đá lên để chứng tỏ chúng còn nguyên lành. "Và các cậu không phải lo về con hồn rỗng đó nữa. Chúng tớ gϊếŧ nó rồi.""Ồ, khiêm tốn làm gì!" Emma nói đầy tự hào. "Cậu đã gϊếŧ nó."

"Xuất sắc", Hugh nói, nhưng cả cậu ta lẫn hai người kia đều không hề mỉm cười.

"Có chuyện gì vậy?", tôi hỏi. "Đợi đã. Tại sao ba cậu không ở trại trẻ? Bà Peregrine đâu?"

"Cô ấy đi rồi", Bronwyn nói, môi run rẩy. "Cả cô Avocet nữa. Hắn bắt họ đi."

"Ôi Chúa ơi", Emma thốt lên. Chúng tôi đã quá muộn.

"Hắn đến mang theo súng", Hugh nói, mắt nhìn chằm chặp xuống đất. "Định bắt Claire làm con tin, nhưng bạn ấy cắn hắn bằng cái miệng sau gáy, thế là hắn tóm tớ. Tớ cố chống lại, nhưng hắn dùng súng nện vào đầu tớ." Cậu ta sờ tay vào sau tai và khi bỏ ra, các ngón tay cậu ta dính máu. "Hắn nhốt tất cả mọi người dưới hầm và nói nếu cô phụ trách và cô Avocet không biến thành chim, hắn sẽ khoan thêm một cái lỗ nữa lên đầu tớ. Họ đành làm theo, và hắn nhét cả hai vào trong một cái l*иg."

"Hắn có một cái l*иg sao?" Emma hỏi.

Hugh gật đầu. "Một cái l*иg nhỏ, để họ không có chỗ mà làm gì hết, như biến hình đổi dạng hay bay đi."

"Tớ cứ nghĩ chắc mình sẽ bị bắn, nhưng sau đó hắn tống tớ xuống hầm cùng những người khác rồi mang hai con chim bỏ chạy."

"Và bọn tớ tìm thấy họ như thế khi quay về", Enoch cay cú nói. "Trốn tránh như một đám hèn nhát."

"Bọn tớ không phải đang trốn!" Hugh gắt lên. "Hắn nhốt bọn tớ lại! Suýt nữa thì hắn đã bắn bọn tớ!"

"Quên chuyện đó đi", Emma quát. "Hắn chạy đi đâu rồi? Tại sao các cậu không đuổi theo hắn?!"

"Bọn tớ không biết hắn đi đâu", Bronwyn nói. "Bọn tớ đã hy vọng các cậu thấy hắn."

"Không, bọn tớ không thấy hắn!" Emma nói, bực bội đá vào một tảng đá.

Hugh lấy thứ gì đó trong túi áo sơ mi ra. Đó là một bức ảnh nhỏ. "Hắn nhét cái này vào túi áo tớ trước khi bỏ đi. Nói nếu chúng tớ tìm cách bám theo hắn, đây là điều sẽ xảy ra."

Bronwyn giật bức ảnh trên tay Hugh. "Ôi", cô thảng thốt. "Có phải đó là cô Raven không?"

"Tớ nghĩ đó là cô Crow", Hugh nói, đưa hai bàn tay lên xoa mặt.

"Có nghĩa là họ coi như đã chết", Enoch rêи ɾỉ. "Tớ biết ngày này thế nào cũng tới mà!"

"Đáng lẽ chúng ta không bao giờ nên rời khỏi nhà", Emma khổ sở nói. "Millard đã đúng."

Ở rìa phía xa của đầm lầy, một quả bom rơi xuống, sau tiếng nổ nghẹt lại dưới bùn của nó là một trận mưa bùn đất bị hất tung lên ngoài xa.

"Đợi một phút đã", tôi nói. "Thứ nhất, chúng ta không biết đây là bà Crow hay Raven. Cũng hoàn toàn có thể chỉ là ảnh chụp một con quạ bình thường. Và nếu Golan định gϊếŧ bà Peregrine và bà Avocet, tại sao hắn lại phải khổ công đến thế để bắt cóc họ? Nếu hắn muốn họ phải chết, họ đã chết rồi." Tôi quay sang Emma. "Mà nếu chúng ta không ra ngoài, chúng ta cũng đã bị nhốt lại dưới tầng hầm như mọi người khác, và bây giờ vẫn còn một hồn rỗng đang lảng vảng ngoài kia!""Đừng cố vỗ về tớ làm gì!" cô nói. "Tất cả chuyện này xảy ra là lỗi của cậu!"

"Mười phút trước cậu còn nói là cậu rất mừng!" "Mười phút trước cô Peregrine còn chưa bị bắt cóc!"

"Các cậu thôi đi nào!" Hugh nói. "Điều quan trọng bây giờ là Chim bị bắt đi rồi và chúng ta cần cứu cô về!"

"Được", tôi nói, "vậy chúng ta hãy cùng nghĩ xem. Nếu các cậu là một xác sống, các cậu sẽ mang hai Chủ Vòng Thời Gian bị bắt cóc đi đâu?"

"Còn tùy vào việc cần làm gì với họ", Enoch nói. "Mà điều đó thì chúng ta không biết."

"Trước hết cậu sẽ phải đưa họ rời khỏi đảo đã", Emma nói. "Vì thế cậu cần một cái thuyền."

"Nhưng là hòn đảo nào?" Hugh hỏi. "Ở trong hay ở ngoài vòng thời gian?" "Hòn đảo ở ngoài đang bị một cơn bão tàn phá tanh bành", tôi nói. "Không

ai có thể đi xa được với một cái thuyền ngoài đó cả."

"Vậy thì hắn chắc phải ở bên này", Emma nói, bắt đầu có vẻ hy vọng. "Vậy thì chúng ta còn nấn ná ở đây làm gì? Tới chỗ bến tàu thôi!"

"Có thể hắn đang ở bến tàu", Enoch nói. "Đấy là nếu hắn chưa rời đi. Cho dù hắn không có ở đó và chúng ta tìm được cách lần ra hắn giữa đêm hôm tối tăm thế này mà không bị các mảnh trái phá xuyên thủng ruột trên đường, vẫn còn phải nghĩ tới khẩu súng của hắn nữa. Các cậu điên hết rồi sao? Các cậu muốn Chim bị bắt cóc hay bị bắn ngay trước mắt chúng ta hơn?"

"Hay lắm." Hugh hét lên. "Thế thì chúng ta chỉ cần bỏ cuộc và quay về nhà thôi, nhỉ? Ai thích một cốc trà nóng dễ chịu trước khi lên giường nào? Khỉ thật, đằng nào Chim cũng không có nhà, cứ thay hẳn bằng một cốc rượu toddy đi!" Cậu ta khóc trong giận dữ, đưa tay lên chùi mắt. "Làm sao đến thử mà cậu cũng không dám, sau tất cả những gì cô đã làm cho chúng ta chứ hả?"

Enoch còn chưa kịp trả lời, chúng tôi đã nghe thấy tiếng ai đó gọi từ phía con đường mòn. Hugh bước tới, nheo mắt, và sau giây lát khuôn mặt cậu ta trở nên thật lạ. "Đó là Fiona", cậu ta nói. Trước lúc đó tôi chưa bao giờ nghe thấy Fiona thốt ra dù chỉ một tiếng lí nhí. Không thể luận ra nổi cô đang nói gì trong tiếng động cơ máy bay và những tiếng nổ đằng xa, vậy là chúng tôi cùng chạy băng qua đầm lầy.

Khi tới chỗ con đường mòn, chúng tôi đều đã thở hổn hển còn Fiona đã khàn đặc giọng vì la hét, đôi mắt cô cũng hoang dại chẳng kém gì mái tóc. Ngay lập tức, cô bắt đầu lôi kéo, đẩy chúng tôi theo lối mòn về phía thị trấn, cuồng loạn la hét bằng thứ khẩu âm Ireland nặng trịch mà không ai trong chúng tôi hiểu nổi. Hugh nắm lấy hai vai cô và bảo cô hãy trấn tĩnh lại.

Fiona hít một hơi thật sâu, người run rẩy như một chiếc lá, đoạn chỉ về phía đằng sau mình. "Millard bám theo hắn!" cô nói. "Cậu ấy đã trốn khi hắn nhốt tất cả chúng ta xuống tầng hầm, và khi hắn chuồn ra ngoài cậu ấy liền bám theo!"

"Tới đâu?" tôi hỏi.

"Hắn có một cái thuyền."

"Thấy chưa!" Emma reo lên. "Bến tàu!""Không", Fiona nói, "đó là cái thuyền của cậu, Emma. Cái thuyền cậu nghĩ không ai biết đến, mà cậu vẫn buộc ở chỗ cái bãi cạn bé xíu ấy. Hắn đã leo lên thuyền cùng cái l*иg và chỉ đi vòng vòng, nhưng sau đó thủy triều lên quá mạnh, vì thế hắn ghé thuyền vào chỗ gò đá có ngọn hải đăng, và hắn vẫn đang ở đó."

Chúng tôi hối hả lấy hết sức chạy tới chỗ ngọn hải đăng. Khi tới chỗ vách đá nhìn xuống nó, chúng tôi tìm thấy những đứa trẻ còn lại trong một bãi cói túi rậm rạp gần rìa đá.

"Nằm xuống!" Millard khẽ suỵt.

Chúng tôi quỳ gối xuống và bò tới chỗ họ. Đám trẻ đang nằm phục xuống thành một đám rải rác đằng sau đám cói túi, thay nhau nhìn về phía hải đăng. Trông họ như bị sốc vì sức ép trái phá - nhất là những đứa bé nhất - tựa như chưa hoàn toàn tiếp nhận được cơn ác mộng đang diễn ra. Việc chúng tôi mới vừa sống sót qua khỏi một cơn ác mộng của riêng mình hầu như không được để tâm tới.

Tôi bò giữa đám cói túi tới rìa vách đá và nhìn ra. Xa hơn chỗ con tàu đắm nằm chìm dưới nước, tôi có thể thấy chiếc xuồng của Emma được buộc vào các tảng đá. Không thấy Golan và hai Chủ Vòng Thời Gian đâu.

"Hắn đang làm gì dưới kia vậy?" tôi hỏi.

"Ai biết được", Millard đáp. "Chờ ai đó tới đón, hoặc chờ con nước đứng để hắn có thể chèo ra."

"Trong cái xuồng bé xíu của tớ sao?" Emma hỏi có vẻ hoài nghi. "Như tớ nói rồi đấy, bọn tớ không biết."

Ba tiếng nổ đinh tai vang lên liền nhau, và tất cả chúng tôi đều nằm phục xuống trong khi bầu trời lóe sáng màu cam.

"Có quả bom nào rơi xuống quanh đây không, Millard?" Emma hỏi. "Nghiên cứu của tớ chỉ liên quan tới hành vi của con người và động vật

thôi", cậu ta đáp. "Chứ không phải bom."

"Quả là hữu ích vô cùng cho bọn mình lúc này", Enoch nói.

"Cậu còn chiếc thuyền nào giấu quanh đây không?" tôi hỏi Emma. "Tớ e là không", cô nói. "Chúng ta đành phải bơi qua đó thôi." "Bơi qua đó rồi sao?" Millard hỏi. "Để bị bắn nát bét ra à?" "Chúng ta sẽ nghĩ ra cách", Emma trả lời.

Millard thở dài. "Ồ, đáng yêu quá. Tự sát ngẫu hứng."

"Thế nào?" Emma nhìn từng người trong chúng tôi. "Ai có ý tưởng nào hay hơn không?"

"Nếu tớ có đám lính của tớ..." Enoch lên tiếng. "Chúng sẽ mủn ra từng mảnh trong nước", Millard nói.

Enoch gục đầu xuống. Những người khác im lặng.

"Vậy là quyết định rồi nhé", Emma nói. "Ai tham gia nào?"

Tôi giơ tay lên. Bronwyn cũng vậy. "Các cậu sẽ cần tới ai đó mà gã xác sống không thể trông thấy", Millard nói. "Để tớ đi cùng, nếu các cậu nhất định phải đi."

"Bốn là đủ rồi", Emma nói. "Hy vọng tất cả các cậu đều bơi tốt."

Không còn thời gian để nghĩ lại hay nói những lời tạm biệt dài dòng. Những người còn lại chúc chúng tôi may mắn, và chúng tôi lên đường.Chúng tôi cởi những chiếc áo khoác đi mưa màu đen của mình ra rồi lách qua đám cói túi, lom khom cúi gập người xuống như lính biệt kích đến khi tới chỗ lối mòn dẫn xuống bãi biển. Chúng tôi ngồi bệt trượt xuống, một dòng cát nhỏ chảy xuống quanh hai bàn chân và dọc theo hai ống quần chúng tôi.

Đột nhiên, một tiếng ồn vang lên như có năm mươi chiếc cưa máy cùng hoạt động trên đầu chúng tôi, chúng tôi vừa nằm bẹp xuống thì một chiếc máy bay ầm ầm lao qua, luồng gió thổi bạt tóc chúng tôi và làm tung lên một cơn lốc cát. Tôi nghiến chặt hai hàm răng, chờ đợi một quả bom nổ tung xé banh chúng tôi thành từng mảnh. Không có quả bom nào tới.

Chúng tôi tiếp tục đi. Khi tới bãi biển, Emma tập hợp chúng tôi sát lại nhau. "Có một xác tàu đắm nằm giữa chỗ này và hải đăng", cô nói. "Theo tớ ra chỗ

nó. Ngâm mình dưới nước. Đừng để hắn thấy các cậu. Khi tới chỗ xác tàu đắm,

chúng ta sẽ tìm kiếm hắn và quyết định xem tiếp theo làm gì."

"Hãy mang các Chủ Vòng Thời Gian của chúng ta về", Bronwyn nói.

Chúng tôi bò trườn xuống những con sóng và úp sấp bụng lao vào làn nước lạnh. Thoạt đầu việc bơi ra tương đối dễ dàng, nhưng chúng tôi càng bơi xa bờ, dòng nước càng có xu hướng đẩy chúng tôi trở lại. Thêm một chiếc máy bay nữa lao vụt qua trên đầu, làm bắn vọt lên một đám hạt nước rát rạt.