Giải Mật

Chương 3-7

Thật ra, nội dung thư không lành mạnh, Kim Trân không được nhận. Điều không nên hỏi không hỏi, không nên nói không nói, không nên biết không biết, đấy là kỉ luật căn bản nhất của đơn vị 701. Cho nên, không được nhận những thư loại đó ở đơn vị 701 không phải là vi phạm pháp luật, mà là kỉ luật. Đứng về tổ chức mà nói, họ mong những thư như vậy càng ít càng tốt, tránh phải dùng đến kỉ luật, giữa tổ chức và cá nhân có thêm những bí mật.

Nhưng với Kim Trân, bí mật là không thể loại bỏ. Một tháng sau, tổ giám sát thẩm tra thư tín lại nhận được của anh một bức thư từ nước X gửi đến. Quá là nhạy cảm! Mở ra xem, thư viết bằng tiếng Anh, nhìn chữ kí ở dưới, vẫn là L. Hinsh. Thư này tương đối dài, nói một cách khác, trong thư ông Hinsh tỏ ra bức xúc khuyên Kim Trân về với công việc cũ. Ông nói, ông vừa đọc trên một tạp chí khoa học nói về việc nghiên cứu não bộ con người đã có những tiến bộ mới, sau đấy thư trở về với chủ đề chính. Thư viết thế này.

Một giấc mơ đã thôi thúc tôi viết thư cho em. Nói thẳng ra, mấy hôm nay tôi vẫn nghĩ, hiện tại em đang làm việc gì, điều gì đã cuốn hút hoặc gây áp lực với em để em chọn một công việc khủng khϊếp đến thế? Đêm hôm qua, trong giấc mơ, tôi nghe thấy em nói, hiện tại em đang làm công tác giải mã cho tình báo của nước em. Tôi không biết tại sao lại nằm mơ như thế, mà cũng không có cách nào để giải mộng như em vẫn từng làm, có thể chỉ là giấc mơ, không ám chỉ điều gì. Mong chỉ là một giấc mơ. Nhưng tôi nghĩ, bản thân giấc mơ chứng tỏ tôi lo lắng và hi vọng ở em, tức là, tài năng của em có thể có người lôi đi làm cái công việc ấy, còn em thì quyết không thể làm. Tại sao tôi nói vậy? Tôi thấy có hai lí do:

Thứ nhất, do bản chất của mật mã quyết định.

Cho dù ngày nay trong giới mật mã có nhiều nhà khoa học, vì vậy có người coi nó là một môn khoa học, đã thu hút không ít nhà khoa học tài giỏi hiến kế, hiến sách, thậm chí hiến cả bản thân. Nhưng điều ấy không thể thay đổi bản chất của mật mã. Theo kinh nghiệm và nhận thức của tôi, bất luận lập mật mã hay phá khoá mật mã, bản chất mật mã là phản khoa học, phản văn minh, là âm mưu và cạm bẫy gϊếŧ hại khoa học và nhà khoa học. Ở đấy cần trí tuệ, nhưng là trí tuệ ma quỷ, làm cho nhân loại càng thêm gian trá, ác độc, trong đó đầy những thách thức, nhưng là thách thức vô vị, không có ích cho tiến bộ của loài người.

Thứ hai, do tính cách của em quyết định.

Tôi muốn nói, tính cách của em rất nhạy cảm và yếu đuối, nhạy cảm và cố chấp, điển hình tính cách của nhà khoa học, không thích hợp làm công việc bí mật. Vì bí mật phải chịu áp lực lớn, phải vứt bỏ bản thân, liệu em có thích hợp không? Tôi dám nói không thích hợp, vì em yếu đuối và cố chấp, kém năng động, không cẩn thận sẽ bỏ dở một cách khó hiểu. Em nên hiểu, con người trong tình huống nào thích nghi với tư duy? Chắc chắn là trong tình huống thanh thản tự tại, như có như không, cố ý lại như không cố tình. Nhưng nếu em làm công việc giải mã, coi như bị trói buộc, bị lợi ích và bí mật của quốc gia trói buộc, áp bức. Vấn đề then chốt của đất nước của em ở đâu? Tôi vẫn thường tự hỏi, đâu là đất nước tôi? Ba Lan hay Israel? Hay Anh quốc, Thụy Điển? Hay Trung Quốc, nước X?

Bây giờ thì tôi đã hiểu, cái gọi là đất nước là người thân, bạn bè bên cạnh, là lời nói, cây cầu, dòng nước, cánh rừng, là con đường, ngọn gió, là tiếng ve, đom đóm, vân vân, không phải là đất đai cương thổ, càng không phải là ý chí hoặc tín ngưỡng của một đảng phái chính trị, một tôn giáo. Nói thẳng ra, tôi vô cùng kính trọng đất nước mà em đang ở, tôi đã từng ở đấy hơn mười năm đẹp nhất của cuộc đời, tôi biết nói tiếng Trung Quốc, ở đấy trên mặt đất và cả dưới đất sâu đều có người thân của tôi - những người thân đã sống và đã chết, ở đấy còn có những nỗi nhớ và kí ức khôn cùng của tôi. Với ý nghĩa ấy, đất nước của em - Trung Quốc - cũng là đất nước của tôi, nhưng điều ấy không có nghĩa tôi phải tự lừa dối, theo đó lừa dối cả em. Nếu tôi không nói những điều này với em, không chỉ ra những khó khăn hiện tại của em và những nguy hiểm phải đối mặt, như thế tôi đã lừa dối em...

Thư của ông Hinsh có những điều nói ra nhưng không thể lấy lại nổi, không đầy một tháng sau, lại nhận được lá thư thứ ba. Lá thư này mở đầu ông tỏ ra bực tức với Kim Trân, chủ yếu trách cậu không trả lời. Nhưng tại sao Kim Trân không trả lời, chừng như ông ta cũng đã hiểu theo ý mình.

Em không trả lời thư, chứng tỏ em đang làm công việc ấy - công việc giải mã.

Đó là những người hiểu im lặng = không phản đối = xác nhận.

Tiếp theo, ông ta cố kiềm chế tình cảm, có những lời lẽ nặng tình cảm.

Không hiểu tại sao, hễ nghĩ đến em, tôi cảm thấy lòng mình bị một bàn tay đẫm máu vò nát, bóp nghẹt, toàn thân suy nhược bất lực. Cuộc đời mỗi con người đều có số, có thể em là số trong cuộc đời tôi. Kim Trân, Kim Trân thân mến, giữa tôi với em đã có chuyện gì, tại sao tôi không yên tâm nổi? Kim Trân, Kim Trân thân mến, hãy nói với tôi, em không làm công việc giải mã, giống như nỗi lo trong giấc mơ của tôi. Nhưng tài trí của em, chương trình nghiên cứu khoa học của em, và cả sự im lặng lâu ngày của em, khiến tôi càng tin rằng có thể em là giấc mơ bất hạnh của tôi. Ôi, mật mã, cái đồ mật mã chết tiệt! Khứu giác của em rất thính nhạy, ôm con người em vào lòng, thật ra là giam vào ngục, ném xuống giếng! Ôi, Kim Trân, Kim Trân thân yêu nếu đúng như vậy, em hãy nghe lời tôi, nhất định phải chọn con đường trở về, nếu còn một chút đất trống để trở về, em không nên do dự, lập tức quay về. Nếu không có cách quay về, vậy Kim Trân ơi, Kim Trân thân yêu của tôi, dù sao cũng phải nghe lời tôi, trong những bộ mã em thử phá, em có thể chọn lấy một bộ, nhưng đừng chọn tử mật của nước X.

Tử mật là mật mã cao cấp nhất mà đơn vị 701 đang phải đối mặt, có người nói tử mật là thủ đoạn dùng tiền cộng với xã hội đen của một đoàn thể tôn giáo, thu hút cộng với uy hϊếp một nhà khoa học làm ra, nhưng sau khi nghiên cứu thành công, bởi nó có liên quan đến nhiều cơ quan, rất khó, trong bí mật có bí mật, chồng chéo phức tạp, sâu không thấy đáy, thậm chí chủ nhân của nó cũng không thể sử dụng nổi, cuối cùng bán cho nước X, trở thành mật mã quân sự của nước X, và cũng là bộ mật mã mà đơn vị 701 đang khát khao giải mã. Mấy năm nay, những người tài giỏi của phòng giải mã đơn vị 701 cứ phải khổ sở mò mẫm, phấn đấu, đánh vật, mơ ước giải được nó, kết quả làm mọi người phải sợ hãi, không dám đυ.ng vào nó. Sự thật thì, người điên cờ điên vì tham gia giải bộ mật mã ấy. Nói một cách khác, ông ta đã bị nhà khoa học nghiên cứu làm nên bộ mật mã ấy đẩy đến chỗ điên. Những người không bị đẩy đến chỗ điên nhưng tinh thần cũng không vì thế mà khoẻ mạnh, vì nhát gan, thông minh, nên không dám đυ.ng đến bộ tử mật. Người thông minh biết kết quả sau khi đυ.ng đến nó, cho nên không đυ.ng đến, một lần nữa chứng tỏ họ thông minh. Đó là cạm bẫy, là hố đen, người thông minh sẽ tránh xa nó, người dũng cảm sẽ bị điên, người điên khiến mọi người kính nể nó, lẩn tránh nó, đó là hiện trạng phá khoá mật mã tử mật ở đơn vị 701, ai cũng sốt ruột, nhưng ai cũng trốn tránh.

Bây giờ ông Hinsh khuyên Kim Trân tránh xa nó, điều ấy chứng tỏ tử mật rất khó giải, đυ.ng vào nó sẽ không có kết quả tốt đẹp, mặt khác như ám chỉ ông đã hiểu bộ mật mã ấy rồi. Qua mấy bức thư, có thể thấy tình cảm của ông đối với Kim Trân là không bình thường, nếu lợi dụng được tình cảm ấy, rất có thể moi ở ông ta những linh cảm để giải mã tử mật. Vậy là, một bức thư kí tên Kim Trân được gửi đi.

Thư đánh máy, chỉ có lạc khoản và thời gian được viết tay, là bút tích Kim Trân, nhưng không phải Kim Trân tự viết. Nói một câu khó nghe, Kim Trân bị tổ chức lợi dụng. Bởi vì, mục đích gửi thư cho ông Hinsh là phá khoá tử mật. Việc này đối với người suốt ngày đọc sách và đánh cờ với người điên cờ, rõ ràng không dính dáng gì, cho nên khỏi cần cho biết. Với lại, để Kim Trân viết, chưa chắc đã đem lại hiệu quả. Lá thư có những năm chuyên gia khởi thảo, ba vị lãnh đạo định đoạt, giả thiết hàng loạt câu chữ của Kim Trân, hết sức tha thiết và khéo léo rất mong ông Hinsh vô cùng kính trọng bảo cho cậu ta: tại sao tôi không thể phá được mật mã tử mật?

Có thể do tác dụng của một loạt câu phức hợp khẩn thiết và khéo léo, ông Hinsh rất nhanh chóng trả lời, lời lẽ vừa không thể khác vừa chân thành. Đầu tiên ông than thở vì hiện trạng bất hạnh của Kim Trân. Trong đó trách Kim Trân không biết gì, vừa khiển trách số phận vô tình, không công bằng. Tiếp theo, ông viết:

Tôi cảm thấy bị xúc động mạnh, muốn nói những bí mật với em, nhưng không biết đấy là sức mạnh nào. Có thể, để tôi viết xong lá thư này, gửi đi, tôi sẽ vô cùng hối hận. Tôi đã từng thề, suốt đời không để ai biết bí mật của mình, nhưng vì tốt với em, chừng như tôi không thể không nói...

Bí mật gì?

Trong thư, ông Hinsh nói với chúng tôi, thì ra mùa đông năm ấy ông đưa hai hòm sách về Đại học N, chuẩn bị để nghiên cứu não bộ con người, nhưng mùa xuân năm tiếp theo có một người đến từ nước Israel đến tìm ông, người ấy nói, có một đất nước là mơ ước của người Do Thái, nhưng lúc này một đất nước như thế còn rất khó khăn, liệu ông có thể ngồi nhìn đồng bào của mình chìm trong buồn đau? Ông Hinsh nói, tất nhiên không thể. Người đến tìm nói: vậy tôi mong ông làm chút gì đó cho đồng bào của mình.

Làm gì?

Trong thư ông Hinsh nói, ông đã giúp đồng bào mình giải mấy bộ mật mã của nước bên cạnh, hơn nữa, ông làm trong mấy năm liền. Có thể, đấy là lời nhắn lại cho ông Lily khi ông Hinsh đưa cả gia đình sang nước X: Xuất phát từ nguyện vọng thiết tha của dân tộc, về sau tôi đã làm cho đồng bào của tôi một việc khẩn cấp và vô cùng bí mật, nỗi khổ và nguyện vọng của họ làm tôi xúc động, cho tôi được từ bỏ lí tưởng. Ông Hinsh viết tiếp: Tôi gặp may, được tin dùng, tôi liên tiếp giải được mấy bộ mật mã của nước bên cạnh, lập tức tôi được giới giải mã tôn vinh như hồi đầu được giới toán học tôn vinh.

Tiếp theo, có những sự việc có thể tưởng tượng, ví dụ về sau nước X tại sao huy động người giúp đỡ ông ta, đưa cả gia đình ông như đón nhận một báu vật, ấy là họ muốn dùng kĩ thuật phá mã của ông. Nhưng từ sau ngày đến nước X, có một sự việc mà ông Hinsh không nghĩ đến. Ông ta viết như thế này.

Tôi không hề nghĩ đến, họ gọi tôi đến không phải để phá mã của nước láng giềng, là gọi tôi đến để giải mật mã của chính nước họ, tức là bộ tử mật. Khỏi phải nói, nếu một ngày nào đấy tôi giải được hoặc sẽ giải được, bộ mật mã ấy sẽ bị phế bỏ. Tức là, công việc của tôi là báo hỉ hoặc báo tin buồn cho mật mã tử mật. Tôi trở thành cột đo hướng gió để nước X cảm nhận nước thù địch giải được mật mã tử mật. Có thể, tôi nên cảm thấy vinh dự, vì mọi người tin tôi không thể giải nổi mật mã tử mật sẽ không ai giải nổi. Không biết tại sao, có thể tôi không thích vai trò hiện nay của tôi, có thể mật mã tử mật không thể phá nổi khiến tôi phản cảm, tóm lại tôi rất muốn giải được mật mã tử mật. Nhưng cho đến nay, tôi vẫn chưa đυ.ng đến công việc ấy, đấy là lí do để tôi nói với em đừng mong giải được.

Mọi người chú ý, bưu cục thư đi và bút tích của mấy thư trước không giống nhau, chứng tỏ ông Hinsh biết sự nguy hiểm khi nói ra những điều ấy. Gửi những thư ấy ông như kẻ bán nước, một lần nữa chứng tỏ ông có cảm tình sâu sắc với Kim Trân. Xem ra, có thể lợi dụng tình cảm ấy. Vậy là, lại một thư nữa viết với danh nghĩa Kim Trân gửi cho ông Hinsh. Trong thư này, “Kim Trân” muốn lợi dụng tình thầy trò để nói rõ tất cả:

Bây giờ em không còn tự chủ, nếu em muốn được mình tự chủ, cách duy nhất là phá được bộ mật mã tử mật... Em tin thầy đã làm quen với tử mật nhiều năm nay, nhất định chỉ ra được cho em lối thoát sai lầm... Không có kinh nghiệm, có sự chỉ bảo, sự chỉ bảo cũng là tài sản... Thầy Hinsh kính mến, thầy đánh em đi, mắng em đi, phỉ nhổ em đi, em đã thành Giu-đa mất rồi...

Một bức thư như vậy không thể gửi thẳng cho ông Hinsh, cuối cùng quyết định sẽ do một người của phía chúng ta đang ở nước X chuyển thư. Tuy có thể tin rằng, thư sẽ an toàn đến tay ông Hinsh, nhưng ông ta có trả lời hay không, người của đơn vị 701 chưa đủ tin. Cuối cùng, Kim Trân hiện tại - Kim Trân ngụy - không khác gì Giu-đa, với một học trò như vậy trong tình huống bình thường thầy giáo sẽ không thèm để tâm. Nói một cách khác, Kim Trân ngụy hiện tại kẹt giữa đáng thương và đáng ghét, để ông Hinsh xoá bỏ cái đáng ghét, giữ lại cái đáng thương, điều này có thể khó hơn cả phá được bí mật của tử mật. Cũng là nói, thư này chỉ là sự cầu may và tâm lí cầu may. Ở một góc độ nhất định, đơn vị 701 lúc ấy đã bó tay trong việc giải mã, đến mức bị trọng thương phải đi bệnh viện.

Như một kỳ tích, ông Hinsh trả lời thư.

Nửa năm tiếp theo, ông Hinsh không sợ hiểm nguy, tiếp xúc với người của phía chúng tôi, cung cấp cho Kim Trân thân yêu nhiều tài liệu tuyệt mật và tư tưởng để rà phá mật mã tử mật. Bởi vậy, Tổng bộ tổ chức một nhóm tạm thời nghiên cứu cách giải mã tử mật, thành viên đều do Tổng bộ chỉ định, cả nhóm phải nắm lấy cơ hội, phá vỡ bí mật của tử mật. Có điều không ai ngờ, lẽ ra họ phải cho Kim Trân cơ hội này. Sự thật thì, trong khoảng thời gian gần một năm, ông Hinsh không quản ngại vất vả đã gửi cho Kim Trân một loạt thư, Kim Trân không những không được nhận mà cũng không hề hay biết. Kim Trân không hề biết nội dung những thư đó, nếu có ý nghĩ gì đó cũng chỉ là thêm những giá trị để Kim Trân gọi rắn ra khỏi hang. Cho nên về sau lãnh đạo thấy Kim Trân càng ngày càng không muốn tiến thủ, thậm chí có thể dùng từ lêu têu để đánh giá Kim Trân, tổ chức rất yên tâm bỏ qua cho cậu ta, nhìn cậu ta bằng ánh mắt khác. Bởi vì, cậu là người móc nối để phá bí mật của tử mật.

Cho nên, việc ngày càng không muốn tiến thủ của Kim Trân ấy chỉ là chuyện cậu đọc sách, đánh cờ, về sau thêm vào việc giải mộng cho người khác. Cùng với thuật giải mộng ngẫu nhiên đúng, tất nhiên có thêm nhiều người tỏ ra hiếu kì, họ kín đáo tìm cậu ta, nói với cậu ta về những ý nghĩ ban đêm, đề nghị cậu giải thích. Giống như đánh cờ, Kim Trân không thích gì công việc này, nhưng do tình cảm, cũng có thể không thể từ chối nổi, cậu cứ phải đáp ứng yêu cầu của mọi người, giải thích có đầu có cuối những suy nghĩ không rõ ràng.

Mỗi tuần lễ có bốn buổi chiều toàn thể nhân viên nghiệp vụ phải tham gia sinh hoạt chính trị, nội dung không giống nhau, có lúc truyền đạt chỉ thị cấp trên, có lúc nghe báo cáo, có lúc tự do thảo luận. Gặp những hôm tự do thảo luận, Kim Trân thường bị người khác đưa ra ngoài, lặng lẽ hoạt động giải mộng. Một hôm Kim Trân đang giải mộng cho ai đó, bị ông Phó Cục trưởng phụ trách công tác xây dựng Đảng tóm tại trận. Ông này là con người thiên tả, thích làm to chuyện, làm rắc rối, ông ta cho rằng Kim Trân làm cái trò mê tín dị đoan, phê bình khá gay gắt, đồng thời bắt Kim Trân viết bản tự kiểm điểm.

Ông Phó Cục trưởng này uy tín đối với cấp dưới rất thấp, nhất là những người làm nghiệp vụ càng xem thường ông, họ xúi Kim Trân mặc kệ ông ta, hoặc chỉ viết qua loa vài câu. Kim Trân cũng định viết qua loa cho xong chuyện, nhưng cái qua loa để cậu ta giải thích khác với cái qua loa bình thường. Bản kiểm điểm nộp lên trên, chỉ gọn một câu: mọi bí mật ở đời đều nằm trong giấc mơ, gồm cả mật mã.

Như thế đâu phải là qua loa? Rõ ràng là biện giải, hình như cậu giải mộng cho người khác và công việc giải mật mã có liên quan với nhau, thậm chí còn có ý kiêu căng tự phụ. Ông Phó Cục trưởng tuy không biết gì về nghiệp vụ mật mã, nhưng với mộng, cái trò duy tâm, ông ta tỏ ra ghét cay ghét đắng. Ông nhìn bản kiểm điểm, cảm tưởng những dòng chữ trên đó đang nhăn nhở chế giễu ông, đang cười cợt với ông, đang nói xấu ông, ông nhảy dựng lên, nắm lấy bản kiểm điểm, thở hồng hộc xông ra khỏi văn phòng, ngồi lên chiếc mô-tô, phóng thẳng vào hang, đá tung cánh cửa sắt dày cộp của phòng giải mã, trước mặt mọi người, lên giọng lãnh đạo chửi bới, văng ra những câu vô cùng mạnh mẽ và khó nghe. Ông ta chỉ vào Kim Trân, nói:

“Anh đưa một câu cho tôi, tôi cũng trả lại anh một câu: mọi con ếch ghẻ ngồi đáy giếng đều muốn ăn thịt thiên nga trên trời.”

Ông Phó Cục trưởng không ngờ, câu nói của ông ta phải trả giá thê thảm, thậm chí xấu hổ không còn cách nào để ở lại đơn vị 701. Thật ra, ông Phó Cục trưởng nói hơi quá đáng, nhưng bản chất của việc giải mã câu nói ấy không phải không thể, câu nói rất có thể nói, không sai. Bởi vì, như trên đã nói, sự nghiệp cô đơn, ầm thầm này ngoại trừ tri thức, kinh nghiệm và thiên tài ra, tưởng chừng cần thêm vận may từ ngoài hành tinh. Hơn nữa, Kim Trân ngày thường vẫn cho mọi người cảm giác, vừa không có những lời nói thông minh, mà cũng không thấy tài năng và lòng quyết tâm, có thể có may mắn hơn người khác.

Nhưng, Trung Quốc có câu nói của người xưa có thể phản kích lại thành kiến của người khác: nước biển không thể đong bằng đấu, con người không thể nhìn tướng mạo.

Tất nhiên, phản kích mạnh mẽ nhất là việc một năm sau Kim Trân đã phá được mật mã tử mật.

Chỉ cần một năm.

Phá được khoá mã tử mật.

Không ngờ, trong khi nhiều người lẩn tránh bộ khoá tử mật như tránh tà ma, ếch ghẻ ngồi đáy giếng lại dũng cảm trấn yểm được nó. Nếu mọi người biết trước cậu ta có thể phá được khoá mã ấy, sẽ không cười cậu ta mới là kì lạ. Có thể mọi người nói, anh điếc không sợ súng. Nhưng sự thật đã chứng minh, cái con ếch to đầu không những có tài mà còn có vận may. Vận may ngoài hành tinh. Mộ tổ phát vận may.

Vận may của Kim Trân quả là không thể tưởng tượng nổi, càng không thể cầu xin, có người nói cậu ta nằm mơ - hoặc là người khác nằm mơ - đã phá được mã khoá tử mật, cũng có người nói cậu ta đánh cờ với anh điên cờ nên nhận được linh cảm, lại có người nói cậu ta đọc sách và gặp thiên cơ. Tóm lại, cậu ta lặng lẽ, không ồn ào phá khoá mật mã tử mật, điều ấy khiến nhiều người ghen tị và vui mừng. Vui mừng là của mọi người, ghen tị có thể chỉ là mấy vị chuyên gia do Tổng cục cử về, họ điên cuồng mong đợi sự chỉ dẫn của ông Hinsh, cho rằng có thể phá được khoá mật mã tử mật.

Đấy là mùa đông năm 1957, Kim Trân đến đơn vị 701 hơn một năm.