Giải Mật

Chương 2-6

Khoa toán của Đại học N vốn rất nổi tiếng, được mệnh danh là cái nôi của các nhà toán học.

Nghe nói, mười lăm năm trước, một vị rất nổi tiếng trong giới văn nghệ

của thành phố C bị chế giễu ở vùng ven biển, đã từng đưa ra một câu nói

nổi tiếng: “Thành phố C của chúng tôi dù có kém cỏi đến đâu thì ít nhất

cũng có trường đại học N tài giỏi; cho dù đại học N kém cỏi, ít nhất

cũng có khoa toán, đấy là đỉnh cao của thế giới, lẽ nào các anh chế giễu được sao?”

Ấy là nói đùa vậy thôi, nhưng khoa toán của đại học N là một danh vọng chí tôn!

Ngày đầu tiên Kim Trân vào học, ông Lily cho cậu ta một cuốn sổ ghi, trang đầu ghi tặng câu này:

“Nếu cháu muốn trở thành một nhà toán học, vậy cháu đã bước vào một ngưỡng

cửa lớn tốt nhất; nếu cháu không muốn trở thành một nhà toán học, cháu

không cần phải bước qua ngưỡng cửa này, bởi cháu đã có tri thức toán học đủ để dùng suốt đời!”

Có thể, không ai như ông Lily thấy rõ

thiên tài toán học hiếm có và say mê được ẩn náu dưới cái vẻ bề ngoài

lành như đất của Kim Trân, cũng vì thế mà không ai như ông Lily gửi gắm

hi vọng và niềm tin Kim Trân trở thành nhà toán học trong tương lai.

Khỏi phải nói, dòng chữ ghi tặng trên cuốn sổ là một minh chứng hùng hồn nhất. Ông Lily tin tưởng sẽ có nhiều người đứng vào hàng ngũ của ông,

trông thấy cơ duyên hiếm hoi giữa Kim Trân và nhà toán học. Đồng thời

ông cũng nghĩ, có thể tạm thời còn chưa được, ít nhất phải qua một giai

đoạn nữa, có thể một năm, hai năm, đến lúc ấy không ngừng đi sâu vào

việc học hành, ánh sáng toán học của Kim Trân mới dần dần toả sáng.

Nhưng sự thật chứng minh, ông Lily có phần bảo thủ, nhà toán học nước ngoài

L. Hinsh chỉ học qua hai tuần lễ đã gia nhập hàng ngũ của ông một cách

vui vẻ, ông Hinsh nói như thế này:

“Xem ra đại học N của các ông lại xuất hiện thêm một nhà toán học, thậm chí là nhà toán học lớn, ít

nhất trong số những người ra đi từ đại học N của các ông.”

Ông ta nói đến Kim Trân.

L. Hinsh là người cùng tuổi với thế kỉ hai mươi, sinh năm 1901 trong một

gia đình quý tộc hiển hách người Ba Lan, mẹ là người Do Thái, di truyền

cho ông một khuôn mặt hệt với người Do Thái, cái đầu nhọn, mũi khoằm,

tóc xoăn. Có người nói, não thùy của ông cũng là của người Do Thái, trí

nhớ đáng kinh ngạc, có đầu óc nhạy bén, chỉ số thông minh gấp mấy lần

người bình thường. Hinsh bắt đầu chơi trò đấu trí vô cùng say mê, thuộc

hầu hết các nước cờ bí hiểm, lên sáu tuổi, không ai dám đánh cờ với

Hinsh. Đúng là một nhân tài sản sinh trong cộng đồng Do Thái, cả trăm

năm mới có một người.

Năm mười bốn tuổi, cậu ta theo cha đến dự

tiệc tại một gia đình nổi tiếng, trong bữa tiệc có mặt cả gia đình nhà

toán học Selord. Hai gia đình không hẹn mà gặp, một người về sau là Chủ

tịch Hội nghiên cứu toán học của Đại học Cambridge, cũng là kì thủ nổi

tiếng thế giới. Ông Hinsh cha nói với nhà toán học, ông rất mong con

trai ông vào đại học Cambridge, nhà toán học rất ngạo mạn trả lời: có

hai con đường, thứ nhất tham gia kì thi vào trường được tổ chức mỗi năm

một lần; thứ hai, tham gia cuộc thi toán học và vật lí Newton do Hoàng

gia Anh tổ chức hai năm một lần (năm lẻ cho toán học, năm chẵn cho vật

lí), năm học sinh đạt điểm cao nhất được miễn thi và miễn học phí vào

Đại học Cambridge. Cậu thiếu niên Hinsh nói chen vào, nghe nói bác là

đại kì thủ nghiệp dư quốc tế, cháu đề nghị bác chơi với cháu một ván,

nếu cháu được, cũng sẽ miễn thi như thế nhé? Nhà toán học cảnh cáo cậu

ta, tôi đồng ý, nhưng phải nói rõ một điều, cho dù tự cậu đặt ra cái giá lớn như vậy, tôi chấp nhận cái giá ấy, nhưng tôi cũng đưa ra cái giá

cậu phải chấp nhận, như vậy trò chơi mới công bằng nếu không tôi không

thể chấp nhận điều kiện của cậu. Hinsh con nói, vậy xin bác cứ ra điều

kiện. Nhà toán học nói: nếu cậu thua, sau này không được đến Cambriage

của tôi. Ông ta cho rằng, như thế sẽ làm cho Hinsh con phải sợ. Thật ra, người sợ lại là Hinsh cha. Hinsh con được cha khuyên khiến cậu ta cũng

phải do dự, nhưng cuối cùng cậu ta vẫn rất kiên quyết nói: được!

Hai người bày quân cờ ra trước mặt mọi người, gần nửa tiếng đồng hồ sau,

nhà toán học đứng dậy, cười nói với Hinsh cha: sang năm ông đưa con đến

Cambridge nhé.

Hinsh cha nói, ván cờ vẫn chưa kết thúc.

Nhà toán học nói, lẽ nào ông xem thường khả năng quan sát của tôi? Ông quay sang nói với Hinsh con, cháu có thấy cháu thắng bác không?

Hinsh con nói, lúc này thế cờ của cháu chỉ có ba phần thắng, bác có những bảy phần.

Nhà toán học nói, thế cờ hiện tại là thế, nhưng cháu thấy được điều ấy

chứng tỏ có khả năng lật ngược thế cờ đến sáu bảy phần, cháu giỏi lắm,

sau này đến Cambridge đánh cờ với bác.

Mười năm sau, mới hai

mươi bốn tuổi, cái tên Hinsh đã xuất hiện trên mặt báo toán học nước Áo, được xếp vào những ngôi sao toán học đang lên của thế giới. Năm sau,

cậu ta được phần thưởng cao nhất của giới toán học quốc tế, giải thưởng

Fields[3]. Giải thưởng này vốn được coi là giải Nobel toán học, thật ra

còn khó hơn cơ hội giành giải Nobel, vì giải Nobel mỗi năm một lần, giải này những bốn năm mới xét tặng một lần.

Ở Cambridge, Hinsh học

cùng với một cô gái dòng Hoàng tộc Áo, cô yêu tha thiết anh chàng trẻ

tuổi được giải thưởng Fields, nhưng Hinsh tỏ ra thờ ơ với chuyện yêu

đương. Một hôm, bố của cô gái dòng Hoàng tộc bỗng xuất hiện trước Hinsh, tất nhiên không phải ông ta đến cầu hôn cho con gái, ông chỉ nói với

chàng trai kia rằng, bản thân ông rất muốn làm một việc có ý nghĩa nhằm

chấn hưng sự nghiệp khoa học của nước Áo, hỏi anh có muốn giúp ông thực

hiện nguyện vọng ấy không. Hinsh hỏi sẽ giúp bằng cách nào. Ông ta nói,

ông sẽ bỏ tiền ra, anh phụ trách tuyển người, cùng lập một cơ quan

nghiên cứu khoa học. Hinsh nói, ông có thể chi bao nhiêu tiền? Ông ta

nói: cậu muốn bao nhiêu cũng được. Hinsh do dự trong hai tuần, dùng

phương thức toán học tính toán một cách khoa học và chính xác tiến trình tương lai của bản thân, kết quả cho đáp số đi Áo hoặc tồn tại dưới một

hình thức khác hơn là ở lại Cambridge.

Vậy là, Hinsh sang Áo.

Rất nhiều người cho rằng, anh đi Áo là để thỏa mãn hai nguyện vọng, thứ

nhất là người cha có tiền, nguyên nhân khác nữa là cô gái yêu anh. Hoặc

nói, người trẻ tuổi may mắn ở Áo có vinh dự được lập nghiệp, lại được

tiếng thơm lấy được vợ dòng Hoàng tộc. Nhưng cuối cùng Hinsh chỉ đạt

được một việc là lập nghiệp, anh ta dùng số tiền tiêu không hết để thành lập viện nghiên cứu toán học cao đẳng của Áo, tập hợp được rất nhiều

nhà toán học tài năng thời đó, đồng thời tìm được một nhà toán học thay

anh giúp cô gái Hoàng tộc thực hiện nguyện vọng tìm một tấm chồng. Theo

đó, có tin đồn anh là người đồng tính luyến ái, mà một mặt nào đấy của

anh cũng đã chứng minh sự thật lời đồn ấy, ví dụ, những người anh thu

nhận không có nữ, tin tức về anh cũng do phóng viên nam thực hiện, thật

ra nữ phóng viên phỏng vấn anh nhiều hơn nam phóng viên, không hiểu tại

sao các cô phải ra về tay không, có thể là do hứng thú bí mật của anh

chăng?

(Ghi theo lời kể của thầy Dung)

Mùa xuân năm

1938, ông Hinsh đến Đại học N với tư cách một học giả thăm trường, không loại trừ ý đồ chiêu binh mãi mã. Nhưng không ngờ, mấy ngày hôm ấy thế

giới có những biến đổi kinh người, đài phát thanh đưa tin Hitler xuất

quân đánh chiếm nước Áo, Hinsh đành tạm thời ở lại Đại học N chờ cho

chiến sự qua đi rồi mới về nước. Thư của bạn từ Mĩ cho Hinsh hay, lịch

sử châu Âu đang có những thay đổi lớn, các nước Áo, Tiệp, Hung, Ba Lan

tràn ngập cờ phát xít Đức, người Do Thái ở những nơi ấy đang lục tục bỏ

đi chỗ khác, những người không đi đều bị đưa vào trại tập trung. Vậy là

Hinsh không còn lối thoát, đành ở lại Đại học N, vừa làm giáo sư khoa

toán, vừa tìm cơ hội để đi Mĩ. Trong thời gian đó, tình cảm (có thể là

cơ thể) của Hinsh có sự thay đổi bí ẩn và kì lạ, chừng như chỉ trong một đêm, bắt đầu có hứng thú rất lạ lùng và rất nồng hậu đối với những cô

gái xuất hiện trong khuôn viên nhà trường, điều chưa từng có ở Hinsh.

Hinsh giống như một cái cây rất đặc biệt, nở những bông hoa khác nhau

trên những mảnh đất khác nhau, kết trái kì lạ. Vậy là ý nghĩ đi Mĩ bị

tình cảm yêu đương xoá bỏ, hai năm sau, Hinsh đã bốn mươi tuổi kết hôn

với một cô giáo kém mình mười bốn tuổi, dạy khoa vật lí, kế hoạch đi Mĩ

tạm thời gác lại, gác lại mười năm.

Giới toán học chú ý, từ ngày Hinsh đến đại học N, thay đổi lớn nhất là càng ngày càng đúng với một

người đàn ông, nhưng càng ngày càng không còn là một nhà toán học. Có

thể tài năng nổi trội trước đây của Hinsh là bởi ông không giống với một người đàn ông tạo nên, sau khi giống đàn ông, những tài năng bí ẩn kia

bỏ ông mà đi. Cuối cùng là do ông đuổi đi hay Thượng đế bảo đi, sợ rằng

ngay cả ông cũng không biết. Không một nhà toán học nào không biết,

trước khi Hinsh đến Đại học N, ông đã có hai mươi bảy bài luận văn toán

học có ảnh hưởng ở cấp độ thế giới, nhưng sau đấy ông không viết nổi một bài, con thì đứa này tiếp đứa khác ra đời. Tài năng trước đây của ông

hình như bị tiêu tan trong vòng tay phụ nữ, tan chảy, biến thành những

đứa trẻ đáng yêu. Chuyện của Hinsh càng làm cho người phương Tây tin

rằng phương Đông rất thần bí, biến đổi thần kì một con người thần kì,

biến đổi tận gốc mà không thể giải thích nổi, cũng không nhận ra quá

trình biến đổi, chỉ có những kết quả không ngừng lặp lại và gia tăng.

Đương nhiên, tuy tài trí của quá khứ đã mất đi trong vòng ôm của người phụ

nữ, nhưng đứng trên bục giảng Hinsh vẫn là con người siêu phàm thoát

tục. Nói theo một ý nghĩa nào đấy, vì ngày càng không giống một nhà toán học tài giỏi, cho nên biến đổi thành một vị giáo sư đáng kính xứng với

nghề nghiệp. Hinsh dạy ở khoa toán đại học N tất cả mười một năm, không

nghi ngờ gì nữa, được làm sinh viên của ông quả là một vinh dự lớn, mà

cũng là bắt đầu tạo dựng cho mình một sự nghiệp. Nói thật, mấy vị học

giả có ảnh hưởng đối với thế giới xuất thân ở Đại học N quá nửa là sinh

viên của ông đào tạo trong mười một năm trời. Nhưng không dễ gì làm sinh viên của ông. Đầu tiên người ấy phải biết tiếng Anh (Về sau ông không

nói tiếng Đức); thứ hai, ông không cho sinh viên ghi chép ở lớp, với

lại, vấn đề ông chỉ giảng một nửa, có lúc còn cố ý giảng sai, giảng sai

cũng không cải chính, ít nhất là lúc bấy giờ không cải chính, một hôm

nào đấy nhớ lại mới cải chính, không nhớ coi như thôi. Cách giảng bài ấy của ông tưởng chừng rất ngang, khiến nhiều sinh viên trình độ bình

thường không thể không bỏ học, có sinh viên chuyển sang học ngành khác.

Quan niệm giảng dạy của ông chỉ gói gọn trong một câu: một ý nghĩ sai

còn chính xác hơn cả điểm số cao. Nói cho cùng, ông quán triệt phương

pháp giáo dục bắt sinh viên phải động não suy nghĩ, khai thác sức tưởng

tượng, sức sáng tạo của anh. Cứ đến đầu năm học, đối diện với những sinh viên mới, ông bắt đầu bài giảng đầu tiên bằng hai thứ tiếng Anh, tiếng

Trung Quốc lẫn lộn. - Tôi là một con thú hoang, không phải người thuần

dưỡng thú vật, mục đích của tôi là đuổi bắt các anh, các anh chạy nhanh, tôi đuổi nhanh, các anh chạy chậm, tôi đuổi chậm, dù sao các anh cũng

phải chạy, không thể dừng, dũng cảm chạy, bao giờ các anh dừng lại, quan hệ giữa chúng ta sẽ được giải thoát. Bao giờ các anh chạy vào rừng sâu, biến mất trước tầm mắt tôi, quan hệ giữa chúng ta cũng sẽ được giải

thoát. Nhưng câu trước là tôi giải thoát các anh, câu sau là các anh

giải thoát tôi. Bây giờ chúng ta chạy, xem ai giải thoát ai.

Tất nhiên, giải thoát ông là chuyện khó, nhưng dễ cũng thật dễ. Bắt đầu một học kì, bài giảng đầu tiên, sự kiện đầu tiên của ông là, viết lên góc

bên phải tấm bảng đen một đề toán khó có tính chất mưu mẹo, cho đến khi

có ai đó giải được, coi như học kì kết thúc mĩ mãn, sau đấy có thể đến

lớp, có thể không đến, tuỳ ý. Tức là, học kì ấy anh đã giải thoát được

ông ta. Cùng lúc ấy, ông lại viết lên chỗ cũ trên bảng đen một đề khó,

chờ người thứ hai giải đáp. Nếu một người ba lần giải được đề khó của

ông, ông sẽ cho riêng anh một đề khó hơn, sự thật thì đấy là luận văn

tốt nghiệp của anh. Nếu anh giải được trọn vẹn đề toán ấy, bất kể là lúc nào, cho dù mới khai giảng được ít ngày, coi như anh đã tốt nghiệp, coi như đã giải thoát được công việc của ông ở chương trình cơ bản. Nhưng

đã mười năm, không có ai có vinh dự ấy, có thể ngẫu nhiên giải đáp được

một vài đề cũng rất hiếm hoi. ()

Bây giờ Kim Trân xuất hiện

trong giờ học của giáo sư Hinsh, vì dáng người nhỏ bé (mười sáu tuổi),

cậu ngồi ở dãy bàn đầu, hơn ai hết cậu chú ý đến ánh sắc sảo và xảo

quyệt phát ra từ cặp mắt xanh của Hinsh. Hinsh cao lớn, đứng trên bục

giảng càng tỏ ra cao lớn hơn, ánh mắt rơi vào vị trí cuối lớp, cái mà

Kim Trân tiếp nhận được là nước bọt của Hinsh vô tư phun ra và dòng khí

lưu lúc nói. Ông ta giống như một nhà thơ cảm xúc trào dâng đứng trên

bục giảng tỏ ra thoả mãn giải thích những kí hiệu toán học khô khan trừu tượng, thỉnh thoảng lại nhún vai cao giọng, lúc lại dạo bước ngâm ngợi. Ông đứng trên bục giảng giống một nhà thơ, cũng lại giống với một vị

tướng. Giảng bài xong, ông không nói gì, cứ thế đi thẳng. Lần này, giáo

sư Hinsh vẫn theo thói quen đi thẳng, ánh mắt vô tình chạm vào bóng

người gầy bé ngồi ở hàng đầu, cậu ta đang cúi đầu trên trang giấy để làm toán, rất say sưa, tường chừng như đang làm bài thi. Hai hôm sau, giáo

sư Hinsh lại lên lớp giảng bài, vừa đứng lên bục giảng, ông hỏi:

“Ai tên là Kim Trân, giơ tay lên?”

Ông thấy người giơ tay chính là cậu sinh viên nhỏ bé ngồi ngay hàng đầu mà mỗi khi lên lớp ông đều chú ý.

Giáo sư Hinsh cầm mấy tờ bài tập trên tay, vẫy vẫy, hỏi: “Tờ giấy này em nhét vào cửa phòng tôi à?”

Kim Trân gật đầu.

Giáo sư Hinsh nói: “Tôi báo cho em biết, học kì này em không phải lên lớp nghe tôi giảng nữa.”

Cả lớp tỏ ra kinh ngạc.

Như đang thưởng thức gì đó, ông mỉm cười với mọi người, yên tĩnh trở lại.

Cả lớp đã yên tĩnh, ông quay lại, viết đề toán lần trước lên bảng đen -

không ở góc bên phải, mà là góc trên bên trái, đây là nội dung của tiết

học hôm nay.

Ông viết lời giải của Kim Trân lên bảng, giảng qua

một lần, tiếp theo ông dùng phương pháp mới để giải theo ba cách khác

nhau cùng một đề toán khiến mọi người cảm thấy kiến thức đang được mở

rộng, hiểu rõ cái bí mật có nhiều cách nhưng có chung một kết quả, nội

dung bài học mới được l*иg vào mấy cách giảng. Xong việc, ông đứng trước tấm bảng đen, viết lên góc trái của tấm bảng một đề toán khó, nói:

“Tôi mong sau khi hết giờ, sẽ có em giải được đề toán này, lúc lên lớp tôi sẽ giải, lúc hết giờ tôi lại ra đề khác.”

Nói là nói vậy, nhưng trong lòng ông Hinsh biết, cái điều may mắn đối với

lời nói của mình là rất ít, về mặt toán học được biểu thị bằng số lẻ,

hơn nữa còn bị thêm chẵn bớt lẻ. Bớt tức là bỏ đi không tính, tức là

không còn; thêm nghĩa là làm cho số lớn hơn, tức là không biến thành có, đất biến thành trời. Điều ấy muốn nói, giữa trời và đất không có một

con mương ngăn cách, chỉ thêm một li đất lập tức biến thành trời, thiếu

đi một li, trời sẽ biến thành đất. Ông Hinsh không ngờ là, cái cậu sinh

viên lành như đất và ít nói kia làm cho khái niệm về đất trời của ông

trở nên mơ hồ, ông nhìn rõ là đất, nhưng kết quả là trời. Ấy là, Kim

Trân rất nhanh chóng giải được đề toán khó của ông.

Đề toán đã

được giải, tất nhiên phải ra đề khác. Khi ông Hinsh viết đề khó thứ ba

lên góc bên phải tấm bảng đen, vừa quay lại, ông không nói với mọi người mà chỉ nói với Kim Trân:

“Nếu em giải được đề toán này, tôi sẽ ra riêng cho em một đề khác.”

Ông muốn nói đến đề cho luận văn tốt nghiệp.

Lúc ấy, Kim Trân mới học được ba buổi của ông Hinsh, chỉ một tuần lễ.

Không như hai đề trước, trước tiết tiếp theo Kim Trân đã giải được, vì vậy,

ông Hinsh giảng xong tiết thứ tư, ông từ bục giảng đi xuống, nói với Kim Trân:

“Tôi đã ra đề thi tốt nghiệp cho em, chỉ chờ em giải.”

Nói xong, ông bỏ đi ngay.

Ông Hinsh sau khi lấy vợ, thuê một căn hộ trong ngõ Tam Nguyên, gia đình ở

đấy, nhưng bình thường ông vẫn ở trong ngôi nhà dành cho các giáo sư,

trên tầng ba, căn hộ có nhà vệ sinh riêng. Ở đấy ông đọc sách, nghiên

cứu, căn nhà tựa như một thư phòng. Chiều hôm ấy, ông vừa nghỉ trưa

xong, đang nghe đài, giữa tiếng nói trong đài có lẫn tiếng chân bước lên cầu thang. Tiếng chân dừng lại, nhưng không có tiếng gõ cửa, chỉ có

tiếng động khe khẽ như tiếng rắn bò, âm thanh từ hành lang lọt qua khe

cửa. Ông Hinsh thấy có mấy tờ giấy lọt vào, một lúc sau ông nhặt lên,

nét chữ quen thuộc của Kim Trân. Ông mở ngay trang cuối để xem kết quả,

kết quả là đúng. Ông cảm thấy như mình bị quất một roi, định chạy ra gọi Kim Trân lại. Nhưng ra đến cửa, ông suy nghĩ giây lát rồi quay vào ngồi ở sofa, bắt đầu xem từ trang thứ nhất. Xem xong, ông lại cảm thấy bị

quất thêm một roi nữa, ông đến bên cửa sổ, nhìn Kim Trân đang đi, lưng

quay về phía này. Ông mở cửa sổ, gọi theo bóng người đang đi. Kim Trân

quay lại, thấy giáo sư vừa chỉ tay vừa gọi cậu lên lầu.

Kim Trân ngồi trước mặt vị giáo sư người nước ngoài.

“Anh là ai?”

“Em là Kim Trân ạ.”

“Không!” ông Hinsh cười, “Tôi hỏi em là người thế nào? Từ đâu đến? Trước đây học ở đâu? Tại sao tôi thấy em quen quen, bố em là ai?”

Kim Trân do dự, không biết phải trả lời thế nào.

Bỗng ông kêu lên: “Ôi! Tôi nhớ ra rồi, em là hậu duệ của bức tượng dựng

trước toà nhà lớn kia, hậu duệ của bà Lily, Bàn tính Dung Lily. Em có

phải là hậu duệ của bà ấy không? Là con hay là cháu?”

Kim Trân chỉ vào những trang giấy bài tập để trên sofa, không trả lời câu hỏi:

“Em làm đúng không ạ?”

Ông Hinsh nói: “Em chưa trả lời vấn đề của tôi, có phải em là hậu duệ của bà Dung bàn tính Lily?”

Kim Trân không khẳng định mà cũng không phủ nhận, chỉ ấp úng trả lời: “Thầy nên hỏi thầy Hiệu trưởng Lily, thầy ấy là người nuôi em, em không có

cha mẹ.”

Kim Trân nói nhằm mục đích không muốn nói rõ quan hệ

giữa mình và bà Dung bàn tính Lily, không ngờ ông tỏ ra nghi ngờ, nhìn

Kim Trân, nói: “Đành là thế, tôi muốn hỏi em, mấy lần giải đề toán là em tự làm hay có người chỉ dẫn?”

Kim Trân trả lời dứt khoát: “Em tự làm.”

Tối hôm ấy, giáo sư Hinsh gặp ông Lily. Kim Trân trông thấy, nghĩ rằng vị

giáo sư người nước ngoài này đã nghi ngờ cậu tự giải các bài toán. Thật

ra, giáo sư Hinsh buổi chiều đã nói ra điều nghi ngờ của mình và cũng đã không còn nghi ngờ. Vì ông nghĩ, nếu có người tham gia vào quá trình

giải bài toán, dù là ông hiệu trưởng hay con gái ông ta, thì cách giải

sẽ không phải như thế. Sau khi Kim Trân ra về, ông Hinsh xem lại mấy bài toán cậu ta giải, cảm thấy cách giải có phần li kì, thật đáng khâm

phục, để lộ nét ấu trĩ, nhưng lại lấp lánh lí trí và thông minh, ông có

cảm giác không thể nói nên lời, nhưng nói chuyện với ông Hiệu trưởng,

hình như ông đã tìm ra được những điều có thể nói ra.

Giáo sư

Hinsh nói: “Cảm giác là thế này, chúng ta bảo cậu ta xuống lấy một thứ

gì đó dưới đường hầm, đường hầm tối xoè bàn tay không thấy ngón, đường

hầm lại nhiều ngóc ngách và hầm hố, không có công cụ chiếu sáng không

dám bước chân. Ấy là nói, trước khi vào đường hầm phải chuẩn bị công cụ

chiếu sáng. Công cụ chiếu sáng có nhiều loại, có thể là đèn pin, có thể

là đèn dầu hoặc đuốc, thậm chí chỉ là một bao diêm. Nhưng cậu ta lại

không biết những thứ đó hay là biết mà không kiếm ra, tóm lại không có

những thứ ấy, mà dùng một tấm gương, tạo một góc độ vô cùng chính xác,

chiết xạ ánh sáng trên mặt đất vào đường hầm tối, ở một khúc quanh của

đường hầm, cậu ta lại lợi dụng tấm gương để phản chiếu ánh sáng. Cứ như

vậy, cậu ta đi về phía trước, dựa vào chút ánh sáng để tránh hầm hố. Bí

ẩn hơn nữa là, cứ đến mỗi khúc quanh, chừng trong sâu xa của cậu ta có

bản lĩnh linh cảm, dựa vào trực giác để lựa chọn đường đi một cách chính xác.

Suốt mười năm, ông Lily chưa thấy giáo sư Hinsh khen ai,

khó để ông không nghi ngờ một ai về toán học, bây giờ ông hết lời, thậm

chí rất nhiệt tình khen ngợi Kim Trân, khiến ông Lily cảm thấy lạ lùng

và rất ngạc nhiên. Ông nghĩ, tôi phát hiện một thằng nhỏ có tài về mặt

toán học, còn ông Hinsh là người thứ hai, chẳng qua là sự chứng minh

giúp tôi. Tất nhiên, còn có chứng minh nào đúng đắn hơn của giáo sư

Hinsh? Cả hai người càng nói càng phấn chấn.

Nhưng, nói đến sự

sắp xếp về mặt toán học cho đứa nhỏ trong tương lai, hai người tỏ ra mâu thuẫn. Hinsh cho rằng, đứa nhỏ này đã nắm vững khả năng và tài trí về

toán học, có thể bỏ bớt những chương trình cơ bản, đề nghị cho nó học

vượt cấp, có thể để nó làm luận văn tốt nghiệp.

Điều này đã làm Lily không bằng lòng.

Như ta biết, Kim Trân là đứa nhỏ quá ư lạnh nhạt, rất thích sống một mình,

là đứa trẻ rất kém về mặt xã giao. Đấy là nhược điểm của nó, và cũng là

cạm bẫy trong cuộc đời nó, ông đang cố gắng bổ sung cho nó. Theo một ý

nghĩa nào đấy, về mặt xã giao Kim Trân là một người không có khả năng và nhu nhược, thậm chí đối với người khác là một sự kình địch khó hiểu,

càng thích hợp hơn khi để nó sống chung với những đứa trẻ cùng trang

lứa, như vậy đối với nó là sự thả lỏng. Hiện tại, trong lớp nó là một

sinh viên nhỏ tuổi nhất, ông Lily cảm thấy giữa nó và bạn bè có một

khoảng cách rất xa, không thể để nó cách xa hơn, nếu không, sẽ gây sự

bất lợi trong tính cách cậu ta. Nhưng điểm này hôm nay ông Lily không

muốn nhắc đến, vì rất khó nói, quá phức tạp, hơn thế còn là chuyện đời

tư của nó. Ông chỉ có thể đề nghị đối với vị giáo sư người nước ngoài

này:

“Trung Quốc có câu luyện mãi thành thép. Kim Trân là đứa

trẻ thông minh, nhưng kiến thức tích luỹ còn ít ỏi. Vừa rồi ông cũng đã

nói, công cụ chiếu sáng thông thường có nhiều loại, có thể dùng cái nào

cũng được, nhưng nó không dùng, mà bỏ cái gần để với cái xa. Tôi không

nghĩ đấy là sự cố tình của nó, mà là vạn bất đắc dĩ, cùng đường mới nảy

ra ý nghĩ ấy. Có thể nghĩ ra dùng tấm gương dĩ nhiên là tốt nhưng từ nay về sau nó vẫn sử dụng tài năng vào những chuyện này để phát hiện những

công cụ không có giá trị thực tế, tuy trong một lúc nào đấy có thể thoả

mãn lòng hiếu kì của mọi người, nhưng ý nghĩa thực có được bao nhiêu?

Cho nên, vì con người để dạy dỗ, tôi nghĩ đối với Kim Trân học tập là

điều cần kíp không chậm trễ, cần hiểu hơn những lĩnh vực đã biết, chỉ có thể nắm vững những cơ sở đã biết mới có thể tìm ra những điều không

biết có ý nghĩa chân chính. Nghe nói, năm kia ông về nước có đưa đến đây rất nhiều sách quý, lần trước tôi đến thăm ông, định mượn vài cuốn về

đọc, nhưng thấy trên giá sách của ông có dán lời cáo thị “Xin không ngỏ

lời mượn sách”, nên đành thôi. Lúc này tôi nghĩ, nếu có ngoại lệ, ông

cũng dành cho Kim Trân một ngoại lệ, điều ấy đối với nó có thể có ích.

Trong sách có ngôi nhà vàng.”

Lại nói đến điều mà giáo sư Hinsh không muốn.

Sự thật thì nhiều người đã biết, mấy năm nay khoa toán có hai điều lạ:

điều lạ thứ nhất là chuyện nữ giáo sư Dung Nhân Dịch (Thầy Dung) coi mấy trang thư là chồng, theo lời trong thư để từ chối mọi tình yêu; điều lạ thứ hai là giáo sư Hinsh coi tủ sách của mình là vợ, ngoài ông ra không ai được đυ.ng đến. Điều ấy có nghĩa là, ông Lily nói vậy, nhưng ông

Hinsh không làm vậy, không hi vọng gì. Vì khả năng lời nói đã nhỏ càng

nhỏ hơn, về mặt toán học dùng dấu chấm để biểu thị, hơn nữa lại còn bỏ

số lẻ để làm tròn số, bỏ tức là không còn tính đến, có nghĩa là biến

thành không.

Chính vì vậy, vào một buổi tối, ngồi bên bàn ăn,

Kim Trân ngẫu nhiên nói đến chuyện mượn được của giáo sư Hinsh hai cuốn

sách, đồng thời ông cho phép từ nay về sau có thể mượn đọc bất cứ cuốn

nào. Ông Lily chợt cảm thấy trong lòng vang lên một âm thanh, có cảm

giác bản thân dẫn đầu rất xa, nhưng thật ra là ở sau giáo sư Hinsh. Điều này khiến ông Lily thấy rõ vị trí của Kim Trân trong con mắt giáo sư

Hinsh, không ai có thể so sánh nổi. Tức là, giáo sư Hinsh đã rất coi

trọng và trông chờ Kim Trân, ông ta đã đi trước rất xa ông Lily, thoát

khỏi sự tưởng tượng và nguyện vọng của ông.