Thịnh Đường

Chương 39

“Bệ hạ, Tần vương cầu kiến.”

“Tần vương đã về?” Trong ngự thư phòng, Lý Uyên nghe báo liền buông tấu chương, nét mặt hiện lên một tia kinh ngạc. Dừng một chút, liếc sang Bùi Tịch bên cạnh, lại mỉm cười mang theo ba phần bất đắc dĩ, “Về cũng nhanh đấy.”

Bùi Tịch thấy thế liền dợm đứng lên, hình như muốn nói gì đó. Mà Lý Uyên lại đưa tay ra ngăn cản, chỉ nói với cung nhân kia: “Báo cho Tần vương hôm nay trẫm hơi mệt, hôm khác sẽ triệu vào sau.”

Đợi cung nhân kia vâng dạ lui ra, Bùi Tịch đã bước đến gần Lý Uyên, chắp tay nói: “Bệ hạ anh minh.”

“Trong vòng một ngày nó đã quay về Trường An, hẳn là nghe tin lập tức đơn thương độc mã lên đường.” Lý Uyên thở dài, “Thế Dân vẫn còn trẻ dại, giờ đang lúc kích động, nói gì cũng vô ích, tạm thời cứ để mặc cho nó nguôi bớt đi.”

“Bệ hạ lo lắng rất đúng.” Bùi Tịch buông tay, từ tốn nói, “Tần vương trọng tình trọng nghĩa, lại có giao tình thân thiết với Lưu Văn Tĩnh nên nhất thời không thể giữ bình tĩnh. Nhưng bằng vào trí tuệ của Tần vương, đợi qua cơn xúc động nhất định sẽ hiểu ra dụng tâm của bệ hạ.”

“Lời Bùi giám lúc nào cũng hợp ý trẫm.” Lý Uyên cười cười, còn đang định nói tiếp lại thấy cung nhân kia bước lên điện.

“Tâu bệ hạ, Tần vương không chịu đi, trái lại còn quỳ ngoài điện.” Cung nhân kia lộ rõ vẻ lo lắng, ngập ngừng giây lát mới tiếp, “Chỉ nói nếu bệ hạ không chịu gặp thì ngài cũng không đi.”

Lý Uyên nghe vậy, tức thì đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Trong viện đổ trận tuyết thưa, dù không lớn nhưng cũng sớm phủ lên mặt đất một tầng trắng xóa. Mà những chạc cây tàn úa run rẩy trong cơn gió lạnh cũng tỏ rõ cái giá rét cùng cực của mùa đông.

Không để lộ sự lưỡng lự trong lòng, Lý Uyên thu ánh mắt, nhìn cung nhân khoát tay, bình tĩnh đáp: “Vậy cứ cho nó quỳ.”

Nét mặt cung nhân thoáng kinh ngạc, nhưng cũng nhanh chóng lĩnh chỉ rời đi.

Lý Uyên chống tay lên trán, dựa vào ngự án, thở dài một tiếng trầm thấp.

Bùi Tịch nhìn mặt đoán ý, lưỡng lự mấy lần, cuối cùng vẫn không mở miệng.

*****

Lý Thế Dân lặng lẽ quỳ gối trước đại điện. Tuyết vẫn không ngừng rơi, nương theo cơn gió rét cắt da cắt thịt, kết thành một tầng trắng mỏng trên áo trên tóc hắn. Tuyết đọng trước hai đầu gối cũng vì có người quỳ mà tan chảy không còn đấu vết, lộ ra nền đá xanh đóng băng bên dưới. Nhưng dường như hắn chẳng biết gì cả, chỉ cúi đầu quỳ, trong hai canh giờ không hề cử động, chỉ có năm ngón tay nắm một mảnh vải vuông ngày càng siết chặt.

Mà suốt hai canh giờ này, trong đầu Lý Thế Dân liên tiếp tái hiện cảnh Lưu Văn Tĩnh rời đi hôm qua, nhớ dáng vẻ vờ phóng khoáng mà thực ra là đầy bụng ưu sầu của y, nhớ lúc y mời mình uống rượu, nhớ nét bình thản của y khi trông thấy đặc sứ, nhớ những chuyện y làm trước khi đi để xóa bỏ nỗi hoài nghi trong lòng mình……

Lý Thế Dân muốn nhếch miệng gượng cười, nhưng gió sương thốc vào mặt dường như đã đông cứng mọi biểu cảm, khiến người ta chỉ biết thẫn thờ nhìn tuyết đọng trước mắt, vô vàn cảm xúc chất chứa không có nơi phát tiết, mà cũng phát tiết không nổi, cuối cùng chảy ngược vào lòng mình, biết mấy đắng cay.

Giờ này nhớ lại, mới hay y…… hẳn là đã sớm có dự liệu.

Nhưng Lý Thế Dân không tài nào hiểu nổi nguyên do của tất cả những chuyện này. Hai chữ “mưu nghịch” người đời truyền tai nhau, đối với hắn tuyệt không phải đáp án.

Lưu Văn Tĩnh trung thành đến đâu, không hiểu rõ hơn hắn, cũng không ai có tư cách phán xét hơn hắn. Tội danh “mưu nghịch” ngụy trang có thể che được miệng lưỡi thế gian, nhưng không thể thuyết phục nổi hắn.

Nhớ lại sáng nay, khi bức huyết thư trên vải mang theo tin dữ được đưa đến trước mặt mình, trong đầu hắn như có sấm rền, không kịp suy xét nhiều, lập tức lên ngựa phóng vùn vụt về kinh. Nhưng trên đường ruổi ngựa, những kinh hoàng, căm phẫn, bi thương đã dần dần bị gió tuyết chôn vùi, giờ phút này hắn quỳ giữa đất tuyết chỉ vì một đáp án, một đáp án có thể khiến mình tin phục.

Trước đó, hắn làm sao có thể yên tâm trở về?

Bất giác trời đã hoàng hôn, một vệt nắng chiều ảm đạm chiếu lên nền tuyết mênh mang, lại có vẻ chói chang lạ thường. Lý Thế Dân cúi đầu tránh né, siết chặt mảnh vải trong tay, cảm nhận được những bước chân đi tới đi lui quanh mình, vẻ mặt càng thêm bình tĩnh.

Mà sau lưng hắn, dưới tán cổ thụ cách đó không xa, có hai bóng người đứng dưới tuyết rơi đã được một lúc.

Ngụy Trưng áo rộng vạt dài, tóc mai hơi rối, phong thái có chút xuất trần. Y thu ánh mắt, nhìn sang người đứng bên cạnh, cười hỏi: “Điện hạ hối hận rồi sao?”

Lý Kiến Thành khoác hồ cừu trắng như tuyết, thanh quý lạ thường, toàn thân dường như muốn hòa vào tuyết, nghe vậy cũng không thu ánh mắt, chỉ khẽ cười nói: “Tiên sinh hỏi thừa rồi.”

“Nghe nói Tần vương đơn thương độc mã trở về, còn chưa kịp ghé qua phủ đệ đã đến đây cầu kiến bệ hạ,” Ngụy Trưng nhếch khóe môi, lại nhìn sang bên kia thêm lần nữa, thở dài, “Một canh giờ trước thần đi ngang qua đã thấy Tần vương quỳ ở đây rồi, xem ra Hoàng thượng quả thực đã hạ quyết tâm không gặp Tần vương.”

“Lúc này mà diện thánh thì khó ngăn nó không nói ra những lời phạm thượng, chi bằng đợi mấy ngày cho nó nguôi ngoai đi.” Kiến Thành khép hờ mắt, cười nói, “Phụ hoàng làm thế chưa hẳn đã là không lo cho nó.”

Ngụy Trưng đưa mắt nhìn anh, im lặng giây lát rồi nói: “Nếu sau này Tần vương hiểu ra chân tướng……”

“Nó không biết được đâu.” Lý Kiến Thành khép vạt áo, thản nhiên ngắt lời.

“Bất kể về sau Tần vương có biết chuyện hay không, Lưu Văn Tĩnh này cũng tuyệt đối không thể giữ lại. Hôm nay nếu không gϊếŧ Lưu Văn Tĩnh, chỉ e ngày sau người điện hạ phải gϊếŧ …… sẽ là Tần vương.” Ngụy Trưng cười, từ tốn nói, “Điện hạ chung quy…… vẫn không muốn động đến Tần vương.”

Sắc mặt Lý Kiến Thành đột ngột trầm xuống, nhưng sau đó nhanh chóng thay bằng một nụ cười: “Nếu tiên sinh đã muốn thử, chỉ e trong lòng cũng không dám khẳng định.”

“Điện hạ đúng là điện hạ, quả thực thâm sâu khó lường.” Ngụy Trưng trái lại thản nhiên chắp tay, bái dài, “Ngụy Trưng nói xằng, xin điện hạ thứ tội.”

Y dám nói vậy là vì nắm chắc mình sẽ không phải chịu phạt. Nghĩ đến đây, Lý Kiến Thành thoáng mỉm cười, nói: “Tiên sinh điểm nào cũng tốt, chỉ có điều không biết che đậy.”

“Nếu không phải là điện hạ, thần sao dám nói năng không hề cố kỵ như thế?” Ngụy Trưng thản nhiên lảng sang chuyện khác, “Thần biết với tâm tính của điện hạ, tất sẽ không so đo.”

Lý Kiến Thành cười cười, cũng không đáp lại, chỉ đưa mắt nhìn sang kẻ đang quỳ trong tuyết. Thân hình thẳng tắp, giống như một gốc thông xanh mọc lên từ tuyết.

“Trận tuyết này hình như càng ngày càng lớn,” Ngụy Trưng nhìn anh, sau đó lại ngẩng đầu nhìn đầy trời tuyết rơi, “Ngoài trời gió rét, điện hạ nên mau chóng về cung thôi.”

Lý Kiến Thành cúi đầu “Ừ” một tiếng, vừa mới xoay người đã nghe sau lưng vang lên âm thanh trầm thấp. Anh thoáng ngẩn người, quay đầu nhìn theo tiếng động.

“Điện hạ, Tần vương……” Ngụy Trưng quay lại nhìn anh, bắt gặp ánh mắt của Lý Kiến Thành liền ngẩn ra, mới mở lời đã im bặt.

Sự im lặng đột ngột bên tai khiến Lý Kiến Thành bừng tỉnh, anh thấy rất nhiều cung nhân vội vã vây quanh, nhanh chóng nâng Lý Thế Dân đã té xỉu lên. Lý Thế Dân hình như loáng cái đã tỉnh lại, vùng vẫy đẩy họ ra rồi tiếp tục quỳ xuống.

“Điện hạ……” Ngụy Trưng thu ánh mắt, nhìn sang Lý Kiến Thành.

“Đi thôi.” Lý Kiến Thành rũ mắt, nét mặt cũng không biến đổi nhiều, nói dứt lời đã xoay người đi trước.

Ngụy Trưng không hề để ý đến cảnh hỗn loạn bên kia, mà chỉ lặng lẽ nhìn khoảnh đất Lý Kiến Thành vừa đứng.

Trong những dấu chân vụn vặt dưới tuyết, có một dấu sâu nặng khác thường. Ngụy Trưng biết đó là bước chân vô thức của Lý Kiến Thành khi quay lại và thấy Lý Thế Dân ngã xuống.

Vừa nãy hẳn là suýt nữa…… đã bước ra rồi.

Xóa dấu chân kia đi, Ngụy Trưng cúi đầu cười khổ, cũng không hiểu vì sao mình phải làm thế.

Nhưng cái liếc mắt vừa rồi, thêm một bước dở dang này…… đã cho y biết mình không cần phải thử thêm một lần nào nữa.

— Điện hạ, chỉ tiếc người vốn không phải kẻ nhẫn tâm.

Ngụy Trưng lắc đầu, cuối cùng xoay người rời đi.

*****

Khi Lý Kiến Thành đẩy cửa bước vào, bỗng dưng cảm thấy một luồng hơi ấm từ trong phòng ập thẳng vào mặt. Lý Thế Dân nằm dựa lên đầu giường, thấy Lý Kiến Thành thì thoáng kinh ngạc, gọi: “Đại ca.”

Lý Kiến Thành cởi hồ cừu đưa cho hạ nhân, đi đến ngồi bên giường hắn. Chờ hạ nhân ra ngoài khép cửa mới nói: “Nghe nói hôm qua ngươi quỳ một mạch đến đêm, mãi đến khi mất đi tri giác mới được cung nhân đưa về phủ. Vì Lưu Văn Tĩnh, ngươi không cần cả đầu gối nữa sao?”

“Ta chỉ biết Lưu Văn Tĩnh tuyệt không nuôi chí phản nghịch.” Lý Thế Dân nghe vậy chỉ biết cười khổ, cụp mắt xuống, “Đối với ta hắn vừa là thần vừa là bạn, lo nghĩ toan tính đều vì ta cả, nào có nửa điểm hai lòng?”

Chính vì thế mới không thể lưu y lại. Lý Kiến Thành âm thầm nghĩ thế, ngoài mặt vẫn vô cùng bình thản, chỉ đưa tay giúp hắn kéo chăn, nói: “Phụ hoàng không gặp ngươi cũng có lý do riêng, cố chờ thêm mấy ngày nữa phụ hoàng sẽ triệu ngươi vào cung thôi.”

Lý Thế Dân nắm tay anh, thấy đầu ngón tay lạnh buốt lại càng siết chặt thêm, ngập ngừng giây lát rồi hỏi: “Đại ca, nguyên nhân trong đó chắc huynh cũng hiểu được phần nào?”

Lý Kiến Thành để mặc cho hắn nắm, chỉ thản nhiên cười đáp: “Quân tâm khó dò, người ngoài làm sao đoán nổi?”

Ánh mắt của Lý Thế Dân thoáng chốc tối đi, cũng không nói gì nữa, chỉ vươn tay, uể oải ôm ngang thắt lưng anh.

Lý Kiến Thành vỗ nhẹ lên vai hắn, nói: “Mấy ngày này nên nghỉ ngơi cho khỏe.”

“Dạ.” Lý Thế Dân vùi đầu vào cổ anh, gật đầu rất chậm. Chẳng biết có phải do khí lạnh trên người chưa tan hết hay không mà toàn thân hắn cứ khe khẽ run rẩy.

*****

Khi Lý Kiến Thành bước ra khỏi Tần vương phủ, vừa hay lại gặp Bùi Tịch bên ngoài.

“Điện hạ.” Bùi Tịch thi lễ, ngước mắt nhìn ra sau lưng anh, hỏi, “Tần vương không sao chứ?”

Lý Kiến Thành đáp lễ: “Đã không còn gì đáng ngại, nghỉ ngơi mấy ngày chắc chắn sẽ hồi phục như thường.”

“Vậy là tốt rồi.” Bùi Tịch chầm chậm gật đầu, nói, “Bệ hạ sai thần mang ít thảo dược cho Tần vương, thần suy đi nghĩ lại, mình từng vạch tội Lưu Văn Tĩnh, tất sẽ khiến Tần vương ghi hận, vật này…… phải chăng nên nhờ người khác đưa thì hơn?”

Lý Kiến Thành nghe ra ẩn ý trong lời ông ta, liền cho người ngoài lui hết, cung kính thi lễ: “Chuyện lần này còn phải đa tạ đại nhân.”

“Điện hạ xin chớ đa lễ.” Bùi Tịch cười khoan thai, “Bệ hạ nhìn thấu mọi chuyện, nếu ngài vốn không có ý muốn trừ Lưu Văn Tĩnh, chỉ bằng vào ba tấc lưỡi của thần làm sao thuyết phục cho nổi?”

Lý Kiến Thành hơi nhíu mày, nói: “Phụ hoàng……”

Bùi Tịch lại thoáng hạ giọng, nói: “Bệ hạ dù thiên vị Tần vương nhưng cũng không vì chuyện tư mà làm hỏng việc công, điều này…… mong thái tử minh giám.”

Lý Kiến Thành thoáng ngập ngừng, kế đó mỉm cười chắp tay bái: “Đa tạ đại nhân chỉ giáo.”

Bùi Tịch cười nói: “Vậy thần xin cáo từ trước.”

*****

Ba ngày sau, Lý Uyên vẫn chưa triệu kiến Lý Thế Dân mà đích thân đến vương phủ của hắn.

Lúc này Lý Thế Dân đã có thể đi lại bình thường, đang xem sổ sách từ Trường Xuân cung đưa tới chợt thấy Lý Uyên đẩy cửa bước vào, không khỏi giật mình, vội vã đứng dậy bái chào: “Nhi thần bái kiến phụ hoàng.”

Lý Uyên ra hiệu cho hắn miễn lễ rồi đi thẳng đến gần, hỏi: “Thương tích trên đầu gối Thế Dân đã khỏi hẳn chưa?”

Lý Thế Dân khẽ đáp: “Đã lành lại như cũ.”

Lý Uyên thở dài: “Có trách phụ hoàng không muốn gặp ngươi ngay ngày hôm ấy không?”

Lý Thế Dân cụp mắt xuống, đáp: “Nhi thần không dám.”

Nghe giọng hắn ít nhiều chứa oán khí, Lý Uyên cười nói: “Hôm ấy ngươi muốn hỏi gì, giờ cứ nói đừng ngại.”

Lý Thế Dân im lặng giây lát mới mở miệng: “Xin hỏi phụ hoàng, Lưu Văn Tĩnh vì sao phải chết?”

Lý Uyên bình thản đáp: “Vì những chuyện hắn đã làm.”

Lý Thế Dân nhíu mày hỏi: “Xin phụ hoàng nói rõ?”

Lý Uyên trái lại còn cười: “Ngày thường Lưu Văn Tĩnh hay nói gì với ngươi, lần này hắn ra sức thúc ngươi trấn thủ Trường Xuân cung vì lý do gì, đừng cho là trẫm không hề hay biết.”

Lý Thế Dân ngẩn ra, thoáng giật mình.

Rất lâu sau, hắn mới nói: “Nhi thần tuyệt không có ý này, mong phụ hoàng minh giám.”

“Đương nhiên trẫm hiểu. Nếu ngươi thực sự có ý này, trẫm đã không chuẩn tấu cho ngươi đến Triều Ấp.” Lý Uyên từ tốn nói, “Nhưng để Lưu Văn Tĩnh bên cạnh ngươi, về lâu về dài tất thành hậu họa.”

Lý Thế Dân nói: “Lưu Văn Tĩnh chẳng qua chỉ một lòng lo nghĩ cho nhi thần, nhất thời có chút độc đoán.”

“Lo nghĩ cho ngươi nên xúi bẩy ngươi chiếm đại quyền, so kè với thái tử?” Giọng Lý Uyên bỗng nặng nề thêm mấy phần, “Người như thế, trẫm làm sao giữ lại được? Trẫm xử hắn tội mưu phản có gì không thỏa đáng?”

Lý Thế Dân nghe vậy bỗng dưng trầm mặc, mãi sau hắn mới ngước mắt nhìn Lý Uyên, do dự hồi lâu, cuối cùng cũng hỏi: “Phụ hoàng, việc này đại…… thái tử biết được bao nhiêu?”

Lý Uyên thoáng ngừng rồi tiếp: “Thế Dân, ngươi nên biết, sinh trong nhà đế vương, trẫm chỉ mong ba huynh đệ ngươi hãy đồng tâm hiệp lực, chớ để xảy ra cảnh tranh đấu bất hòa.”

Ông đã nói trắng ra đến đây, Lý Thế Dân cũng không biết nói gì cho phải, đành đáp: “Nhi thần đã hiểu, xin phụ hoàng đừng lo lắng.”

Nét mặt Lý Uyên thoáng dịu đi, đưa tay vỗ vai hắn, căn dặn: “Thế Dân, ngươi là người hiểu đại cục, chuyện này hãy cho qua đi.”

Lý Thế Dân im lặng gật đầu, liền đó tiễn Lý Uyên ra cửa.

Trở về phòng, hắn lấy từ trong tủ ra một hộp gỗ đàn hương, đặt lên bàn rồi mở ra. Trong hộp, là phong huyết thư tuyệt bút của Lưu Văn Tĩnh được gấp gọn che kĩ.

Lý Thế Dân cẩn thận cầm lên, chầm chậm mở ra trước mắt.

Do mấy phen ngâm mình trong tuyết lớn, vệt máu đỏ thẫm trên thư đã loang rộng và nhạt dần, nhưng kiểu chữ quen thuộc của Lưu Văn Tĩnh vẫn có thể nhận rõ từng đường từng nét.

Năm dòng chữ lưu loát, kết cấu câu đầu không ăn khớp với chữ cuối cho lắm.

Nhưng nếu lần theo đầu dòng, sẽ hiện lên năm chữ hết sức rõ ràng.

Năm chữ nhỏ máu ròng ròng, nối liền thành câu –

“Sát ngã giả, thái tử.” (Người gϊếŧ ta là thái tử)