Tĩnh đế năm Thiên Hữu thứ hai mươi lăm.
Mùa đông năm nay tuyết rơi đặc biệt sớm, mới vào đầu mùa mà bông tuyết đã lả tả tung bay. Sáng sớm vừa mở khung cửa sổ liền thấy cả khoảng sân bị tràn ngập bởi sắc trắng mênh mang, trắng muốt như thân thể mịn màng của giai nhân dưới ánh nến.
Ôn Nhã Thần đứng trước cửa sổ uể oải vươn vai. Gió bấc đan xen giữa từng bông tuyết hoa thổi ùa lên mặt. Trong hàn ý lạnh thấu xương, cả người liền lập tức thanh tỉnh.
Bọn họ nói, ngự sử tân nhậm đã khởi hành ra khỏi địa giới Thanh Châu, hai ngày nữa chắc sẽ tới Liên Châu.
Nghiêm Phượng Lâu im hơi lặng tiếng đã quá lâu. Đi dò hỏi dọc theo kim loan điện một vòng, ai cũng nói không rõ lai lịch của y. Cho dù là những kẻ trúng cử cùng khóa với y năm đó cũng phải vắt hết trí óc mới mơ hồ nhớ ra được một chút, ngày trước xác thực từng có một người như vậy: “Có phải là người luôn đứng đằng sau Cố Minh Cử không?”
Lại qua hai trận tuyết rơi, Nghiêm Phượng Lâu đã vào tới kinh thành. Nói rằng cấp tốc lên đường, đi suốt ngày đêm, ngay cả đại tuyết phủ kín triền núi cũng nhất quyết không chịu trì hoãn. Ngàn dặm xa xôi mà đến, trên đường chưa từng để cho mã xa được nghỉ ngơi dù chỉ một khắc, e là ngay cả công văn khẩn cấp của biên quan cũng không đuổi kịp y.
Vì thế liền có người cảm thấy kỳ quái mà trêu chọc: “Thì ra là từ Thanh Châu nhỏ bé kia tới, dáng vẻ cuống quýt vội vàng thật là khó coi.”
“Sợ tới chậm thì quan chức sẽ mọc chân chạy mất hay sao?”
Rước tới một tràng tiếng cười phụ họa.
Tiếp qua mấy ngày, Ôn Nhã Thần liền nhìn thấy y từ trong đám người đứng trên triều đình.
Ngự sử đại nhân tân nhậm “bất minh tắc dĩ nhất minh kinh nhân”
(1)
mặc một thân quan phục mới tinh, nét mặt cương chính, dáng người kiên nghị, chỉ có điều thoáng nhìn từ bên sườn mặt thì thấy y có vẻ hơi gầy. So với Nghiêm Phượng Lâu trong tưởng tượng của Ôn Nhã Thần, người trước mặt dường như càng tiều tụy hơn, ánh mắt mặc dù trong trẻo kiên định, nhưng lại mơ hồ lộ ra mấy phần bi thương.
Tương giao cùng Cố Minh Cử tính ra cũng đã đôi ba năm, từ trước tới giờ Ôn Nhã Thần lại chưa từng được nghe hắn đề cập tới người tên Nghiêm Phượng Lâu này. Trong lúc uống rượu ngà ngà say, ánh mắt trở nên mơ màng, tên cuồng rượu Cố Minh Cử ấy sẽ bất chợt đứng lên, chỉ tay về phía một người đi đường nào đó đang vội vàng băng qua dưới phố mà hét lớn: “Ê, ngươi tới rồi sao? Ta biết ngươi nhất định sẽ tới tìm ta mà.”
Ôn Nhã Thần túm cổ áo hắn lôi trở về, cầm chén rượu lạnh hắt lên mặt hắn: “Ngươi lạc mất người nào?”
Cố Minh Cử ngồi trên ghế liền bình tĩnh lại, ánh mắt vẫn truy theo thân ảnh của người qua đường nọ mãi tới khi không còn nhìn thấy bóng dáng, trên gương mặt đỏ hồng vì rượu lúc thì ngập đầy hoài niệm, khi lại lan tràn vẻ lạc mịch cô đơn.
Duy chỉ có một lần là ngoại lệ, vào một đêm trăng tròn. Cố Minh Cử ngàn chén không say lúc này đã say túy lúy, hắn kéo ống tay áo của Ôn Nhã Thần, miệng lẩm nhẩm gọi Phượng khanh liên hồi, đôi mắt đỏ thẫm trừng lớn, dùng cánh tay run rẩy để khua loạn lung tung.
Hắn lớn giọng nói, Phượng khanh của hắn rất đẹp, có thể lấy được lòng của tất cả những nhạc mẫu nương trên đời này: “Thật đấy… ta không lừa ngươi đâu… Chỉ cần hắn đừng làm ra vẻ mặt cứng ngắc, đanh mặt lại là trông sẽ già mất rồi. Ách, kỳ thực, ách… vẫn là đẹp.”
Đêm hôm ấy, Cố Minh Cử như phân thành hai người hoàn toàn khác biệt so với lúc thường. Hắn ngông cuồng định thò cả nửa người ra khỏi thành lâu, ngón tay chỉ lên vầng trăng tròn trên bầu trời, vừa cười vừa hét lớn như một kẻ điên: “Phượng khanh, ta mang ngươi đi ngắm trăng!”
Nếu không nhờ Ôn Nhã Thần sống chết giữ chặt hắn lại, chỉ e hắn đã ngã xuống từ trên lầu cao.
***
Ngự sử mới vào kinh đứng một mình dưới cửa cung nguy nga trông vô cùng chói mắt, mọi người đều dùng ánh mắt đề phòng để nhìn y. Phớt lờ mọi lời thì thầm bàn tán xôn xao xung quanh, Nghiêm Phượng Lâu từ đầu tới cuối chỉ diện vô biểu tình, sống lưng thẳng tắp, trong đôi mắt đen sâu thăm thẳm không thể nhìn ra nửa điểm vui mừng khi được thăng quan tiến chức.
Người lên triều càng lúc càng đông, tốp năm tốp ba, có người tới gần bắt chuyện với y. Ôn Nhã Thần để ý quan sát một chút, thấy những người đó đều là của bên Lâm Giang vương. Cao tướng và đám tâm phúc của lão thì đều đứng tụ tập ở một bên khác, hai phe phái phân biệt rõ ràng. Một viên huyện thừa Nam An nho nhỏ có thể bất ngờ bộc lộ tài năng, ai là kẻ đứng sau lưng trợ lực cho y? Hiển nhiên không cần phải nói cũng biết.
“Cũng đều là kẻ bán mạng cho người khác, ai có thể tốt hơn ai?” Có người thì thầm nhận xét bên tai Ôn Nhã Thần.
Ôn Nhã Thần gục gặc đầu, không tỏ rõ ý kiến.
Bệ hạ long thể bất an, lúc trời sáng rõ, có một người công công vận đồ màu đỏ đi ra thông báo tan triều, nếu có việc gì quan trọng muốn tấu thì trình với hai vị Lâm Giang vương và Cao tướng. Gần nửa năm qua, đây đã là chuyện thường thấy. Đám thần tử sớm đã tập thành thói quen, nghe thấy vậy liền tốp năm tốp ba rời đi.
Nhân lúc mọi người còn đang hỗn độn, Ôn Nhã Thần không lộ thần sắc đi tới phía sau Nghiêm Phượng Lâu. Tên quan viên đầu tiên đến bắt chuyện với Nghiêm Phượng Lâu vẫn đang nhiệt tình đứng bên cạnh y. Ôn Nhã Thần mơ hồ nghe được đôi ba chữ, Cao tướng gì đó, Lâm Giang vương gì đó, tương lai gì gì đó.
Nghiêm Phượng Lâu quả thực kiệm lời như trong miêu tả của Cố Minh Cử, người ta thao thao bất tuyệt tự thuật không ngừng, thỉnh thoảng mới nghe thấy y lên tiếng trả lời. Âm giọng sâu lắng, thoáng mang theo một tia trầm khàn.
Ôn Nhã Thần nhớ Cố Minh Cử từng nói, Nghiêm Phượng Lâu thường xuyên thức đêm xem công văn. Có lẽ suốt dọc đường tiến vào kinh thành, y vẫn chưa từng nghỉ ngơi thật tốt lấy một lần. Lúc nói chuyện, tiếng ho khan rõ ràng không thể né được thoát ra cùng lời nói.
Lúc đi lướt qua vai, Ôn Nhã Thần ngoảnh đầu liếc nhìn sườn mặt nghiêng nghiêng của y. Ánh mắt Nghiêm Phượng Lâu rất nhạt, tựa như cái gì cũng không thể khiến y lưu tâm, đường nét góc cạnh của gương mặt lại rõ ràng lộ ra mấy phần kiên nghị.
Đêm hôm đó, Ôn thiếu gia tá túc ở Ỷ Thúy lâu. Rượu quá tam tuần, đồ ăn quá ngũ vị. Giai nhân mặc một thân sa y nửa kín nửa hở đang uyển chuyển múa vũ trước mặt. Ôn Nhã Thần nghiêng người qua bắt lấy cổ tay mảnh khảnh trắng nõn như ngọc của nàng: “Nếu ngày mai ta chết, nàng có vì ta mà khóc không?”
Hoa nương cười tươi như hoa, thướt tha vòng qua tấm bàn tròn, kiều mị ngã vào l*иg ngực của hắn, ngón tay trắng nõn đưa đẩy giữa hai hàng lông mày: “Thϊếp đây liền chết cùng ngài.”
Ôn Nhã Thần cười cười nắm lấy đầu ngón tay không an phận của nàng: “Nàng đã nói như vậy với bao nhiêu người rồi?”
Nàng mị nhãn như tơ, dụng tâm kín đáo dẫn dắt bàn tay hắn lướt trên lớp sa y mỏng manh: “Ngài nói thử xem?”
***
Cuộc sống trong thiên lao của Cố Minh Cử trôi qua rất an tĩnh, có thể ăn có thể ngủ có thể nói chuyện. Kể từ khi thánh thượng đại xá thiên hạ, đám cai ngục không còn ngăn cản Ôn Nhã Thần vào thăm nữa. Nghe nói, đây cũng là công lao của Lâm Giang vương. Mặc dù cũng chỉ làm ra vẻ bề ngoài cho người khác nhìn, nhưng so với Cao tướng bạc tình bạc nghĩa, vị vương gia này đối đãi với thuộc hạ đã tốt đến khiến người ta nói không nên lời.
Đứng bên ngoài tù thất hôn ám, Ôn Nhã Thần thường xuyên nhìn thấy bóng dáng thất thần của Cố Minh Cử. Ôn thiếu gia trải đời còn chưa sâu không thể nào tin được, Cố Minh Cử ngồi đối diện với bức tường ở bên kia tấm song gỗ, mang thần thái thành kính như tăng nhân đang khổ tu, chính là kẻ trước đây đã từng đưa mình đi khắp các nơi tầm hoa vấn liễu trong kinh thành.
Kỳ thực tới tận ba năm sau ngày Cố Minh Cử bị nhốt vào thiên lao, khi mọi người vô tình nhắc đến tên hắn trong cuộc trò chuyện, hình tượng mà Cố thị lang lưu lại cho mọi người vẫn là một gương mặt tươi cười thân thiết nhưng ánh mắt lại lạnh như băng.
Trong nửa tháng kể từ khi Nghiêm Phượng Lâu vào kinh, Ôn thiếu gia rất thức thời mà không tới thiên lao quấy nhiễu. Sau đó, với tư cách là chi giao hảo hữu, hắn đặc biệt mang tới cho Cố Minh Cử một vò rượu ngon: “Kim phong ngọc lộ lại tương phùng. Thế nào, có phải còn hơn hẳn vô số mỹ vị nhân gian hay không?”
Cố Minh Cử trước kia luôn đầy vẻ tươi cười bỗng nhiên trầm mặc.
Mặc dù đã che giấu rất tốt, nhưng Ôn Nhã Thần vẫn có thể đọc ra mấy phần bi ai từ bàn tay khẽ run rẩy của hắn.
Hai tháng sau, Nghiêm Phượng Lâu bí mật xuất kinh đi mời thiên hạ đệ nhất nhà nho Thủy Kính tiên sinh
(2)
tới làm thầy cho Chương hoàng tử.
Đó là một lão đầu tính tình cổ quái, học sĩ uyên bác, đức cao vọng trọng, tầng lớp sĩ phu đều lấy lão làm tấm gương để noi theo. Đương kim thiên tử từng có ý muốn mời lão hạ sơn để phụ tá, ban cho vô số vàng bạc kim ngân, lại dùng quyền cao lộc hậu để hứa hẹn, nhưng tất cả đều bị lão thẳng thừng cự tuyệt. Thánh thượng hạ mình tới thỉnh ba lần, cả ba lần đều quay về uổng công. Lời đồn lão nhân cuồng ngạo, trên thế gian này chưa có vị minh quân nào khiến lão muốn dốc lòng tương trợ.
Tiếng đồn còn văng vẳng bên tai, xoay người một cái, lão đã theo Nghiêm Phượng Lâu vào cung, lặng im đứng bên cạnh Chương hoàng tử. Đương thời, một Thủy Kính tiên sinh đủ để sánh ngang với “thương sơn tứ hạo”
(3)
thời sơ Hán. Lời đồn thổi lan truyền trong cung, ngay cả thiên tử trên giường bệnh nghe được tin này cũng phải kinh ngạc rất lâu.
Sau đó, ngự sử tân nhậm Nghiêm Phượng Lâu dâng tấu, dùng đại tội tham ô tác hối, chiếm đoạt ruộng đất để buộc tội Lại bộ thị lang Uông Đồng Thư, là đứa cháu xa của Cao tướng.
Cả triều ồn ào xôn xao.
Đế vương hoa mắt ù tai không chịu tin, đem tấu chương ném mạnh xuống nền đất: “Hoang đường!”
Nghiêm Phượng Lâu quỳ gối cúi đầu dưới bậc thềm ngọc: “Những lời thần nói đều là sự thật.”
Trước tất cả ánh mắt của mọi người, lĩnh ba mươi trượng.
Âm thanh trầm nặng vang lên rõ rệt, truyền vào trong tai từng người, Ôn Nhã Thần cảm thấy trên người mình cũng mơ hồ sinh ra mấy phần đau đớn theo, một mực cúi đầu nhìn chằm chằm xuống mũi chân, không muốn phải thấy thảm trạng da tróc thịt bong của y.
Ngày hôm sau, Nghiêm Phượng Lâu lại dâng tấu chương một lần nữa: “Thỉnh bệ hạ minh giám.”
Thiên tử nổi giận đến cực điểm, ban xuống bốn mươi trượng.
Lúc tan triều, mọi người đều nhấc chân bước qua người y mà rời đi. Ôn Nhã Thần tận mắt nhìn thấy Nghiêm Phượng Lâu mềm nhũn như bùn, nằm úp sấp trên mặt đất cô độc, ngay cả gượng đứng dậy cũng không đủ sức lực. Nhịn không được bèn đi tới phía trước đỡ y dậy.
Nghiêm Phượng Lâu mở mắt ra: “Nguyên lai là Ôn thiếu gia, hạ quan nghe danh đã lâu.” Trên trán đã thấm mấy tầng mồ hôi lạnh.
Vụng tay vụng chân từng bước dìu y ra khỏi cung, giọng điệu của Ôn Nhã Thần trở nên cứng đờ: “Yên tâm đi, ta sẽ không nói cho Cố Minh Cử biết.”
Nghiến răng cố nén cơn đau đớn dữ dội, Nghiêm Phượng Lâu xoay mặt sang, yếu ớt cấp cho hắn một nụ cười: “Cảm tạ.”
Nắm lấy cánh tay gầy như que củi của y, nghe y hít vào từng hơi đau đớn, Ôn Nhã Thần bất chợt xoay đầu sang hướng khác.
Ba ngày sau, Nghiêm Phượng Lâu thương thế chưa lành lại khập khiễng đứng trong hàng ngũ vào triều. Trên kim điện, y tập tễnh bước ra khỏi hàng: “Thần muốn tấu về Lại bộ thị lang Uông Đồng Thư.”
Long đình phẫn nộ.
Bá quan phủ phục xuống mặt đất, kinh sợ không thôi.
Duy chỉ có mình y vẫn không chịu thoái nhượng: “Thỉnh bệ hạ minh giám!”
Ôn Nhã Thần rõ ràng nhìn thấy, bên dưới tấm áo quan đỏ tươi của y, sớm đã bị một mảng mồ hôi lạnh thấm ướt.
Khuôn mặt tái nhợt vì bệnh của thiên tử trở nên cứng đờ, bị cơn thịnh nộ làm cho đỏ bừng lên. Nghiêm Phượng Lâu ngỗ ngược phạm thượng, lĩnh thêm bốn mươi trượng.
Lại qua mấy ngày sau, vẫn là y. Bước chân so với lúc trước càng thêm phù phiếm, nhưng mâu quang chỉ càng thêm cố chấp: “Thần có bản thượng tấu.”
…
Mùa xuân năm Thiên Hữu thứ hai mươi sáu, Uông Đồng Thư đền tội, Cao tướng như mất đi một vây cánh.
Danh tiếng của Nghiêm Phượng Lâu từ đó lan truyền trong triều. Trước ánh mắt của muôn người, Lâm Giang vương vẫn luôn sống chết mặc bay lúc này lại tươi cười khả cúc, kéo cổ tay chất chồng vết sẹo do gông xiềng của y: “Nghiêm đại nhân cực khổ.”
Trước ánh mắt dị thường của người ngoài, Nghiêm Phượng Lâu không kiêu ngạo không siểm nịnh, chắp tay hành lễ: “Hạ quan chỉ làm việc nên làm.”
Ống tay áo thật dài che đi tất cả mọi biểu cảm.
Qua một khoảng thời gian, liên tiếp có đại thần dâng tấu chương, khẩn cầu đem tội thần Cố Minh Cử ra vấn trảm.
Cao tướng chỉ cười không nói.
Lâm Giang vương ra mặt lên tiếng: “Việc này chỉ e không ổn.”
Thánh thượng do dự, trải qua mấy lần thuyết phục của Lâm Giang vương, cuối cùng gạt bỏ.
Trên quan trường bắt đầu âm thầm lộ ra một ít tin đồn. Lâm Giang vương đối với Nghiêm Phượng Lâu là có hứa hẹn, chỉ cần đại sự có thể thành, khi Chương hoàng tử đăng cơ, cũng sẽ là ngày Cố Minh Cử được xuất ngục.
Bên phía Cao tướng có người khẳng định, lúc nhận mệnh tới Nam An trói bắt Cố Minh Cử, đã tận mắt thấy hắn bước ra từ trong phòng ngủ của Nghiêm Phượng Lâu. Quần thần xôn xao. Nhất thời tam sao thất bản, ngay cả nơi bắt Cố Minh Cử cũng thay đổi tới mấy lần. Hôm kia còn nói ở ngoài phòng, hôm qua đã sửa thành trong phòng, tới sáng sớm hôm nay lại có người đề cập tới, đã biến thành giữa giường, ngay trên người Nghiêm Phượng Lâu.
Khi ấy, cái kia của Cố Minh Cử còn chôn sâu trong bắp đùi Nghiêm Phượng Lâu mà tiến xuất ý do vị tẫn, Nghiêm Phượng Lâu bị hắn nâng cao hai chân, trong miệng đầy tiếng rêи ɾỉ phóng đãng, dơ bẩn đến không thể lọt vào tai.
Bọn họ miêu tả sống động như thật, trên giường ngổn ngang lộn xộn thế nào, Cố Minh Cử và Nghiêm Phượng Lâu y sam bất chỉnh rồi lại làm trò hề ra sao. Ngôn ngữ sinh động tình tiết tỉ mỉ, tựa như từng màn từng cảnh đều được bọn họ tận mắt chứng kiến.
Ôn Nhã Thần nghe xong, chỉ cúi đầu cười cười.
Bọn họ lại càng không coi ai ra gì, nghiêm túc hỏi ngược lại: “Bằng không, Nghiêm Phượng Lâu kia là vì cái gì?”
Ôn Nhã Thần nói: “Có lẽ đơn giản chỉ vì tình bằng hữu giữa đồng môn chăng?”
Mọi người đều sửng sốt, trợn lớn mắt nhìn hắn chẳng thể nào tin, sau đó cả đám bật cười ngặt nghẽo. Thế gian này đã chẳng còn ai tin, sẽ có ai đó chỉ vì một chữ “tình” đơn giản mà cam nguyện trả giá tất thảy, thậm chí ngay cả tính mạng của chính mình.
Đám quan viên trong triều cay nghiệt chẳng hề kiêng kị mà đem Nghiêm Phượng Lâu ra làm chủ đề đàm luận: “Nhìn hắn ra vẻ như một đại nam nhi đoan chính, thì ra là giả.”
“Ài, đại nhân ngài nói sai rồi. Người ta phía trước là giả, nhưng phía sau lại có một cái động tiên khác nha.”
“Ôi chao, ngươi thử rồi?”
“Ha ha, ngài tới thiên lao mà hỏi vị Cố thị lang kia một chút chẳng phải sẽ biết ngay sao.”
“Ngươi đi hỏi rồi?”
“Ha ha ha ha ha… Tư vị trong ấy, cho dù hắn nói cho ngài đi nữa, ngài chưa từng nếm qua thì làm sao mà biết được?”
Ôn thiếu gia tính tình nóng nảy ở một bên nghe đến uất giận: “Các người có thời gian rảnh rỗi ở đây tán phét, chẳng qua là vì thấy Cố Minh Cử hiện tại bị giam trong thiên lao, ra không được cũng nghe không thấy. Đại môn thiên lao mỗi ngày mở ra ở đằng kia, không chừng chờ tới khi tan triều lại có một hai kẻ bị áp tải vào làm bạn cùng hắn đấy. Nhị vị có rảnh rỗi thì ngồi xuống mà suy nghĩ cẩn thận một chút về Uông Đồng Thư lúc trước xem, các người là có gia thế cao hơn hắn, hay có một người biểu thúc so với hắn càng quyền cao chức trọng hơn? Đừng để tới khi vào gặp Cố Minh Cử rồi, trong lòng ngay cả một cái tâm lý chuẩn bị cũng không có.”
(uầy, mình thích bạn Thần ọ_ọ)
Hai kẻ ngồi lê đôi mách kia lập tức ngậm miệng, chột dạ thò đầu nhìn về phía sau lưng Ôn Nhã Thần. Nghiêm Phượng Lâu đang đứng bên tường cung điện lặng im không nói, ánh mắt vẫn nhạt nhòa như từ xưa tới giờ, trên gương mặt lãnh ngạnh như đá không nhìn ra nửa điểm buồn vui.
Trong những lời nghị luận và miệt thị thật thật giả giả của mọi người nơi đây, Nghiêm Phượng Lâu vẫn vững như núi, lại dâng tấu chương vạch tội mấy người trúng cử cùng năm với mình. Tiếp đó là trung thư xá nhân Trần Huy, cấp sự trung Lục Mông… Những lời vũ nhục chửi rủa luôn theo phía sau lưng y. Cả bè đảng của Cao tướng đều gọi y là một con cẩu không biết kêu la bên chân Lâm Giang vương, càng yên lặng thì lại càng biết cắn người.
Trong những lời chỉ trích ngập trời, Nghiêm Phượng Lâu nét mặt lạnh lùng đôi khi lại đứng dưới cửa cung cao cao mà ngây ngẩn cả hồi lâu, trong khoảnh khắc biểu tình trở nên trống rỗng, tựa như hồn phách đã bị thổi tới một phương nào đó chẳng ai hay.
Ôn Nhã Thần nhẹ nhàng huých huých lên tay y: “Nghiêm đại nhân, đang suy nghĩ gì vậy?”
Y bất chợt hoàn hồn, cẩn trọng tránh sang một bước để nhường đường, ánh mắt phiêu phiêu lơ lửng: “Không có gì.”
Ôn Nhã Thần dè dặt hỏi: “Là Cố Minh Cử sao?”
Y không thừa nhận, cũng không phủ nhận: “Trời lạnh rồi, hàn khí trong thiên lao có phải sẽ càng nặng nề hơn nơi này không?”
Ôn Nhã Thần không kiềm được mà khuyên nhủ y: “Nếu thực không yên tâm, vậy đi thăm thử đi.”
Y rũ mắt xuống suy xét hồi lâu: “Ta đi sẽ chỉ càng khiến hắn lo lắng.”
Nhìn tầng tầng sóng gợn trong đôi mắt y, Ôn Nhã Thần biết, kỳ thực có một khoảnh khắc Nghiêm Phượng Lâu đã động tâm rồi.
Năm Thiên Hữu thứ hai mươi bảy, ngự sử Nghiêm Phượng Lâu lại giành được long ân, quan bái lên làm ngự sử trung thừa ngũ phẩm, chưởng quản ngự sử thai, giám sát bách quan, tố cáo những kẻ phạm pháp. Từ một huyện thừa đi tới đài cao này, có thể nói là quan vận hanh thông.
Hai tay y nâng cao quá đầu, cung cung kính kính tiếp nhận thánh chỉ, cho dù là thời khắc này, nét mặt y vẫn vững như sơn, không thấy một tia hoan hỉ. Ôn Nhã Thần trốn trong hàng ngũ tỉ mỉ quan sát gương mặt gầy đến thấy rõ khung xương của y, mới vậy mà đã hai năm trôi qua, khoảng chừng bảy trăm ba mươi ngày, ngoại trừ nụ cười yếu ớt như phù dung chóng tàn khi hắn dìu y ra khỏi điện ngày đó, Nghiêm Phượng Lâu dường như chưa từng nở nụ cười.
Ôn Nhã Thần chợt nhớ tới, Cố Minh Cử trong thiên lao lại thường hay cười hơn, cùng một tên ngục tốt cũng có thể tán gẫu đến hoan thanh tiếu ngữ không ngừng. Hai người bọn họ quả nhiên là hai loại người khác nhau, một người mặt tuy cười nhưng đáy mắt lạnh lẽo, một người lại luôn giữ gương mặt lạnh lùng, đem tất cả mọi buồn vui đều chôn sâu xuống đáy lòng.
Nếu nói Cố Minh Cử một bước lên mây là nhờ vào việc bất chấp mọi thủ đoạn cho dù tồi tệ để đạt được, vậy thì, mọi thăng tiến của Nghiêm Phượng Lâu có thể nói đơn giản hơn nhiều chỉ bằng hai chữ —— bán mạng.
Y không giỏi ăn nói, không biết giao tiếp, trên tiệc rượu thường hay bị người ta bỏ quên một bên, trong đám quan viên dựa vào Lâm Giang vương cũng chưa từng thấy ai có thâm giao với y. Trên triều đình, khi bị người ta hoạnh họe gây khó dễ, sẽ chẳng ai ra mặt thay y, càng không ai vì y mà tranh cãi.
Cố Minh Cử hỏi Ôn Nhã Thần: “Ngươi nói xem, hai năm nay Nghiêm Phượng Lâu sống thế nào?”
Nghiêm Phượng Lâu có thể thăng quan, việc này trong mắt hắn có lẽ được xem như một kỳ tích.
Hắn say nên tuyệt nhiên không thấy được những sóng gió đang cuộn trào mãnh liệt trong lòng Ôn Nhã Thần.
Kỳ thực nếu nói ra, Phượng khanh của ngươi là dựa vào việc vạch tội bè phái của Cao tướng trước mặt Lâm Giang vương để xây dựng chỗ đứng. Từng quyển tấu chương nối tiếp nhau, lần đầu tiên tố cáo chưa được, lần thứ hai lại tiếp tục thượng tấu.
Cho dù phải chịu bao nhiêu trượng, cho dù bị xiềng hình, dẫu cho phải lăn qua đinh bản hay nghiền qua mũi đao, chỉ cần còn lại một hơi thở, y sẽ không ngừng kiên trì mang biểu tình đờ đẫn đứng trên triều đình. Y không thể ngừng cũng không thể lui. Đến khi nào thực sự nguy hiểm tới tính mạng, Lâm Giang vương mới chìa tay ra kéo y một phen, bởi lẽ chẳng thể tìm được ở nơi đâu một người không cần tính mệnh hơn y, một người chỉ có duy nhất một chí hướng như y.
Nếu một ngày nào đó y rút lui, y sẽ chẳng còn giá trị để lợi dụng nữa. Y phải chết, ngươi cũng không thể sống tiếp.
Ôn Nhã Thần nói không nên lời, chỉ có thể viện một cái cớ vụng về để rước lấy sự chê cười của Cố Minh Cử: “Hắn… sống rất tốt.”
Tới tận lúc này, Ôn Nhã Thần mới thực sự cảm thấy hâm mộ cái lưỡi khéo léo của Cố Minh Cử lúc xưa.
***
Năm Thiên Hữu thứ hai mươi tám, hoàng tử Chương đăng cơ xưng đế, Lâm Giang vương như nguyện được ngồi lên vị trí nhϊếp chính phụ triều.
Trong thiên hạ, ngoại trừ một số rất ít người, kỳ thực cũng chẳng mấy ai quan tâm tới việc cuối cùng sẽ là người nào ngồi lên long ỷ, trong đó bao gồm cả Ôn Nhã Thần. Cuộc sống vẫn đang tiếp diễn theo cách thức trước kia, người giàu được coi trọng, người nghèo bị coi khinh, Hoa nương của Ỷ Thúy lâu vẫn nhu mì đáng yêu như thuở nào.
Xu thế càng lúc càng hủ bại của hoàng triều cũng không phải chỉ cần đổi một vị thiên tử hay diệt trừ một tên nịnh thần là có thể dễ dàng bị ngăn cản, sức người đứng trước mệnh trời, chỉ nhỏ bé như một chú kiến con.
Lúc tân đế đăng cơ, đều phong tước cho các thần tử có công hộ giá. Duy chỉ mình Nghiêm Phượng Lâu là bị biếm. Y bị trục xuất khỏi kinh thành, vĩnh viễn không được vào triều làm quan. Kỳ thực, đây là ước định mà y đã lập từ sớm với Lâm Giang vương.
Sau khi đại công cáo thành, cái gì cũng không cần, chỉ cần một Cố Minh Cử còn sống. Triều đình dẫu xa hoa lộng lẫy hơn nữa, nếu không còn Cố Minh Cử, có cho y cũng không nghĩa lý gì.
Là khi gió thu dần thổi mạnh, một mình Ôn Nhã Thần đi lên thành lâu, nhìn xuống hai người bọn họ đang sóng vai cùng bước ngang qua phía dưới.
Hắn từng giúp Nghiêm Phượng Lâu chuyển cho Cố Minh Cử một bức thư. Phương thức mảnh giấy được gập lại rất độc đáo và đặc biệt. Cả mảnh thư được gấp thành một hình vuông nho nhỏ, từng nét chữ được bao kín bên trong, hai mặt trước sau đều trống trơn, bốn cạnh bằng phẳng, nhìn như chưa hề có ai động tay vào.
Ôn Nhã Thần đột nhiên nhớ tới một chuyện: “Cố Minh Cử cũng thường hay viết lên giấy rồi gấp lại như vậy.”
Sau đó, Cố Minh Cử sẽ ném chúng vào chậu than để thiêu hủy. Hắn nói, đây là bí mật, chỉ có người biết cách mở chúng ra mới có thể đọc được. Nếu cường ngạnh xé mở, sẽ làm cho bút tích trên mặt giấy rách vụn ra theo.
Đáng tiếc người đó không có ở đây, hơn nữa có lẽ người ấy sẽ vĩnh viễn không muốn đọc những thứ này.
“Ta sợ hắn không chống đỡ thêm được nữa.” Nghiêm Phượng Lâu lúc trước còn mang vẻ u buồn, nghe thấy vậy liền nở một nụ cười nhàn nhạt, “Là hắn dạy cho ta.”
Đó là lần thứ hai Ôn Nhã Thần nhìn thấy y cười, vẫn chóng vánh như hoa quỳnh sớm nở chóng tàn, trong đôi mắt tĩnh tại như mặt nước lại bất ngờ lướt qua mấy phần quang lượng. Lúc này Ôn Nhã Thần mới tin lời Cố Minh Tử từng nói, Phượng khanh của hắn thực sự rất đẹp.
Bóng hình của hai người bọn họ dần xa, chầm chậm biến thành hai chấm đen nho nhỏ trong ánh tà dương đang lặn dần về phía Tây. Ôn Nhã Thần cũng xoay người chậm rãi bước xuống khỏi thành lâu. Trong quãng đời từ nay về sau, hẳn là trên gương mặt Nghiêm Phượng Lâu sẽ thường xuyên nở những nụ cười hạnh phúc như vậy nhỉ?
__Hết phiên ngoại__
*Chú thích:
(1) Bất minh tắc dĩ, nhất minh kinh nhân: Câu này cũng có ý nghĩa giống câu “bất phi tắc dĩ, nhất phi trùng thiên” ở chương trước. Nghĩa là đã không lên tiếng thì thôi, một khi lên tiếng liền khiến ai nấy đều phải kinh ngạc. Dùng để so sánh với người lúc thường không có biểu hiện gì đặc biệt, nhưng vừa ra tay liền tạo được thành tích đáng ngạc nhiên.
(2) Thủy Kính tiên sinh (Tư Mã Huy): (? – 208), tên tự là Đức Tháo, người Dĩnh Xuyên. Là một ẩn sĩ nổi danh ở Trung Quốc vào những năm cuối thời Đông Hán, danh sĩ Bàng Đức tặng ông danh hiệu “Thủy Kính tiên sinh”. Ai đọc Tam Quốc chắc sẽ biết nhân vật này ^^
(3) “Thương sơn tứ hạo” là bốn vị tiến sĩ của triều Tần: Đông Viên công Đường Bỉnh, Hạ Hoàng công Thôi Nghiễm, Ỷ Lý quý Ngô Thực, Lục Lý tiên sinh Chu Thuật. Bọn họ là bốn trong bảy mươi quan sĩ nổi tiếng thời Tần Thủy Hoàng. Về sau bọn họ ẩn cư ở Thương Sơn, từng can gián Hán Cao tổ Lưu Bang không thể phế bỏ thái tử Lưu Doanh (tức Hán Huệ đế sau này). Người đời sau lại dùng “thương sơn tứ hạo” để phiếm chỉ những ẩn sĩ có danh tiếng.