Mùa thu năm Thiên Hữu thứ hai mươi lăm, gió thu thổi xào xạc, cuốn từng chiếc lá vàng rụng xuống đìu hiu. Trung thư thị lang Cố Minh Cử họa loạn triều cương, khi quân võng thượng, phạm tội đại bất kính, chiếu theo phép tắc phải xử trảm hình, thuận theo ý muốn của mọi người, trèo càng cao, ngã lại càng đau. Thời gian hành hình dự tính là một tháng sau, có lẽ sẽ đúng vào lúc trận tuyết đầu tiên của mùa đông năm nay đổ xuống, tuyết nhuộm máu đào, hẳn là vô cùng kinh diễm.
Những lời nghị luận trên triều đình đều rất sôi nổi, có người than đáng tiếc, có người lại nói là báo ứng. Người nhiều chuyện thì hăng hái muốn hỏi cho đến tận cùng: “Chắc chắn hắn đã sớm biết sẽ có ngày hôm nay, tại sao không chuẩn bị bất kỳ điều gì, lại một mực muốn chạy tới Nam An? Đây không giống với thủ đoạn hành sự của hắn.”
Mọi người đang túm tụm đàm luận đến hứng khởi, bất ngờ bị hỏi ngược lại như vậy liền há hốc miệng, một lúc lâu sau không thể nói tiếp: “Việc này… ai mà biết được hắn? Có lẽ là do khinh suất?”
Người cương trực còn chưa nghe ra ý ngầm, ngây ngốc hỏi tiếp: “Cố Minh Cử tinh ranh đến độ sắp thành tinh tới nơi rồi, sao hắn lại có lúc nào khinh suất cho được?”
Sau đó các bậc tiền bối râu bạc liền nhịn không được nét giận trên mặt, thẳng lưng trừng mắt mắng: “Hắn nếu là yêu tinh, vậy Cao tướng chính là yêu tinh của các yêu tinh! Hừ, nít ranh ngu ngốc, cánh còn chưa cứng đã muốn qua sông đoạn cầu vong ân phụ nghĩa, bây giờ bị Cao tướng trị tội, cũng là tự hắn chuốc lấy khổ.”
Đám hậu bối háu chiến tóc còn xanh lập tức bị dọa đến không dám mở miệng, vuốt vuốt mũi, vội vàng ỉu xìu tản đi.
Lời đồn bên ngoài loại gì cũng có, xôn xao ầm ĩ, thiên kì bách quái, Cố Minh Cử trong thiên lao lại không nghe được gì. Cao tướng đặc biệt dặn dò đám hạ nhân sắp xếp cho hắn một gian tù thất đơn độc, ở nơi sâu nhất trong thiên lao, phải đi qua một đoạn hành lang hẹp dài ngoằn nghèo mới có thể đến nơi. Khi đêm xuống, ngay cả tiếng kêu rên trong hình phòng cũng chỉ có thể loáng thoáng nghe được một chút.
Nghe nói trong lịch sử của bản triều, phàm là trọng thần phạm tội thì đều bị nhốt ở nơi này, trong đó thậm chí còn từng có mấy người là con cháu hoàng gia, thủ túc ruột rà của đế vương.
Lúc sau có tên cai ngục sơ ý lỡ lời đã nói rằng, thì ra không chỉ Cao tướng, cả Lâm Giang vương cũng sai người tới căn dặn, muốn bố trí cho Cố Minh Cử đến đây ở. Hai lão hồ ly hiện giờ đang tranh đấu hừng hực như lửa, lại hiếm thấy bọn họ có cùng suy nghĩ với nhau trong chuyện này. Cố Minh Cử nhịn không được ngồi trên manh chiếu bật cười ha hả. Nụ cười lại khẽ làm động tới vết thương trên người hắn, đau đến hít mạnh một hơi.
Kỳ thực nơi này bất quá chỉ là có chút yên tĩnh hơn mà thôi, không cần phải lo bị người khác khi dễ, cơm ba bữa luôn có người đưa tới đặt bên ngoài song gỗ, không cần phải lo có người tới tranh giành, ban đêm ngoại trừ tiếng kêu gào đau đớn mơ hồ truyền đến, cũng xem như ngủ được an ổn.
Ngoài những điều này ra, tựa hồ cũng không thấy tốt ở điểm nào. Sát chân tường có trải một manh chiếu rách, chính giữa buồng giam là một cái bàn vuông què chân, trên bàn có một trản đèn nhưng tiếc là không có bấc đèn. Không có ai tới nói chuyện cùng, không có ai để cãi cọ hay ân cần hỏi han, sau khi thụ hình lại một mình nằm trên mặt đất, nhẫn nhịn chịu đựng toàn thân hằn tím vết roi, cũng không ai có thể thay hắn đi xin một chén nước để uống.
Cố Minh Cử thường hay lặng im đối diện với cái bóng của mình trên tường đến xuất thần. Cai ngục đi tuần tra ngang qua, nhịn không được bèn bắt chuyện với hắn qua chấn song gỗ: “Lão tử làm việc ở nơi này đã hai mươi năm rồi, có hạng người nào mà chưa từng thấy qua, đừng nói ngươi một cái thị lang, thừa tướng tướng quân ta đây cũng nhìn thấy nhiều rồi, trước ngươi còn có một vị quốc cữu nữa đấy! Khóc, nháo, giả điên giả dại, đều có cả… Không khóc không nháo như ngươi, thì chính là đã cam chịu số phận, một lòng chờ chết rồi.”
Gã nói bằng giọng rất lớn, một chữ “chết” dội âm giữa bốn bức tường, không ngừng vang vọng. Cố Minh Cử không quay đầu lại, chỉ cúi đầu bật cười khe khẽ.
Lúc Ôn Nhã Thần đến thăm, Cố Minh Cử vẫn đang ngồi đối diện với bức tường. Hắn dùng ngón tay vuốt nhẹ vẩn vơ trên vách tường. Ôn Nhã Thần dựa vào ánh sáng mỏng manh yếu ớt trong căn ngục thất, nhìn thấy trên bức tường là một mảng vết khắc dày đặc. Dài ngắn không đồng đều, có nông có sâu, nhìn như không phải từ tay của cùng một người khắc nên, công cụ để khắc cũng chẳng hề giống nhau, có cái là dùng mẩu trúc nhọn, có cái là từ một đầu bút đã trụi lông, còn có cái lại chỉ bằng móng tay. Thì ra những lời đồn trong chốn quan trường đều là thật, bị cầm tù trong một gian ngục thất tĩnh lặng suốt bao năm tháng quả là một việc quá mức gian nan, chỉ có thể dựa vào những vết rạch nông nông này để ghi khắc mỗi ngày trời lặn trăng lên. Có người tỉ mỉ đếm từng ngày để chờ tới lúc được nhìn thấy ánh mặt trời một lần nữa, có người thì chỉ lẳng lặng đếm ngược cho tới thời hạn hành hình.
“Những vết nào ở trong này là do ngươi khắc?” Ôn Nhã Thần nghiêm mặt đứng bên ngoài nhà lao.
Nghe thấy tiếng, Cố Minh Cử liền xoay đầu lại, trên gương mặt mất hết huyết sắc chầm chậm nứt ra một nụ cười: “Ta còn tưởng ai, thì ra là Ôn thiếu gia.”
Thị lang trẻ tuổi phong thái trác nhiên ngày đó đã trở thành một tên tù phạm, Ôn thiếu gia ngọc thụ lâm phong lại vẫn như trước vận một thân cẩm bào, lỗi lạc phong lưu, cho dù đứng trong ngục sâu mịt mù tăm tối, cũng chỉ nhướn hai hàng lông mày, phong thái ưu nhã thong dong, tựa như lạc bước vào khuê phòng thơm ngát của một thiên kim tiểu thư nào đó.
Cố Minh Cử cười ha hả nói: “Ta còn tưởng ngươi đã say chết trên giường thêu của vị hoa khôi nào rồi chứ.”
Khẩu khí của Ôn Nhã Thần đứng cách một tấm song gỗ quả nhiên trở nên trầm trọng: “Vì sao?”
Từ trước khi xuất kinh đã bị hắn tra hỏi rất nhiều lần. Vì sao phản bội Cao tướng? Vì sao đi nương nhờ Lâm Giang vương? Vì sao không nỗ lực đấu tranh để xoay chuyển tình thế? Vì sao lại tới Nam An?
Bị hắn hỏi nhiều tới mức lỗ tai sắp chai cả lại, tới khi mất kiên nhẫn liền gập ngón trỏ gõ mạnh lên ót hắn: “Chuyện của đại nhân, tiểu hài tử đừng quản vào.”
Kỳ thực, Ôn Nhã Thần bất quá cũng chỉ nhỏ hơn hắn hai tuổi.
Lúc ấy lấp liếʍ qua loa còn được, hiện tại không thể tiếp tục lừa gạt hắn nữa, Cố Minh Cử biết, hôm nay nếu không cấp cho vị công tử đẹp mã của nhà tướng quân gia một lời giải thích rõ ràng, Ôn thiếu gia tính tình cường ngạnh nóng nảy có khả năng sẽ ở lại nơi này cho tới khi mình bị lôi ra ngọ môn xử trảm mới thôi. Vị thiếu gia ấy sẽ chẳng quan tâm tới bộ cẩm y xa hoa mà hắn đang mặc trên người đâu.
“Đi theo Cao tướng, ta vĩnh viễn không thể trở thành một Cao tướng thứ hai.” Cố Minh Cử hiện giờ ngồi trên mặt chiếu đã chẳng còn gì trong tay, lại càng không cần quan tâm đến việc có tai vách mạch rừng đang chờ để nắm lấy nhược điểm của mình hay không, “Cố Minh Cử ta nửa đời tranh đấu không phải chỉ để làm một tứ phẩm thị lang.”
Trên trường danh lợi không có cái gọi là hài lòng. Đạt được nhiều bao nhiêu cũng không cảm thấy là quá nhiều, làm quan lớn bao nhiêu cũng không ngại làm tới chức lớn hơn nữa. Con đường làm quan, tựa như lội ngược dòng nước, không tiến tất lùi.
Kể từ ngày đó, khi hắn dốc hết toàn lực, đem tính mệnh của bản thân và gia đình đều đổ vào một pho tượng phật Di Lặc bằng vàng, con đường làm quan đối với hắn mà nói đã là không còn đường lui, cũng không cho phép mình dừng lại.
“Đến khi nào ngươi mới có thể tự giữ lại cho mình một chút đường sống?” Nét mặt của Ôn Nhã Thần vẫn trước sau như một mang vẻ khinh thường.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình phú quý, hắn vĩnh viễn sẽ không hiểu được đói khát là một loại tra tấn giày vò như thế nào, cũng sẽ không biết rằng, thứ quyền lực mà hắn nhìn chỉ như một chiếc giày rách, ở trong đôi mắt thiết tha của dân đen lại có một loại dụ hoặc mãnh liệt ra sao.
Đôi mắt Cố Minh Cử mang theo ý cười, con ngươi đen thẫm ánh lên hỏa quang của ngọn nến nơi góc tường, lập lòe mấy phần sắc thái mỹ lệ: “Theo đuổi phú quý là con đường nguy hiểm
(1). Từ trước tới giờ, đã có khi nào ta không phải nhặt hạt dẻ từ trong lò lửa?”
Khẩu khí của hắn vẫn mang mấy phần dương dương tự đắc. Ôn Nhã Thần nghe vậy chỉ cảm thấy bất đắc dĩ: “Tâm cầu danh lợi của ngươi nếu có thể ít đi một phần, có lẽ đã không lưu lạc tới bước đường ngày hôm nay.”
“Tâm cầu danh lợi mà ít đi, Cố Minh Cử đã không phải là Cố Minh Cử.” Mình là hạng người gì, chính mình luôn rõ ràng nhất. Cố Minh Cử buồn cười mà lắc đầu, giễu cợt sự khờ dại của Ôn Nhã Thần.
Ôn Nhã Thần nhìn không được chỉ đành xoay mặt đi: “Lâm Giang vương có thể cho ngươi cái gì?”
“Vị trí thừa tướng.” Cái này Cao tướng không cho được, lão hồ ly coi trọng hắn, gần như cái gì cũng có thể cho hắn, nhưng lão hồ ly trăm triệu lần không thể ngờ tới, cánh tay phải đắc lực do chính mình dốc sức tài bồi suýt chút nữa đã đem mình ẩn xuống hố sâu.
Ôn Nhã Thần hừ một tiếng, khinh thường tâm hám lợi đến mê muội của hắn: “Không túm được thóp của lão hồ ly, chính ngươi lại sắp bị lão gϊếŧ chết rồi.”
Cao tướng từ trước tới giờ đều chưa từng thủ hạ lưu tình với kẻ dám hai lòng, lần này nếu không nhờ có Lâm Giang vương ngăn cản, Cố Minh Cử đã sớm bị xử tử ngay tại chỗ từ khi còn ở Nam An.
Hắn lại hoàn toàn chẳng thèm bận tâm, thao thao bất tuyệt kể về ước mơ của mình khi đó: “Thứ mà Lâm Giang vương khắc khoải trong lòng, đơn giản chỉ là dựa vào những chuyện cũ năm xưa của Cao tướng mà ta biết được để tóm gọn lão trong tay. Như vậy, Chương hoàng tử liền có hi vọng ngồi lên bảo tọa, hắn lại lấy danh nghĩa thúc phụ
(chú ruột)
để nhϊếp chính, một khi đã nắm hết quyền hành trong tay, cho dù không phải vị trí đế vương, nhưng cũng đủ để ngồi ôm đế vương chi bảo. Đến lúc đó, tân đế tuổi còn nhỏ không đủ lực, hắn lại thực hiện soán ngôi cũng không phải việc gì quá khó khăn. Sau khi chuyện thành, luận công lĩnh thưởng, ta cũng có thể một bước lên mây.”
“Trên triều đình từ trước tới giờ đều chưa từng có tình nghĩa. Đồng liêu, thầy trò, huynh đệ, thủ túc, phụ tử… ân tình dẫu có nặng như sơn sâu tựa biển hơn nữa cũng có thể trong một buổi chiều đã trở mặt thành thù, chỉ có hai chữ ‘lợi ích’ là mãi mãi không thay đổi.”
Những lời giống như vậy hắn cũng từng nói cho Nghiêm Phượng Lâu nghe, rước tới vẻ mặt không vui của người nọ. Y hỏi ngược lại hắn:
“Vậy giữa ta và ngươi thì là thế nào? Cũng không có tình cảm gì đáng nói?”
Ngôn từ bắt bẻ sắc bén khiến cho Cố Minh Cử phải nghẹn lời.
Nghĩ tới Nghiêm Phượng Lâu, khóe miệng không khỏi lại cong lên càng nhiều, một tấm chiếu rách cũng có thể trở thành bậc thềm triều đình của hắn. Cố Minh Cử cười mỉm nhìn về phía Ôn Nhã Thần đang mang sắc mặt khó coi: “Nhưng đến hôm nay ta đã phát hiện, phú quý quyền thế hóa ra cũng chẳng là gì cả, sống chết trước mắt, cái gì cũng chỉ còn là hư không, chỉ có người nọ trong lòng là chân thật.”
“Bởi vậy ngay cả tính mạng ngươi cũng chẳng thèm quan tâm, nhất quyết muốn tới Nam An?”
Cố Minh Cử duy trì nụ cười, không đáp lời nào.
Ôn Nhã Thần lặp lại một lần nữa: “Chỉ để được nhìn thấy Nghiêm Phượng Lâu kia một lần?”
“Nếu ta nói phải thì sao?” Hắn nhìn thẳng vào Ôn Nhã Thần, hỏi ngược lại.
Ôn Nhã Thần vô cùng kinh ngạc: “Ngươi rõ ràng có đủ thời gian để chạy khỏi kinh thành, chờ thời cơ rồi lại đông sơn tái khởi
(2).”
Trong thiên lao hôn ám, Cố Minh Cử xoay lưng về, lại chầm chậm đứng trước bức tường đầy những dấu khắc kia: “Đông sơn tái khởi thì thế nào? Chẳng qua cũng lại là một hồi đặt điều nịnh bợ, ngươi lừa ta gạt nữa mà thôi. Những thứ ấy, ta còn chơi chưa đủ hay sao?”
Cai ngục nói, những người từng ở trong căn phòng giam này, cuối cùng vì già mà chết có rất ít, lại rất nhiều người sau khi rời khỏi nơi đây liền trực tiếp đi thẳng tới pháp trường, đầu và thân cách biệt thì thôi chưa nói, càng thê lương hơn chính là ngay cả một người tới nhặt xác cũng không có, một khối thịt nát máu chảy đầm đìa trên mặt đất đều bị dã cẩu tha đi.
Đó chính là báo ứng, chốn quan trường đông nghìn nghịt, cũng như nước sông Hoàng Hà cuồn cuộn chảy xoáy không ngừng, sóng đυ.c thao thiên. Một khi đã đặt chân vào, không ai còn có thể sạch sẽ kiền tịnh. Bị hút vào càng sâu thì càng bẩn, càng lâu thì càng không thể tẩy sạch. Bên dưới long ỷ rực rỡ chói lòa kia là bao nhiêu xương trắng hẩm hiu, đằng sau những bá quan đứng trên thềm điện sơn son đỏ chót kia lại là bao nhiêu sông sâu máu chảy.
Trong những tranh giành đấu đá, không ai chỉ dựa vào một phần vận khí tốt là có thể đứng trên cung vàng điện ngọc, càng không ai có thể dựa vào một thân quyền khuynh triều đình thanh bạch vô trùng để mà che gió cản mưa.
Dân gian có câu tục ngữ: Không phải không báo, chỉ là thời cơ chưa đến.
Lúc Ôn Nhã Thần rời đi, Cố Minh Cử vẫn không quay đầu lại nhìn. Một tia nắng mặt trời len qua khe tường chiếu vào trong ngục thất, hắn khoanh tay đứng nghênh đón tia sáng nọ, nói: “Khi ta biết mọi chuyện đã hỏng, người đầu tiên hiện lên trong lòng ta chính là Nghiêm Phượng Lâu. Đến lúc ấy ta mới biết, thì ra mình vẫn chưa từng quên hắn.”
Cái gì cũng đã quên, cần mẫn vì cầu quan chức, vì tính mạng vì tiền bạc, vì giàu sang vì phú quý, dã tâm bừng bừng đã từng tràn đầy, trong khoảnh khắc đều tan thành mây khói. Khi chân chính đặt một bước lên con đường dẫn tới hoàng tuyền, đầu cầu Nại Hà, đứng trước Mạnh Bà thang, cái gì ta cũng không cần nữa, chỉ cần một mình ngươi, Nghiêm Phượng Lâu, Phượng khanh của ta, ta chỉ cần ngươi ngoảnh đầu lại nhìn ta một lần là có thể hài lòng thỏa dạ rồi, không còn vướng bận gì nữa, dẫu cho chỉ là một cái liếc mắt ngoảnh đầu.
***
Luôn có người nói, năm tháng trong ngục dài đằng đẵng, ngồi nhẩm đếm cọng rơm dưới gối cứ ngỡ rằng đã qua đủ một ngày, kỳ thực khó khăn lắm mới chỉ qua một khắc. Cố Minh Cử lại cảm thấy thời gian lướt qua cực nhanh, hồi tưởng lại nụ cười của Nghiêm Phượng Lâu trong lần đầu gặp mặt, nụ cười vừa gượng gạo vừa có chút ngượng ngùng, chỉ trong nháy mắt đã lại là một ngày trời lặn trăng lên.
Suốt năm năm qua, đây là khoảng thời gian thanh tĩnh nhất mà hắn được trải qua trong kinh thành. Ngoại trừ Ôn Nhã Thần, không thấy một ai ngoài dự đoán tới thăm. Về sau mới biết, Cao tướng đã âm thầm hạ mật lệnh, phàm là người tới thăm Cố Minh Cử thì đều cự tuyệt. Lão sợ Cố Minh Cử gần chết lại làm rò rỉ ra những chuyện không nên nói. Cố Minh Cử còn sống một ngày, lão hồ ly đã thận trọng hơn nửa đời người liền phải trằn trọc bất an thêm một đêm. Bởi vậy, trong những ngày sau đó, ngay cả Ôn Nhã Thần cũng không thể vào thăm.
Cai ngục nói chuyện với Cố Minh Cử vài lần đã nhắc nhở hắn: “Đại nhân, qua ba ngày nữa e là phải tới thời hạn hành hình rồi.”
Gã đã ở quen trong thế giới không thấy ánh mặt trời, nhìn quen những bi hoan sinh tử của nhân thế, có người nhạc cực sinh bi
(vui quá hóa buồn), cũng có không ít kẻ bị dồn đến bước đường cùng, sau khi ra khỏi phiến đại môn của thiên lao liền quân lâm thiên hạ cũng có. Gã dùng một loại ngữ khí thấu suốt thói đời để nói chuyện với Cố Minh Cử, chỉ cần đầu mình còn vững yên trên cần cổ, những chuyện sau đó đều chưa thể biết chắc được.
Bởi vậy gã vẫn tuân theo quy tắc trên chốn quan trường, gọi Cố Minh Cử là đại nhân, đôi khi còn nheo con mắt đùng đυ.c mà thờ ơ nói giỡn: “Nếu tương lai ngài có hi vọng được trùng hưng thanh thế một lần nữa, cũng đừng quên ta nha.”
Khiến cho Cố Minh Cử mới bị đánh đến da tróc thịt bong cũng phải vừa đau đớn hút khí vừa bật cười.
Cố Minh Cử dùng giọng điệu bình tĩnh hỏi gã: “Cũng không biết đến lúc đó là vị đại gia nào hành hình cho ta? Ta nên đút lót cho hắn mới được, chớ để thời khắc hạ đao hắn lại nhũn tay, khiến ta gần chết còn phải chịu một phen đau khổ.”
Cai ngục vẻ mặt tang thương đút tay trong áo, đứng bên ngoài phòng giam cười khà khà: “Sao có thể như vậy? Bọn họ sẽ giơ tay chém xuống rất dứt khoát, không khiến ngài phải đau dù chỉ nửa điểm. Bọn họ đều là những tay lão luyện đã làm việc này suốt hai mươi, ba mươi năm, có nhắm mắt cũng không làm sai chút nào đâu, vô cùng thuần thục.”
Gã nói những chuyện kỳ dị mắt thấy tai nghe trên pháp trường chỉ như khách quen đang đàm luận về các hoa nương trong thanh lâu, dùng ngữ điệu nhẹ nhàng mang theo cả ý cười, cất lời rồi liền thao thao bất tuyệt mãi không dứt, ai rơi đầu xuống còn chết không chịu nhắm mắt, ai chưa lên tới pháp trường mà tay chân đã xuội lơ, mặt mũi xám ngoét như màu đất, mọi người đều nói hắn chết rồi, kỳ thực vẫn còn sống, bị đẩy lên đoạn đầu đài là một người khác.
Thần sắc Cố Minh Cử từ đầu đến cuối vẫn tự nhiên như thường, yên lặng lắng nghe, chưa từng liên tưởng tới chính mình của ba ngày sau dù chỉ nửa điểm. Cũng là gã cai ngục kia nhịn không được mà thu hồi câu chuyện, dè dặt hỏi hắn: “Đại nhân, ngài còn điều gì muốn nói không? Hay là, ngài có muốn lưu lại thứ gì không, để ta giúp ngài đem ra ngoài?”
Cố Minh Cử suy nghĩ một lát, cuối cùng lắc đầu: “Những việc ta muốn nói muốn làm đều đã nói và làm cả rồi.”
“Cái gì cũng không lưu lại sao?”
“Ta lưu lại thứ gì, đối với hắn mà nói, đều chỉ là tai họa.”
“Chí ít cũng để lại cho hắn một ý niệm, người chết như ngọn nến sắp tắt, mới đầu có thể sẽ khiến người ta khóc đến chết đi sống lại, chưa được mấy ngày đã lại xoay người tái giá, ta cũng từng thấy không ít.” Thứ khó nhìn ra được nhất trên thế gian này chính là hai chữ “hiện thực”. Một đời thâm tình đổi không được một bát cháo nhạt.
“Sẽ không.” Cũng không biết bên ngoài đang là ban ngày hay ban đêm, Cố Minh Cử cảm thấy mình thật mệt mỏi, vì thế liền nằm xuống nhắm mắt lại, “Hắn không quên được ta. Hắn sẽ nhớ ta cả đời.”
Tiếng vọng còn chưa dứt, lại nghe thấy hắn đối mặt với bức tường đá thì thầm tự nói: “Ta lại thực sự hi vọng hắn có thể quên ta, ta chết bất quá là xong hết mọi chuyện, hắn tâm tâm niệm niệm ghi nhớ mới là tột cùng thống khổ.”
Cố Minh Cử hít sâu một hơi, nói: “Ta sẽ không yên lòng.”
Sau khi nhắm mắt lại, lúc nào hắn cũng nhớ tới Nghiêm Phượng Lâu.
Nghiêm Phượng Lâu trong huyễn tưởng của hắn dường như béo hơn một chút so với hồi gặp ở Nam An, tinh thần cũng rất tốt, sắc mặt hồng nhuận, khóe mắt hàm cười, hễ nhớ đến là ban đêm sẽ không còn khổ sở trằn trọc. Đó hẳn sẽ là chuyện của ba năm về sau, gian thần Cố Minh Cử đã chết, mọi người đều không còn nhớ vị Cố thị lang từng quyền uy một thời là hắn, đoán chừng nếu có người hỏi thì sẽ ngừng lại suy nghĩ trong chốc lát, rồi mới bừng tỉnh đại ngộ mà rằng: “A, là tên cẩu quan năm đó. Phi, chết chưa hết tội! Cũng không biết đã bị hắn vơ vét bao nhiêu mồ hôi nước mắt của nhân dân.”
Nghiêm Phượng Lâu khi đó chắc hẳn đã thành thân, Phiêu Tuyết sinh cho y một đứa nhóc mập mạp. Sinh con gái cũng tốt, theo diện mạo của hai người bọn họ mà nói, nhất định sẽ là một mỹ nhân từ trong phôi thai.
Một nhà ba người, nghiêm phụ từ mẫu, kiếm một buổi chiều ngồi uống trà dưới giàn hoa trong đình viện, cảnh sắc tươi đẹp và làn gió nhẹ thổi hiu hiu, niệm mấy khổ thơ, đàn vài khúc nhạc, tiếng cười của hài tử vang vọng trời thu, Nghiêm Phượng Lâu khom người gài một nhánh hoa rung rinh lên tóc Phiêu Tuyết. Cầm sắt hòa hợp, kiêm điệp tình thâm, không gian ấm áp. Không còn điều gì viên mãn hơn vậy, cũng không còn điều gì khiến hắn an tâm chìm vào giấc ngủ như thế.
Khóe mắt bất giác ẩm ướt, hình phạt khắc nghiệt ở ngay trước mắt cũng chưa từng khiến hắn phải rơi lệ. Khóe môi lại vẫn không ngừng được mà khẽ giương lên, cong cong tựa như có thể kéo dài tới tận chân mày.
Bên ngoài tường lao, sao sáng giăng đầy trời, bên trong tường lao, là một đêm mộng đẹp.
***
Ba ngày sau —
Mùa đông năm Thiên Hữu thứ hai mươi lăm, lá vàng rụng hết, cả thành tiêu điều xác xơ.
Cố Minh Cử tỉnh dậy từ rất sớm, ngọn nến trên vách tường đã cháy hết, mơ hồ chiếu ra một bóng ảnh vặn vẹo trên bức tường đá đen thui. Cai ngục có lòng, đặc biệt múc tới cho hắn một chậu nước lạnh: “Người đến pháp trường xem náo nhiệt rất nhiều, chỉnh sửa lại một chút cho gọn gàng vẫn tốt hơn.” Áo tù cũng là áo mới, trắng noãn như tuyết, phía trên còn có thể nhìn thấy rõ từng nếp gấp. Cố Minh Cử thấm nước bó lại những lọn tóc tán loạn, cúi đầu quan sát chính mình: “Sắp đuổi kịp dáng vẻ lần đầu tiên ta mặc quan phục rồi.”
Gã cai ngục bên ngoài chấn song nhịn không được bật cười: “Đợi lát nữa còn có rượu đưa tới, bữa ăn cuối cùng luôn luôn là tốt nhất, ngài đừng bạc đãi chính mình. Chờ thánh chỉ tới là lập tức phải lên đường rồi.”
Cố Minh Cử ngồi trên manh chiếu lẳng lặng gật đầu: “Những việc này, lúc còn ở bên ngoài ta cũng từng được nghe người ta nói qua.”
Cai ngục ngập ngừng nói: “Cận kề cái chết mà vẫn có thể như ngài thế này, ta cũng chưa thấy nhiều lắm.”
Sắc trời hẳn là đã sáng rõ, xuyên qua khe tường có thể nhìn thấy ánh sáng xanh xao bên ngoài.
Dùng bàn tay vuốt vuốt lên nếp áo trên người một lần nữa, Cố Minh Cử kỳ quái cảm thấy dường như mình lại quay trở về thời điểm đứng bên ngoài trường thi năm ấy, chen chúc trong đám thí sinh hùng tâm vạn trượng, không nhìn được nửa điểm điềm báo về tương lai mịt mờ, nỗi lo sợ và căng thẳng trong dự đoán lại hoàn toàn không thấy, nội tâm như dòng nước ngừng chảy.
An bình không thấy một tia sóng gợn.
Điều bất đồng duy nhất của lúc này so với lúc ấy, chỉ là bên người thiếu đi một Nghiêm Phượng Lâu mà thôi.
Khi ấy, Nghiêm Phượng Lâu vẫn luôn trấn định thong dong lại trở nên khá căng thẳng, bàn tay nắm lại thật chặt, lòng bàn tay sắp bị móng tay đâm tới rách da. Cố Minh Cử không thể nhìn y tự làm tổn thương mình, trong đám người mênh mông liền kiên quyết nắm lấy tay y.
Là bạn đồng môn đã lâu như vậy, tay trong tay sớm đã không phải lần một lần hai, nhưng chỉ có lần này lại cảm thấy vô cùng kinh hãi, đầu ngón tay xoa lên đầu ngón tay, tê dại hệt như bị sấm sét đánh trúng, trái tim như ao tù nước đọng lập tức bị khuấy đến cuộn trào mãnh liệt, tiếng tim đập “thình thịch thình thịch” vang dội tựa như không phải của chính mình.
Sau khi bước vào trường thi liền buông tay nhau ra, trên mu bàn tay của hai người đều là những dấu vết đỏ hồng hình trăng khuyết, không biết là do ai nắm quá chặt, cũng không biết rốt cuộc là ai cào ai.
Vừa hồi tưởng vừa lẳng lặng đợi chờ, suốt cả đời này, đã quen chủ động đi tranh giành cướp đoạt mọi thứ, duy chỉ có một chữ “chết”, lại phải dựa vào việc đợi chờ, thật là mỉa mai biết bao. Cố Minh Cử lặng yên suy nghĩ, thời khắc đầu mình rơi xuống đất, nếu mọi người nhìn thấy thân ảnh Nghiêm Phượng Lâu từ trong đôi mắt còn chưa khép chặt của hắn, liệu có cảm thấy kinh ngạc khó hiểu hay không? Bởi lẽ bóng hình này gần như đã khắc ghi vào trong đôi mắt của hắn mất rồi.
Từ lúc mặt trời lên cho tới khi ánh trăng thay thế, thánh chỉ vẫn chậm chạp chưa thấy đến.
Gã cai ngục ở bên ngoài phòng giam thì thầm nói nhỏ: “Đại nhân, e là ngài sắp tuyệt xử phùng sinh
(3)
rồi.”
Cố Minh Cử không đáp lời, chỉ ngồi phía trước bức tường lẳng lặng dùng ngón tay miết nhẹ lên những dấu khắc loang lổ, có lẽ bởi ánh sáng trong phòng giam quá mức mờ mịt, trên gương mặt đã được sơ tẩy sạch sẽ lại thấy sinh ra mấy phần lành lạnh.
Đến khi lên đèn, trong hành lang sâu hun hút truyền tới tiếng bước chân gấp gáp từ xa đến gần, sau đó âm thanh dừng khựng lại sau lưng Cố Minh Cử.
Sống lưng Cố Minh Cử bất chợt trở nên cứng đờ.
Người phía sau mở miệng nói, trong âm giọng còn mang theo tiếng thở dốc rõ rệt, hiển nhiên đã chạy tới đây rất vội vàng: “Thời hạn thi hành án của ngươi được trì hoãn rồi.”
Cố Minh Cử vẫn cứng đờ, tựa như bị hàn ý tập kích đến đông lạnh, chỉ có đầu ngón tay tiếp xúc với vách tường đá là khẽ run rẩy.
“Bệ hạ đại xá thiên hạ, trong ngục phàm là người mang hình phạt thì đều giảm xuống một bậc. Tội thần Cố Minh Cử khi quân võng thượng, tội ác tày trời, không gϊếŧ ắt không đủ để lập uy nghiêm của ngô hoàng, không thành tấm gương răn đe cho bá quan văn võ, xử tiếp tục giam giữ trong thiên lao, lựa ngày tái trảm.”
Người tới đưa tin nói bằng giọng rất hùng hồn mạnh mẽ, từng chữ từng câu nện lên vách tường cứng rắn, vang dội từng hồi vọng âm, “Câu phía sau là ý của Cao tướng.”
Vẫn không thấy Cố Minh Cử có động thái gì, người nọ thở dài một hơi: “Ngươi không hỏi vì sao ư?”
Ngón tay như dính cứng trên mặt tường cuối cùng cũng vô lực trượt xuống, Cố Minh Cử thuận theo ngữ khí của hắn mà thấp giọng hỏi: “Vì sao?”
“Nghiêm Phượng Lâu vào kinh rồi.”
Chỉ là sáu chữ vô cùng đơn giản, lọt vào trong tai lại như sấm dậy trời quang.
Hắn bất ngờ đứng bật dậy, xoay người phi tới trước chấn song nhanh như gió, hai tay dùng sức bấu chặt lên song gỗ thô to, đôi mắt Cố Minh Cử trợn lớn như trống đồng, trong thoáng chốc con ngươi tựa hồ sắp rỉ ra máu: “Ngươi nói cái gì? Lặp lại lần nữa.”
“Nhìn dáng vẻ này của ngươi hiện tại mới có chút giống với bộ dáng của tử tù.” Người đến chính là Ôn Nhã Thần, Ôn thiếu gia yếu lòng không làm ra được nụ cười xấu xa khi thấy người gặp họa, chỉ thở dài một tiếng, hắn nhìn nét mặt vặn vẹo của Cố Minh Cử, lặp lại bằng ngữ điệu trịnh trọng, “Nghiêm Phượng Lâu sắp vào kinh rồi, hôm nay thánh chỉ vừa mới hạ, cùng một lúc với thánh chỉ đại xá.”
Mùa đông năm Thiên Hữu thứ hai mươi lăm, hoàng đế lâm trọng bệnh, các ngự y đều bó tay, nguy cấp khôn cùng. Trận đại tuyết đầu tiên của mùa đông, Nam An huyện của Thanh Châu thành đột nhiên có hà quang vạn trượng
(ánh sáng cao muôn trượng), thần thú kỳ lân rượt tuyết mà tới, đến thư viện Nam An rống dài ba tiếng, rồi lại đằng vân rời đi. Những người chứng kiến đều ồn ào xôn xao, chắp tay dập đầu lễ bái, sau đó người ta nhặt được từ trong lớp tuyết một tấm vảy giáp bảy màu, phi kim phi ngân, cứng rắn mạc danh.
Linh đế đại hỉ, cho rằng đó là điềm lành, lập tức ban lệnh đại xá thiên hạ để tạ ơn trời xanh. Đồng thời, huyện thừa Nam An Nghiêm Phượng Lâu có công hiến bảo, lại thêm thái độ làm người cương trực, thanh liêm không siểm nịnh, có thể lấy làm gương tốt cho bá quan trong triều, thăng chức lên làm lục phẩm thị ngự sử, ngay lập tức tiến kinh, không được chậm trễ.
Bàn tay nắm lấy chấn song chầm chậm rơi xuống, trên song gỗ bóng mỡ bị vạch rõ mấy đạo vết tích dài mảnh. Sắc mặt Cố Minh Cử cũng chầm chậm xìu xuống.
“Ta biết.” Khẽ giọng thì thầm, Cố Minh Cử từng bước trở về bên bức tường chằng chịt vết khắc, vầng trán đặt mạnh lên bức tường đá lạnh lẽo, nam nhân từ khi đặt chân vào ngục cho tới bây giờ vẫn luôn vân đạm phong khinh nhìn thấu sinh tử, lúc này lại đau đớn kịch liệt nhắm chặt đôi mắt, khớp hàm đan cài, hận không thể dùng vết máu trên môi gϊếŧ chết tất cả, “Nghiêm Phượng Lâu, cho tới bây giờ ngươi vẫn chưa từng nói thích ta. Nghiêm Phượng Lâu, ngươi rõ ràng từng nói, ngươi không thích ta!”
Không lâu trước ở Nam An, bầu trời còn xanh thăm thẳm, mây trắng vẫn lững lờ trôi.
Ta nắm tay ngươi dặn dò từng chữ:
“Bất kể có chuyện gì xảy ra, không được nghe ngóng, không được tham dự, càng không được làm chuyện điên rồ. Chỉ cần vui vẻ làm chức huyện thừa của ngươi, xem như… xem như chưa từng quen biết Cố Minh Cử.”
Ngươi đã gật đầu, ngươi đã đồng ý.
Ta nghe lời thề son sắt của ngươi nói với ta:
“Ta biết.”
Ta nhìn dáng vẻ nhíu mày bĩu môi đầy khinh thường của ngươi:
“Ta có thể làm gì được chứ? Một khi ngươi đặt chân ra khỏi Nam An nửa bước, ta liền xem như ngươi đã chết.”
Là ngươi nói! Chính là ngươi nói! Từng câu từng chữ đều là ngươi nói!
Vậy một màn hiến bảo khôi hài này lại tính là gì đây?
Trên đời này làm gì có kỳ lân tới, lại càng kiếm đâu ra điềm lành? Mấy thứ điềm lành vân vân đều là do Nghiêm Phượng Lâu ngươi hồ ngôn xảo ngữ lừa gạt quân vương! Khi quân võng thượng
(lừa gạt vua)
là tử tội, lập tức chém đầu tuyệt đối không tha, có bầm thây vạn đoạn cũng là đúng người đúng tội.
“Ngươi cái này gọi là không nghe ngóng? Ngươi cái này gọi là không tham gia? Ngươi cái này gọi là không làm chuyện điên rồ?” Từng câu là từng quyền nện lên bức tường cứng rắn, những lời Cố Minh Cử nói đã trở nên nghẹn ngào, “Nghiêm Phượng Lâu, ngươi làm thế này là muốn để ta chết không được nhắm mắt!”
Hắn chưa khóc, chỉ đối diện với bức tường không ngừng mắng chửi không ngừng chất vấn, càng về sau những lời quàng xiên càng trở nên mơ hồ, căn bản không thể nghe rõ hắn đang nói những gì, chỉ nghe thấy tiếng hắn lặp đi lặp lại, Nghiêm Phượng Lâu, Nghiêm Phượng Lâu, Nghiêm Phượng Lâu… Phượng khanh của ta.
Cảm thấy trên mặt có điểm khác thường, Ôn Nhã Thần đưa tay sờ thử, bất ngờ chạm tới một dòng lạnh băng.
__Hết chương 10__
*Chú thích:
(1) nguyên văn là “phú quý hiểm trung cầu”: dưới tình huống được phán đoán đầy đủ, lợi dụng sự ngụy trang để mạo hiểm giành lấy kết quả không ngờ, phần nhiều dựa vào thủ đoạn ẩn náu và tính cách liều lĩnh dám mạo hiểm để gặt hái được kết quả.
(2) Đông Sơn tái khởi: ở đây có nghĩa là tạm thời lui về ở ẩn, sau này có thời cơ sẽ quay lại trùng hưng thanh thế lớn mạnh hơn trước.
(3) tuyệt xử phùng sinh: dùng để hình dung tình huống khi đã tới bước đường cùng lại tìm được một tia hi vọng và lối thoát.