Phá Quán Tử Phá Suất

Quyển 5 - Chương 68: Trường an trọng ngộ

Trận chiến Lạc Dương báo tin thắng lợi, trên đường dời đô, Tào Phi bị chém chết tại chỗ.

Lão thần Đại Ngụy đều đã chết, thái tử Tào Duệ chỉ mới có chín tuổi, dù Tư Mã Ý có lá gan lớn bằng trời cũng chẳng dám tới Hứa Xương nữa, chỉ bằng vào hai hạng tội danh hộ chủ bất lực, lâm trận đào thoát là cũng đủ để hắn bị loạn tiễn bắn thành con nhím ở ngoài thành môn Hứa Xương rồi.

Sau khi cân nhắc thiệt hơn, Tư Mã Ý vòng qua Hứa Xương, cuống cuồng chạy tới Kiến Nghiệp nương nhờ Tôn Quyền.

Trong thành Trường An chỉ còn Bàng Thống trấn giữ, từ sau khi đại quân xuất phát, Vĩnh Lạc cung liền trở nên vắng vẻ, lúc này A Đẩu về tới Trường An, cư nhiên có cảm giác như được trở về “Nhà”.

Hắn men theo hành lang dài một mạch tiến cung, dọc đường hầu như chẳng gặp bao nhiêu người, nghĩ có lẽ đều đang thu thập hành trang, chuẩn bị khởi hành tới Lạc Dương rồi.

Rốt cuộc Lữ Phụng Tiên đã uống nhầm thuốc gì, mà lại khăng khăng chạy một hơi tới nơi này? A Đẩu nhíu mày đuổi tới Phượng Nghi đình, thấy trong đình nọ có hai người đang ngồi.

Lưu Thăng và Tinh Thải sóng vai ngồi trên lan can, đưa lưng về phía mình, Lưu Thăng kéo bàn tay nhỏ nhắn của Tinh Thải, một tay ôm lấy eo nàng, thấp giọng nhỏ nhẹ nói gì đó.

Gian phu *** phụ, củi khô bốc lửa.

Trên cây cột đình ở hai bên trái phải cạnh bọn họ, có khắc đại tự mạ vàng rồng bay phượng múa do Triệu Vân tự tay đề: trái là “Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số”; phải là “Lưỡng tình nhược thị cửu trường thì, hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ”

[*Tương phùng trong ngày gió thu sương mờ, vẫn hơn hẳn bao nhiêu mối tình trần tục

Nếu chân tình này đã là vĩnh cửu, thì cần gì sớm sớm chiều chiều gặp nhau]

Nhìn thấy cảnh tượng này, A Đẩu chợt cảm thấy khôi hài nói không nên lời.

“Ca!”A Đẩu mỉm cười gọi: “Lữ Bố có trở về không? Ta thấy Xích thố ở trong chuồng ngựa phía sau cung”

Lưu Thăng cũng không quay đầu lại, đáp: “Ôn hầu chẳng phải đang ở trong gian phòng của ngươi sao? Đệ, hôm nay ngươi dậy sớm…”

Lưu Thăng nói được phân nửa thì tịt, nháy mắt đứng bật dậy, Trương Tinh Thải thét lên một tiếng, quay lại nhìn Lưu Thiện như gặp phải quỷ, không ngừng lùi ra phía sau.

Sắc mặt Lưu Thăng tức khắc trắng bệch, vài bước lao xuống Phượng Nghi đình, quỳ thẳng tắp trước mặt A Đẩu, run rẩy nói không nên lời.

Tinh Thải sợ tới mức khóc òa lên.

“Đứng dậy đứng dậy_____” A Đẩu không kiên nhẫn nói: “Biết từ lâu rồi, ngươi làm gì thế, đứng dậy!”

Tuy bảo rằng chuyện Lưu Thăng và Tinh Thải qua lại thân mật đã sớm lan truyền trong triều đình Thục Hán, nhưng bị đương triều thái tử bắt ngay tại trận, dẫu sao vẫn là lần đầu, trước kia dù chỉ xem nó là tin nhảm, vẫn có cách phân bua, nhưng nay ở ngay trước mặt A Đẩu thì chẳng còn thanh minh ngã nào được nữa.

A Đẩu kéo Lưu Thăng dậy, gọi: “Muội tử, qua đây”

Trương Tinh Thải lê hoa đái vũ, đứng sau cây cột, A Đẩu tức giận nói: “Trẫm lệnh ngươi qua đây!”

Lưu Thăng bị dọa sợ đến độ quỳ xuống lần nữa.

A Đẩu vừa bực mình vừa buồn cười, đợi Trương Tinh Thải tới rồi, mới bảo hai người đứng im, đánh giá Tinh Thải.

Cánh tay phấn nộn của Tinh Thải đầy dấu bầm tím, không biết bị ai nhéo mà thành, trên mặt dường như hứng phải một bạt tai, còn lưu lại dấu ngón tay nhàn nhạt.

A Đẩu nghi hoặc hỏi: “Ai đánh ngươi vậy?”

Tinh Thải chỉ khóc, không dám đáp lời.

A Đẩu ngẫm nghĩ, rồi kéo tay Lưu Thăng, thành khẩn nói: “Hết thảy chuyện tình yêu trên đời này mà không lấy kết hôn làm mục đích…thì đều là đùa bỡn lưu manh. Ca, Tinh Thải giao cho ngươi, sau này phải chiếu cố tẩu tử cho thật tốt, không được đánh nàng”

Nói xong bèn xoay người rời đi, bỏ lại Lưu Thăng và Tinh Thải hai mặt nhìn nhau, đứng trong ngự hoa viên, hai chân không ngừng phát run, không biết lời A Đẩu là đang thăm dò hay là nói thật.

A Đẩu đi tới cuối hành lang, lại xoay người qua, sờ sờ mũi nói: “Khi nào tới Lạc Dương, bảo thừa tướng chủ hôn, làm cho xong chuyện này, sau này…có sinh nam hài, cho ta một đứa làm con thừa tự, được không?”

“Đại ca?” A Đẩu thử hỏi dò.

Lưu Thăng nào dám nói không, một chữ “Trẫm” lúc nãy của A Đẩu đã dọa cho hai chân hắn mềm nhũn rồi, lúc này mới hồi thần lại, lau mồ hôi nói: “Tạ…tạ hoàng thượng thành toàn”

A Đẩu phất tay áo, cười nói: “Haiz, khách khí cái gì, đều là người một nhà cả”

Nhưng A Đẩu vẫn còn một chuyện nghĩ không thông, Tinh Thải rành rành là thái tử phi chưa xuất giá, lại còn là nữ nhi của Trương Phi, trong cung ai dám đánh nàng ta?

Khi hắn vòng qua hành lang dài, tạt ngang một gian phòng, thì dừng bước, triệt để giác ngộ.

Trong phòng truyền ra tiếng hát dỗ tiểu hài, giọng hát kia quen thuộc vô cùng, chính là Quan Phượng.

A Đẩu phì cười, cách song cửa hiếu kỳ nhìn vọng vào bên trong.

“…Bảo bối ngoan, ngày mai dẫn ngươi đi gặp cha cha, gặp nhị cữu…”Quan Phượng khẽ ngâm nga một giai điệu nhân gian, đưa lưng về phía A Đẩu, bế một đứa bé đi tới đi lui.

A Đẩu mỉm cười nhìn đứa nhỏ, nhịn không được làm cái mặt quỷ.

Bé con gần ba bốn tháng tuổi, vẫn chưa mọc răng, vừa thấy cái mặt quỷ của A Đẩu liền bật cười khanh khách.

Quan Phượng nhẹ giọng cười nói: “Bảo bối cũng muốn đi tìm cha cha à?”

Quan Phượng đã trở thành thiếu phụ, lại còn làm mẹ, vậy mà vẫn bưu hãn vô cùng, bình thường bởi vì chuyện của Lưu Thăng, Tinh Thải đã bị nàng giáo huấn đến quỷ khóc sói gào. A Đẩu nghĩ tới đây, liền cảm thấy vui mừng khôn xiết, đang định đẩy cửa tiến vào để bày tỏ tình huynh muội, nhưng chợt phát giác ra gì đó.

Sau viện môn, nhân ảnh chợt lóe qua. A Đẩu thu nụ cười, vội vã chạy về phía cuối hành lang uốn khúc.

A Đẩu hét: “Ách ba!”

Trong viện không một bóng người, A Đẩu xông vào trong phòng, rồi chạy ra.

A Đẩu phẫn nộ gọi: “Ách ba_____!”

Nhân ảnh chợt lóe ngoài tường vây, nghe thấy tiếng y thường của người vừa nhảy xuống đất vang lên.

A Đẩu hét: “Ách ba_____!”

A Đẩu lóng ngóng tay chân bò lên tường, mấy lần trèo không được, dở khóc dở cười nói: “Mình bắt chước trèo theo làm gì không biết!” Bèn tụt xuống, vòng qua viện môn, chạy ra hoa viên, hét: “Mau ra đây cho lão tử! Bằng không chửi ngươi à!”

Trong hoa viên trống trống vắng vắng, A Đẩu mẫn tuệ chí cực liếc thấy một đoạn bào khâm màu đỏ sậm lộ ra sau giả sơn, tức giận nói: “Núp cái rắm á!”

Hắn xoắn tay áo, nổi giận đùng đùng đuổi qua giả sơn, gió thổi vù một trận, người phía sau giả sơn lại chạy ào ra ngoài vườn.

“Ngươi đi đâu…” A Đẩu phóng qua lan can hoa, bị thành đá ngáng chân té ụp mặt xuống đất, ngất xỉu.

Sau giả sơn, Trầm Kích kinh hãi trong lòng, do dự có nên tới cứu hay không, bởi bản lĩnh giả chết của tên thái tử gia này quả thật bưu hãn chẳng ai bằng.

Trong hoa viên, trán A Đẩu đâm phải một cục đá, tức khắc máu tươi chảy dài, lan thành một vũng nhỏ trên nền cỏ, trong lòng rủa thầm, lát nữa nhất định phải lôi tên chấp sự quét ngự hoa viên trói lại quất cho một trận mới được! Cục đá chết tiệt từ đâu lòi ra thế này!

Lại qua một hồi, Trầm Kích cho rằng A Đẩu đã thực sự hôn mê rồi, sợ tới mức tay chân lạnh băng, rốt cuộc từ sau giả sơn chạy ra, cúi người sờ vào bên cổ A Đẩu, tức khắc bị A Đẩu ôm cứng ngắt:

“Ngươi trốn cái gì! Theo ta về nhà mau!”

Trầm Kích biết mình lại trúng kế rồi, bèn vội vàng xoay người muốn chạy, nhưng bị A Đẩu ôm cứng một chân, dùng sức giãy mãi không thoát, lại không dám dùng lực đạp, A Đẩu một mặt kêu gào inh ỏi, chỉ biết ôm chặt không buông tay.

Trầm Kích lần nữa triệt để rơi vào trạng thái tư duy chập mạch, hai tay vung vẩy vô mục đích một trận, kéo A Đẩu đi tới đi lui trên nền cỏ ngự hoa viên, A Đẩu nằm sấp trên mặt đất, bị kéo lê một đường, trong lòng tức giận, mắng to: “Ngươi phản hả!”

Lát sau tiếng kêu đó đã gọi cả đám người trong Vĩnh Lạc cung chạy ra, Quan Phượng thét chói tai, suýt nữa ngất xỉu, Bàng Thống sợ đến mặt không còn chút máu, thất thanh nói: “Tiểu chủ công sao lại ở đây!” Vội không ngừng tiến lên đón, Trầm Kích lúc này mới ngừng việc đi tới đi lui mù quáng như con ruồi mất đầu lại.

Hắn đứng giữa bãi cỏ một hồi, A Đẩu đầu đầy máu bò dậy, phủi phủi cỏ vụn trên y phục, kề sát qua Trầm Kích đang cúi đầu, hiếu kỳ quan sát hắn.

Đôi mắt Lữ Bố đỏ bừng, nghiêng đầu qua tránh khỏi tầm mắt A Đẩu.

A Đẩu nhíu mày hỏi: “Làm sao thế?” Hắn kéo bàn tay lạnh ngắt của Trầm Kích qua, nói với đám người Bàng Thống: “Phiền các ngươi rồi, ta có chút chuyện cần làm trước”

Ngày thứ sáu.

A Đẩu tiễn biệt đại quân tới Lạc Dương, lại ngon ngọt dặn dò Quan Phượng một phen xong, trên đầu quấn một lớp băng vải, xoay người về phủ.

Từ hôm qua sau khi tìm được Trầm Kích, hắn giống như lại trở về thân phận thị vệ Ách ba trầm mặc lúc trước, không chịu nói nửa câu.

Mặc kệ A Đẩu lay động, làm mặt quỷ, bắt chước bạch tuột tay chân quấn cứng lên thế nào, Trầm Kích cũng không lên tiếng, bị nháo đến phiền, bèn dứt khoát đứng dậy ra ngoài ngự hoa viên, lặng lẽ ngồi trong Phượng Nghi đình, A Đẩu đành phải khuyên can mãi rồi thỉnh hắn trở về phòng.

Ngày thứ bảy.

A Đẩu trải một tờ giấy lên bàn, bày cờ ngay ngắn, lời nghiêm nghĩa chính nói: “Chơi cờ bay, trẫm nhường ngươi ném trước ba mươi lần”

Trầm Kích thở dài, nhìn A Đẩu một hồi, thuận tay lấy xúc xắc, ném liền liền ba mươi lần, nhưng chẳng có lần nào ra sáu cả.

Tiếp theo, Trầm Kích hất tung cái bàn, ngồi quay mặt vào tường cả ngày trời.

Đêm xuống, ngân quang rải khắp, gió lùa qua rặng trúc xanh truyền tới âm vang xào xạt, tiếng sáo trong Phượng Nghi đình lọt vào phòng, A Đẩu đang ngủ mơ mơ màng màng, trở mình, tỉnh lại trong làn điệu sáo này.

Khúc nhạc mà Lữ Bố thổi lần này rất khác so với lúc trước, trong khúc cổ ý dạt dào, tựa như bày mở một bức họa kích gãy thương chìm, núi thây biển máu. Trong tiếng sáo như có một vị tướng quân ôm lấy ái nhân của mình, trăng sáng ngàn dặm, sóng bạc mênh mông, kim qua thiết mã, vạn kỵ bôn đằng, khiến trong lòng A Đẩu run rẩy.

“Khúc nhạc này…” A Đẩu lẩm bẩm, hắn trở mình, mặt hướng ra ngoài phòng, hơi nước giao mùa hạ thu từ hồ Côn Minh phả vào.

Hắn đưa tay xuống dưới gối, sờ trúng một phong thư, vội nhíu mày ngồi dậy, đưa về phía ánh trăng cẩn thận xem xét. Lập tức đi ra ngoài phòng, ngồi trên ngưỡng cửa, bóc thư ra dưới ánh trăng trải rộng, bút tích cứng cáp của Tào Chân đập vào mi mắt.

Công Tự:

Đại Ngụy ngoài có cường địch dòm ngó, trong có yêu đạo *** loạn triều cương, có thể nói khí số đã tận, sau này nếu Công Tự thân đăng thái bảo, chân đạp thất tinh, mong hãy thiện đãi con dân thiên hạ, trấn an tướng lĩnh.

Tính tình Ôn hầu nóng lạnh bất định, thái độ làm người cố chấp tàn nhẫn, dựa vào thì được, nhưng không đủ để phó thác cả đời.

Triệu Tử Long người như tĩnh thủy,

phong quá vô ngân*, biển thẳm cuộn trào chứa đựng trăm sông, chí cương trên thế gian chẳng thể phá vỡ ý chí hắn, chí cường chẳng thể hủy hoại tấm thân hắn, bao dung hết thảy lỗi lầm của ngươi, năm xưa từng cùng ngươi có duyên tương cứu trên Trường Bản, là người lương thiện.

[*gió thổi qua chẳng để lại vết tích gì, tâm hồn vẫn bình lặng]

Người nào từng làm những chuyện gì, nghĩ chắc lòng ngươi đã sáng tỏ, không cần ngu huynh nhắc lại nữa.

Lần này Tử Đan đi, sẽ không hẹn ngày về. Nhân sinh tựa xuân lộ ban mai, sinh tử có số, có tụ có tán, chớ nhung nhớ nhiều.

A Đẩu lặng lẽ gấp bức thư lại, chợt phát hiện Trầm Kích ngồi dưới mái hiên, ngón tay cầm trúc không ngừng phát run, ngẩn người nhìn hắn.

A Đẩu vội cất thư vào trong ngực, cười nói: “Khúc nhạc kia thật dễ nghe…”

Trầm Kích hờ hững nói: “Ta xem rồi”

A Đẩu sững sốt không biết phải hồi đáp thế nào, định nói gì đó chuyển đề tài, nhưng Trầm Kích đột nhiên hét lớn: “Ta đã xem qua bức thư đó rồi!”

Tiếng rống thình lình này dọa A Đẩu nhảy dựng, A Đẩu ngượng ngùng nói: “Xem rồi thì xem rồi! Có trách ngươi đâu, la hét cái gì?”

Trầm Kích chỉ mắt điếc tai ngơ, giống như tinh thần thất khống quát: “Mẹ nó ta làm gì so ra cũng đều thua Triệu Tử Long! Ta là một tên phế vật!”

“Ngươi tới Trường An làm gì! Cút về cho ta! Về kề cận bên Triệu Tử Long đi! Hắn là người tốt, còn ta là bại tướng! Ta…Tránh ra! Người tránh ra! Về đi!”

Hánh vi của Trầm Kích khác thường không thể tưởng, hắn đẩy mạnh A Đẩu định tiến lên ra, ngón tay gãy của A Đẩu chưa lành, tác động tới vết thương, làm A Đẩu đau đớn la đau một tiếng, khóc ầm nói: “Sao ngươi lại trở nên như vậy…Ngươi…”

A Đẩu không thể nhịn được nữa, rốt cuộc mắng to long trời lở đất: “Ôn hầu! Chiến tướng quân! Đừng ỷ trẫm sủng ngươi rồi làm càn! Chống mắt chờ coi! Trẫm phải đ*t ngươi!”

Ngày thứ tám:

A Đẩu đề bút, vừa viết xiêu xiêu vẹo vẹo lên mặt giấy, vừa lải nhải:

“Phong ngươi làm Trường An hầu…Tào Tử Đan làm Lương Châu hầu, tiểu cà lăm Tôn Lượng kia là Phò mã gia của ta, phong làm Ngô vương; sư phụ là Lạc Dương hầu, Khương Tiểu Duy là Kinh Châu hầu, tiên sinh Vũ hầu, nguyên Thành Đô, Ích Châu đều cấp cho hắn…”

Trầm Kích xì mũi khinh thường.

A Đẩu liếc hắn một cái.

Trầm Kích hơi sợ, ngượng ngùng nói: “Tay…”

A Đẩu nói: “Không sao”

Cho đến nay A Đẩu vẫn không nói vụ ngón tay vốn là chuyện tốt do hắn làm ra, sợ sau khi nghe xong, cái tên cơ bắp lỗ mãng này lại nghĩ quẩn, muốn nổi điên gì đó.

Trầm Kích gật gật đầu.

A Đẩu biết, Trầm Kích chẳng qua là muốn tranh lấy cái tư cách yêu mình mà thôi.

Từ bé Triệu Vân đã nhìn mình lớn lên, cả hai đã trở thành một sự tồn tại không thể phân ly, gắn bó bầu bạn với nhau, loại liên kết đó khiến cho kẻ đến sau như Trầm Kích nản lòng thoái chí, khó có thể đối diện.

Trầm Kích vì A Đẩu mà bất chấp tội danh lớn nhất thiên hạ, tùy tiện hành hiểm lần nữa đầu Tào, bất quá chỉ muốn diệt Tả Từ, để tăng thêm lợi thế trên cán cân ái tình của mình.

Nhưng cuối cùng thất bại trong gang tấc, này có thể trách ai?

Trong chuyện này A Đẩu rất cẩn thận, từ khi hai người gặp lại tới nay không dám nhắc tới, sợ sẽ đả kích hắn.

Tối ngày thứ chín:

A Đẩu cuối cùng nổi điên, túm lấy cổ áo Trầm Kích mãnh liệt lắc: “A a a, rốt cuộc ngươi bị làm sao vậy! Ngươi uống lộn thuốc rồi hả?! ngươi bệnh thần kinh hả! Cuộc sống kiểu này bao giờ mới chấm dứt đây a a! Ta vất vả lắm mới nghĩ cách để mọi người có thể náo náo nhiệt nhiệt chung một chỗ ở Lạc Dương! Ngươi tự dưng giở chứng gì mà y như nữ nhân vậy hả!!”

Trầm Kích gian nan làm động tác nuốt xuống, bất chấp A Đẩu đang ôm cứng eo hắn, đứng dậy, đi tới bên giường ngã người nằm thẳng tắp trên đó.

A Đẩu nằm úp sấp trên giường, mơ mơ màng màng thϊếp ngủ.

Ngày thứ mười, đêm khuya giờ Tý:

A Đẩu đột nhiên tỉnh giấc, trên giường đã chẳng thấy ai, không khỏi kinh hãi trong lòng, vội đứng dậy vừa lăn vừa bò chạy tới bên hồ Côn Minh.

Phượng Nghi đình không một bóng người.

Hắn không nói hai lời, quay đầu chạy tới chuồng ngựa phía sau cung, thở phào nhẹ nhõm, Xích thố vẫn còn đó.

Trảo hoàng phi điện như lấy lòng mà dùng mũi đẩy cỏ khô vào trong cái tào trước mặt Xích thố, Xích thố quay đầu đi, không thèm để ý tới.

A Đẩu tức giận, thuận tay nhặt cái chậu sắt bên chân ném vào, nện cái “Choang” lên đầu Xích thố, kế tiếp lại trở về hoàng cung tìm Trầm Kích.

Hắn đốt đèn ***g, bước nông bước sâu tìm kiếm khắp nơi trong cung.

Gió lạnh đầu thu lùa qua phòng ốc, khiến trong lòng hắn rét căm căm.

“Ách ba…”

“Ta thao, Ách ba!”

A Đẩu lượn tới lượn lui trong cung, kêu gọi một hồi, ánh sáng đèn ***g lúc sáng lúc tối xuyên qua bụi cây, chiếu vào một thân cây, tìm thấy rồi.

Trầm Kích nằm dưới gốc chuối, không chút nhúc nhích.

A Đẩu sờ sờ mũi hắn, xác định vẫn còn hô hấp, bèn ôm gối ngồi xuống bên cạnh hắn.

Hô hấp của Trầm Kích dồn dập, trông lên bầu trời đêm đầy sao sáng lấp lánh, nói: “Sao ngươi tới đây”

A Đẩu mắng: “Tìm ngươi quá nửa đêm rồi, trốn ở đây làm gì? Nhớ Điêu Thiền hả?”

Trầm Kích đáp: “Sợ ngươi đau lòng”

A Đẩu đầu đầy dấu chấm hỏi, nói: “Sợ ta đau lòng?”

Trầm Kích không lên tiếng nữa.

A Đẩu đem đai lưng của mình cột dính vào đai lưng Trầm Kích, thắt thành cái nút chết, tiếp đó nằm sấp lên người hắn, nghiêm túc ngắm nhìn gương mặt anh tuấn của Trầm Kích.

Trầm Kích nói: “Sau này ngươi…phải nghe lời Triệu Tử Long, đừng chọc hắn nổi điên”

A Đẩu nói: “Còn không phải do ngươi hại sao, tại lão tử tới tìm ngươi mà làm sư phụ giận rồi”

Trầm Kích im lặng một hồi, nói: “Cây chuối này, hằng năm đều ra quả, ngươi có thể thường xuyên tới hái”

Trầm Kích lại nói: “Phụng Tiên chẳng có gì để cho ngươi cả, còn khiến ngươi và Tử Long cãi nhau, thật xin lỗi”

Khóe miệng A Đẩu co giật, nói: “Lời lẽ gì thế này, ngươi khùng rồi hả?”

“Lữ Phụng Tiên, ta phát hiện kể từ khi…”

“Kinh Trầm Kích” Trầm Kích hờ hững nói.

A Đẩu gật gật đầu, nói: “Được rồi, sao gần đây ngươi lại bất thường như vậy”

Trầm Kích nói: “Tới hừng đông ngươi sẽ biết”

A Đẩu nghi hoặc càng sâu, Trầm Kích nhắm hai mắt lại, một giọt lệ từ khóe mắt lặng lẽ rơi xuống.

A Đẩu nằm sấp bên cạnh hắn ngủ, ngủ một hồi thì mơ mơ màng màng cảm giác được Trầm Kích đang cố cởi cái nút kết trên thắt lưng, lập tức gạt tay hắn ra.

Ngủ thêm một lát nữa, Trầm Kích lại lén lén lút lút cởi tiếp, A Đẩu hung hăng đánh vào mu bàn tay hắn một phát, mạnh đến độ lòng bàn tay mình phát đau, phẫn nộ vô cùng, nhưng không mở mắt, mắng: “Lại muốn chạy đi đâu?! Muốn chết cũng phải chết chung một chỗ! Đừng hòng chạy!”

Cuối cùng Trầm Kích không cởi cái kết kia nữa, hắn nghiêng người qua, ôm A Đẩu vào lòng, hôn hôn lên hàng mày A Đẩu, an tâm thϊếp ngủ.

Sáng sớm, ánh bình minh vạn đạo, mặt hồ Côn Minh sóng gợn lăn tăn, vầng mặt trời mới mọc rải kim lân lấp lánh khắp cả hồ.

Gió nhẹ bên hồ mang hương lá chuối lan tỏa, A Đẩu mơ mơ màng màng mở mắt.

Gương mặt tràn đầy nghi hoặc của Trầm Kích đập vào mi mắt.

A Đẩu ngồi dậy, thở ra, không ngừng gãi tay, nói: “Muỗi…” Chợt ý thức được gì đó, nói: “Trời sáng rồi”

Trầm Kích gãi gãi đầu, nói: “Sáng rồi”

A Đẩu nhìn Trầm Kích một hồi lâu, nói: “Ngươi còn khác thường như vậy”

Trầm Kích nói: “Sao ta không chết”

“…”

Nghi vấn của A Đẩu đã muốn lên tới đỉnh điểm, hắn túm lấy Trầm Kích, dùng sức lắc tới lắc lui, nói: “Rốt cuộc là làm sao hả! Lão tử nhịn hết nổi rồi! Mau nói rõ ràng cho ta!”

Trầm Kích sờ sờ trán mình, rồi lại sờ sờ trán A Đẩu, nhiệt độ cơ thể hai người như nhau, thấy không có cách nào giấu diếm được nữa, đành phải đứt quãng kể sơ lược lại chuyện Thập nhật tán.

Khi nghe tới Thập nhật tán, A Đẩu đầu tiên là sững sờ, sau đó cười ầm lên.

A Đẩu đồng tình nhìn Trầm Kích, kế tiếp hôn hôn môi hắn, nói: “Hóa ra là vậy, ta còn tưởng chuyện gì to tát lắm chớ, đi thôi, về nhà”

A Đẩu kéo Trầm Kích đứng dậy, thất tha thất thiểu nói: “Thuốc đó là độc dược phải không? Nếu là độc dược thì ngươi sợ cái…”

Thắt lưng hai người vẫn còn cột cứng ngắt, Trầm Kích thấy hành động bất tiện, đành phải bế bổng A Đẩu lên, chậm rãi đi dọc theo hồ Côn Minh.

A Đẩu lại nói: “Ngươi và sư phụ, còn có Tào Tử Đan nữa, đều đã từng uống Hỗn nguyên trường sinh đan rồi, độc nào cũng không cần sợ, Thập nhật tán đương nhiên…”

Giống như hứng phải một luồng sấm giữa trời quang, Trầm Kích ngừng bước, cả nửa ngày sau mới hồi thần lại, run run nói: “Ngươi…ngươi nói thật?”

A Đẩu nói: “Đúng a, sư nương, tiểu di đều bảo rồi, uống trường sinh đan…”

Trầm Kích vô pháp ức chế được cẩu huyết, chỉ nghe hắn rống to: “Sao ngươi không nói sớm!”

A Đẩu hỏi: “Ta không nói cho ngươi biết sao?”

Trầm Kích hết sức đau lòng, quát: “Không có”

A Đẩu xù lông, tức giận mắng: “Hiện tại nói cho ngươi biết rồi đấy thôi! Ngươi làm gì la hét om sòm vậy!”

Trầm Kích bi phẫn đan xen, chỉ cảm thấy tâm tình nói không rõ, nói không hết kia phút chốc dâng tràn trong lòng, thiên ngôn vạn ngữ đều vô pháp hình dung được cảm thụ trong nội tâm vào lúc này.

Hắn khóc không ra nước mắt mà đứng bên hồ Côn Minh, đưa mắt nhìn kim lân vạn khuynh và vầng mặt trời mới mọc kia, tất cả bi phẫn lên tới miệng đều hóa thành một từ hết sức đơn giản.

Trầm Kích nước mắt giàn dụa, hết sức bi thương mà lên án: “Gâu!”

Tâm thần kích động, hắn bất tri bất giác buông tay.

“Ê ê! Ngươi lại làm sao nữa vậy!” A Đẩu hốt hoảng kêu gào, Trầm Kích vừa buông tay, hắn liền rớt thẳng vào hồ Côn Minh.

A Đẩu trút đầu xuống, hai chân giẫm loạn, lúc này hai người vẫn còn đang cột chặt vào nhau, đai lưng bị kéo_____“Tòm tòm” hai tiếng.

Trong nháy mắt, Lữ Phụng Tiên đang ngẩn người á khẩu bên bờ cũng trút đầu rơi xuống nước.

Mấy ngày sau, Xích thố và Trảo hoàng phi điện về tới Lạc Dương, vị võ tướng cuối cùng của Thục Hán, cũng là vị võ tướng hùng mạnh nhất, rốt cuộc đã chính thức quay về doanh trại của mình.

Chuyện sầu não uất ức trong biệt viện chẳng người nào biết, nhưng sự tích Kinh Trầm Kích một người một ngựa lấy thủ cấp Tào Phi giữa vạn quân đã truyền ra khắp Lạc Dương, lần nữa dựng nên cho hắn địa vị võ thần không thể dao động.

Đồng thời hình tượng sài lang gian trá mấy phen gϊếŧ chủ, thay đổi thất thường cũng coi như triệt để được chứng thực.

Hôm trở lại Lạc Dương, hơn hai mươi vị danh sĩ Lạc Dương nguyên là nhân vật chính trị Tào Nguỵ như Chung Dao, Điền Trù lập tức liên danh dâng thư, yêu cầu vấn trảm Lữ Bố ngoài ngọ môn.

Trầm Kích cũng chẳng sợ mấy tên văn nhân này, trên thực tế nếu không phải cố kỵ Gia Cát Lượng và Hoàng Nguyệt Anh, nói không chừng nửa đêm hắn đã xách đao chém từng người bọn họ như chặt thịt heo rồi.

Nhưng khoảnh khắc hắn theo A Đẩu về tới Lạc Dương, trong lòng vẫn còn thấp thỏm.

May mà ván cược ba chiến hai thắng này, Tả Từ cuối cùng là do Tào Chân, Vu Cát, A Đẩu gϊếŧ chết, nên thắng bại chưa phân.

Tiếp theo phải làm sao đây?

Thế cục đã cấp cho hắn một cái đáp án tốt nhất, vào ngày thái tử Hán gia hồi cung, Gia Cát Lượng đóng giữ Lạc Dương, nhưng Triệu Vân chưa được sự đồng ý của Trữ quân đã lĩnh hai vạn kỵ binh, một vạn cung binh xuất phát xuôi nam từ sớm rồi.

A Đẩu ngũ lôi oanh đỉnh, hoàn toàn không dám tin nói: “Sư phụ đi đánh Nam Quận từ lúc nào?”

Gia Cát Lượng vung tuyệt bút, phê một chữ “Chuẩn” lên tấu chương giảm thuế, cũng chẳng ngẩng đầu, thản nhiên đáp: “Ba ngày trước”

A Đẩu nói: “Sao hắn không đợi ta trở về?”

Gia Cát Lượng liếc Lưu Thiện một cái, mỉa mai: “Ai biết Trữ quân trăm công ngàn việc ngươi bao giờ mới trở về?”

Trong lòng A Đẩu hơi khó chịu, nói: “Điểm binh cho ta, để Lữ Bố dẫn dắt, ta cũng đi theo”

Gia Cát Lượng nói: “Theo ý kiến của thần, vẫn là miễn đi, có Vân Trường hỗ trợ bên cạnh, đủ để Triệu Tử Long phá Nam Quận rồi. Chủ công hãy cứ ở Lạc Dương…”

A Đẩu tức giận nói: “Ta cần phải đi! Ai cho phép các ngươi tự tiện quyết định! Mẹ ta chôn ở Nam Quận mà!”

Gia Cát Lượng lạnh lùng nói: “Ngươi cũng biết Nam Quận chôn mẹ ngươi sao?! Tự ý ly khai Lạc Dương, đi làm cái gì?!”

A Đẩu hít vào một hơi, đứng trước mặt Gia Cát Lượng, bất vi sở đông, lát sau nói: “Sư phụ giận ta à?”

Gia Cát Lượng hỏi ngược lại: “Ngươi nói xem?”

Gia Cát Lượng thở dài, nói: “Binh đã thay ngươi điểm tốt rồi, dẫn Tôn Lượng theo, sau khi thu phục Nam Quận, hãy xuôi dòng thẳng tiến Thọ Xuân, tiếp tục công Kiến Nghiệp. Cẩm nang đã giao cho Triệu Tử Long rồi, hắn làm chủ soái, ngươi hãy nghe lời hắn. Lần này xuất binh, ngươi cần nhớ kỹ, tuyệt không thể để Kinh tướng quân hành động theo cảm tính, làm lỡ thời cơ chiến đấu”

A Đẩu ngạc nhiên nói: “Có phải các ngươi đã sớm lên kế hoạch? Muốn dẫn Tôn Lượng đi đánh Kiến Nghiệp, chống lại cha hắn đúng không?”

Gia Cát Lượng nhìn chằm chằm Lưu Thiện nửa ngày, đáp: “Ngươi nói thế nào, thì làm thế ấy đi”

A Đẩu đã hiểu rõ, này hẳn là khảo nghiệm cuối cùng mà Gia Cát Lượng đề ra trước lúc mình đăng cơ đây mà.