Thiết Huyết Đại Minh

Chương 67: Phù Đồ Dục

Chiều hôm đó, Vương Phác liền chuẩn bị lên đường trở về Đại Đông ngay. Bắc Kinh này, hắn đã ở đủ rồi.

Ngoài Quảng Cừ môn, Vương Phác đang lưu luyến chia tay Thường Duyên Linh và Lý Tổ Thuật.

- Đại ca.

Thường Duyên Linh có chút không nỡ, nói:

- Hôm nay từ biệt không biết khi nào mới có thể gặp nhau.

Lý Tổ Thuật nói:

- Đại ca, hay là bọn đệ cùng với huynh đi Đại Đồng?

- Nói bừa.

Vương Phác cười nói:

- Các đệ đi Đại Đồng với ta làm gì?

Lý Tổ Thuật nói:

- Đương nhiên là để gϊếŧ Kiến Nô rồi.

- Không cần.

Vương Phác nói:

- Cho hai người đi gϊếŧ Kiến Nô nghĩa là không biết trọng dụng nhân tài rồi.

Lý Tổ Thuật toát mồ hôi, nói:

- Đại ca lại giễu cợt tiểu đệ.

Vương Phác khẽ mỉm cười, bỗng nhiên quay người, ngoắc tay nói:

- Đặt đồ lên đây.

Vừa ra lệnh một tiếng, gia đinh đã đặt hai chiếc rương lớn lên, mở ra trước mặt Thường Duyên Linh và Lý Tổ Thuật. Thường Duyên Linh ngạc nhiên hỏi:

- Đại ca, đây là...

- Hai vị huynh đệ hộ vệ tiểu huynh từ Kim Sơn Vệ vào cung, dọc đường đã vô cùng vất vả, ở Tế Ninh còn bị mất vài trăm tướng sĩ.

Vương Phác dừng một chút rồi nói tiếp

- Trong rương này còn 20 vạn lượng bạc, coi như là phí cấp cho tướng sĩ Cẩm Y Vệ đã vất vả, cũng cấp tiền an ủi các tướng sĩ đã hi sinh.

Lý Tổ Thuật vội kêu lên:

- Đại ca, không thể được!

Vương Phác nói:

- Ngoài ra còn có một số trang sức châu báu, là tiểu huynh đặc biệt cảm ơn hai vị huynh đệ. Hai vị nhất định phải nhận.

- Không được, tuyệt đối không được.

Thường Duyên Linh cũng từ chối, nói:

- Chúng tôi hộ tống đại ca vào kinh đó là do mệnh lệnh của triều đình. Các tướng sĩ đã thiệt mạng cũng sẽ có Hộ bộ Nam Kinh lo liệu, sao có thể dùng đến tiền của huynh được? Hơn nữa, tiền của đại ca đều là do các huynh đệ đã liều mình giành được từ Kiến Nô, chúng đệ thật sự không thể lấy được.

- Số bạc này hai đệ nhất định phải nhận.

Vương Phác nghiêm túc nói:

- Tiền mồ hôi nước mắt của các huynh đệ ta không đυ.ng đến. Đây đều là món quà của cá nhân ta muốn giành cho hai người. Nếu hai người không nhận thì có nghĩa là không muốn nhận đại ca này, sau này cũng không cần phải qua lại nữa.

- Chuyện này...

Thường Duyên Linh và Lý Tổ Thuật cười khổ nói:

- Nói như vậy thì chúng đệ không nhận không được rồi.

Vương Phác mỉm cười nói:

- Hai người không cần phải áy náy. Sau này đại ca nếu như có cơ hội đến Giang Nam làm quan, các người giúp đỡ ta nhiều một chút là được.

- Còn phải nói sao.

Lý Tổ Thuật nói lớn:

- Nếu đại ca thật sự đến Giang Nam, chỉ cần một câu của đại ca, dù là chuyện lớn thế nào tiểu đệ cũng có thể lấy lại công bằng cho huynh. Ở kinh thành, tiếng nói của tiểu đệ không có trọng lượng nhưng ở nơi một mẫu ruộng có ba phần đất như Giang Nam thì tiểu đệ và Thường huynh có thể xử lý được.

- Được.

Vương Phác ôm quyền nói:

- Đến lúc phải cáo từ rồi.

Thường Duyên Linh và Lý Tổ Thuật cùng ôm quyền nói:

- Đại ca bảo trọng.

Nhìn Lý Tổ Thuật và Thường Duyên Linh dẫn quân rời đi, trước khi đi, cuối cùng Vương Phác quay đầu nhìn lại kinh thành hùng vĩ, trong lòng thầm nghĩ: “Hết một trăm ngày, lão tử tuyệt đối sẽ không hồi kinh. Nhưng sẽ có một ngày ta trở về. Tuy nhiên, đến lúc đó, sẽ không ai có thể nắm được sinh tử của Vương Phác này trong tay nữa, vĩnh viễn không bao giờ xảy ra chuyện như lần này nữa.”

Vương Phác quay người vung tay lên, quát lớn:

- Các huynh đệ, đi!

Dọc đường đi yên bình, vài ngày sau hơn 200 quân của Vương Phác đã đến ranh giới giữa Thuận Thiên phủ và Đại Đồng phủ.

Vương Phác mặc dù là Tổng binh Đại Đồng, nhưng đây vẫn là lần đầu hắn đến Đại Đồng, vì Vương Phác thật sự đã ngã chết ở Liêu Tây rồi. Vương Phác bây giờ chính là Vương Phác vượt thời gian mà tới, may mắn trong gia đinh có A Mộc đầu óc không được thông minh nên Vương Phác có thể biết được không ít thông tin về Vương Phác thật từ gã, nên mới không gây ra chuyện cười gì lớn.

Trước tiên phải nói về trấn Đại Đồng một chút.

Sau khi Vĩnh Lạc đế Chu Lệ dời đô đến Bắc Kinh, thiết lập Liêu Đông, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Kế Châu, Diện Tuy, Ninh Hạ, Cam Túc, Sơn Tây, Cổ Nguyên Cửu Trấn, Đại Đồng Trấn là 9 trấn ở vùng biên. Các trấn này đều có trọng binh đóng giữ. Trung kỳ Vạn Lịch, số quân chính quy ở chín trấn lên tới 60 vạn quân. Hơn nữa, 60 vạn quân này đều là những binh lính tinh nhuệ thiện chiến.

Vạn Lịch vị niên, Kiến Nô ở Liêu Đông khởi binh, không ngừng chinh chiến với Đại Minh. Không lâu sau, lưu tặc ở Sơn Thiểm nổi dậy như ong, làm hại Trung Nguyên. Đại Minh không thể không điều quân ở các trấn chín vùng biên giới để tiến hành tác chiến ở hai phía. Tới những năm cuối Sùng Trinh, mấy chục vạn quân tinh

nhuệ ở vùng biên đã không còn bao nhiêu.

Cuộc chiên Tùng Sơn cách đây không lâu đã chôn vùi thêm tinh nhuệ biên quân còn lại của đế quốc Đại Minh.

Tới tháng 10 năm Sùng Trinh thứ 14, cũng chính là lúc Vương Phác trở về Đại Đồng, sự thống trị của đế quốc Đại Minh ở Trung Nguyên đã tràn ngập nguy cơ. Cùng lúc đó, thế cục Liêu Đông cũng không vì Vương Phác tập kích bất ngờ mà thay đôi quá lớn. Ngoài ra, các đại quân lưu tặc Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung, La Nhữ Tài lại càng nghiêm trọng ở Trung Nguyên.

Để trấn áp lưu tặc, triều đình không thể không điều động quân đội từ các nơi, nhưng quân đội cần lương bổng, triều đình lại không cung cấp được, phải làm sao? Các tướng lĩnh cũng chỉ có thể dung túng cho binh lính chém gϊếŧ. Lão bách tính Trung Nguyên lọt vào tay quan quân phải lang thang khắp nơi, đường cùng đành phải gia nhập vào đại quân lưu Tặc.

Điều này hình thành nên một vòng tuần hoàn ác tính. Quan quân càng tiêu diệt thì càng yếu, còn lưu Tặc thì càng tiêu diệt lại càng nhiều.

Từ năm Sùng Trinh thứ 13, ở Sơn Tây, Thiểm Tây, Hà Nam, Hồ Quảng, Sơn Đông, quan quân truy kích và tiêu diệt lưu tặc cũng đã bắt đầu ngang nhiên cướp bóc. Ngược lại, đại quân của Lý Tự Thành lại bắt đầu trở nên nghiêm minh. Dân chúng Trung Nguyên ngày càng căm hận quan quân, và trở nên ủng hộ sấm Vương.

“Mở cửa nghênh đón sấm Vương/ sấm Vương đến không phải nạp lương.” Câu ca dao nhanh chóng truyền khắp Trung Nguyên.

Không khoa trương chút nào, các địa khu ở Trung Nguyên lúc đó đã hoàn toàn thối nát, các cơ quan chính phủ đã hoàn toàn tê liệt. Quan quân thoạt nhìn thì giống hệt như lưu tặc, còn lưu tặc thi nhìn giống như quan quân. Ở toàn bộ phía bắc của địa khu Trường Giang, chính lệnh của triều đình chỉ có thể truyền tới kinh thành và các địa khu lân cận cùng với 9 trấn ở vùng biên.

Tuy nhiên, tình hình ở các trấn ở biên giới cũng không lạc quan hơn.

Các trấn chín vùng biên, bên ngoài thì phải chống đỡ sự quấy nhiễu của quân Kiến Nô và Mông Cổ, bên trong thì phải tiêu diệt trộm cướp, thổ phỉ và sơn tặc, thêm vào đó là lưu tặc lại phủ kín khắp nơi. Hơn nữa, triều đình lại không ngừng điều động quân đội từ các trấn biên giới. Lúc này, hầu hết binh lực ở các trấn biên giới đã rơi vào quẫn cảnh như trứng chọi đá.

Là một kẻ xuyên không, lại là người yêu thích lịch sử, Vương Phác đương nhiên là hiểu rõ tình hình của Đại Minh hiện giờ. Cho nên hắn biết rõ, khốn thủ Đại Đồng là

không có đường sống!

Cùng lúc đó, thế lực của Kiến Nô và Mông cổ vẫn chưa bị tốn hại thật sự. Còn phía Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung ở Trung Nguyên, hai đoàn phản quân này cũng

đã có thành tựu. Đại Đồng bị kẹp giữa Mông Cổ và phản quân, hơn nữa lúc nào cũng có thể bị triều đình cản trở, tình cảnh rất nguy khốn.

Tuy nhiên hiện giờ, Vương Phác không còn nơi nào khác để đi. Hắn chỉ có thể trở lại Đại Đồng.

Vương Phác đang suy nghĩ thì Chân Hữu Tài thúc ngựa tới sát bên cạnh, hỏi:

- Tướng quân, núi phía trước hiểm trở như vậy không biết là núi gì?

Vương Phác quay đầu lại nhìn Tiểu Thất. Tiểu Thất vội đáp:

- Chân tiên sinh, núi phía trước này gọi là Ngũ Hồi Sơn, cũng gọi là Ngũ Hổ Lĩnh. Thế núi hiểm trở, chỉ có một con đường rất quanh co đi lên ngọn núi cao nhất, cho nên gọi là Ngũ Hồi Sơn. Dưới chân núi là một quan ải Phù Đồ Dục, bên trong có hàng trăm hộ đồn trú. Từ kinh thành tới Đại Đồng thì phải đi qua đường này.

Vương Phác ngẩng đầu nhìn bầu trời mờ mịt trước mắt, quát:

- Truyền lệnh xuống, các huynh đệ tăng tốc, trước khi trời tối phải đặt chân tới Phù Đồ Dục.

- Vâng!

Tiểu Thất đáp một tiếng, thúc ngựa đi ngay.