Ngạc nhiên, Thanh hỏi.
- Làm Đệ Tử với Giáo Chúng khác nhau ở chổ nào hở thầy?
Người đàn ông nghiêm nghị giải thích.
- Giáo Chúng thì củng giống như là Phật Tử trong Phật Giáo vậy. Giáo Chúng là nhửng người tin tưởng theo giáo, tương trợ cho giáo. Họ có đời sống bên ngoài như nhửng người bình thường nhưng học hỏi và sống theo lời huấn thị cũa Giáo Hội. Còn làm Đệt Tử thì củng giống như là chư tăng, nhửng người này bỏ hết cuộc sống bên ngoài, hiến dâng cả đời mình để tu theo đạo pháp.
Nghe như hiểu được, Thanh hoan hỉ nói.
- Vậy con xin được làm Giáo Chúng được không thầy?
Gật đầu người đạo sỉ nói .
- Như thầy đả nói hồi nảy, làm Giáo Chúng củng không khó khăn gì. Ta có thể bảo trợ cho con. Tuy nhiên, chỉ có Hộ Pháp Trưởng Lảo mới có thể làm phép Quy Giáo, lúc đó con mới thực sự trở thành Giáo Chúng. Vào nhửng ngày rằm mổi tháng, các Giáo Chúng sống trong khu vực này đều tụ tập ở miếu thờ cũa Thiên An Thánh Mẩu để dự lể Hoan Lạc Thánh Tế. Hôm đó, ta sẻ đứng xin, bảo lảnh cho con được trở thành Giáo Chúng.
Vừa nói người đạo sỉ vừa đứng dậy, đi tới tủ gổ bên cạnh. Cẩn thận, ông ta mở tủ, lấy ra một mặt nạ màu đỏ và một tấm lệnh bài bằng đồng, đưa cho Thanh, rồi nói tiếp.
- Thần Giáo chủ trương sống một cuộc sống tìиɧ ɖu͙© tự do thoải mái. Tuy nhiên, xả hội hiện nay lại không chấp nhận được điều này. Vì thế, lai lịch cũa nhửng Giáo Chúng đều được giử bí mật để bảo vệ đời sống ngoài đời cũa họ. Chiếc mặt nạ dùng cho việc này. Ngoài đệ tử cũa Thần Giáo ra, các Giáo Chúng đều không biết mặt cũa nhau. Tấm lệnh bài là tín vật con cần có để đi vào dự lể ....
Nghe đến đây, Hùng cảm thấy rằng mình đả biết được nhửng điều chàng đang săn lùng bấy lâu. Chàng lẳng lặn, rón rén đi ra ngoài để tránh bị phát hiện. Hỏi nhửng người quen biết, Hùng biết được rằng, miếu thờ Thiên An Thánh Mẩu nằm ở trên một cù lao giửa sông Hồng, cách kinh thành khá xa. Đó là một nơi hẻo lánh, cây rừng dày đặc nên ít người lai vảng. Nghe qua câu chuyện từ miệng cũa người đạo sỉ, Hùng quyết định sẻ đi tới đó vào ngày rằm cũa tháng này để dò xét tình hình.
Vào ngày rằm cũa tháng 7 năm đó, khi dân chúng khắp mọi nơi ồ ạt kéo về chùa chiền để cúng câu hồn, thì Hùng một mình đi ra ngoại thành để tìm đến miếu thờ Thiên An Thánh Mẩu. Đi từ sáng tới chiều thì chàng mới tới được bờ sông, đối diện với cù lao có đền thờ Thiên An Thánh Mẩu. Từ bên bờ nhìn sang cù lao to lớn, cây cối um tùm, nhưng không thấy hình dạng đền miếu gì cả. Chung quanh vắng vẻ không một bóng người. Trong lòng hơi băn khoăn không biết mình đi đúng hướng hay không nhưng Hùng vẩn kiên tâm ngồi chờ. Nếu phải chờ nguyên cả đêm thì Hùng củng quyết chí, vì chỉ cần một hy vọng nhỏ nhoi thôi thì chàng vẩn quyết không bỏ xót. Khi trời đả hoàn toàn tối, thì chàng mới thấy lác đác vài người đi tới bờ sông. Tất cả đều rất là lặng lẻ và bí mật. Phần đông họ đều tới bằng một cổ xe ngựa che kín mít, chỉ một số người tới bằng kiệu. Sau khi tới bờ sông rồi thì các kiệu và ngựa đều đi về ngay lập tức. Có lẻ, sau khi để chủ nhân qua sông rồi thì mọi người hầu đều không được ở lại. Sau khi kiệu và ngựa khuất bóng rồi thì từ ngoài sông có một chiếc bè đi vô. Bè nhỏ chỉ có một người chèo. Lặng lẻ đưa khách vượt nước để tới cù lao to lớn ở giữa sông. Leo lên một cành cây um tùm, che phủ cả đường đi, Hùng im lặng chờ đợi. Cứ mổi cổ xe đi đến thì chàng búng thử một mẩu cây vào thành xe để xem xét phản ứng. Theo tiếng nói vẳng ra từ trong xe mà chàng đoán xem trong xe là người nào có nhửng ai, có xe chỉ có đàn ông, có xe chỉ có đàn bà. Một vài xe có cả đàn ông và đàn bà. Sau khi hiểu được tình hình rồi, Hùng quyết định sẻ ra tay hành động. Khi chàng đoán trong một chiếc xe ngựa đang đi tới chỉ có một người đàn ông, Hùng nhẹ nhàng thả người xuống thùng xe, nhẹ như lá rơi. Từ trên nóc, Hùng nhẹ nhàng luồn người qua cữa sổ rồi kềm chế ngay người đàn ông đang ngồi trong thùng xe ngựa. Ông ta là một người đàn ông mập mạp, ăn mặc sang trọng, tướng người qúi phái vô cùng. Khi thấy Hùng nhảy vào, ông ta chỉ kịp trợn mắt lên, chưa kịp nói một tiếng nào cả thì đả bị chàng điểm huyệt, không nói và nhúc nhích gì được. Lanh lẹn, Hùng trao đổi áo quần cũa mình với người đàn ông. Trên người, ông ta hoàn toàn không đem theo tiền bạc gì cả. Đồ vật mang theo chỉ có một cái mặt nạ màu đen che mặt và một tấm thẻ bài bằng đồng. Một mặt cũa thẻ bài có hình một c̠ôи ŧɧịt̠ với hai hòn dái to lớn đang đút vào một cái l*и mở rộng. Mặt kia chỉ có hai chử Lạc Đạo. Nhìn tấm thẻ bài, Hùng đoán rằng đây là lệnh bài đặc biệt, dùng để vào miếu thờ trên ngọn cù lao. Đeo mặt nạ và bỏ thẻ đồng vào túi, Hùng nghiểm nhiên ngồi trong xe ngựa đang đi tới bờ sông. Khi chiếc xe tới bờ sông, người đánh xe ngựa lể phép lên tiếng.
- Dạ thưa ngài chúng ta đả đến rồi ạ ...
Mở Mảnh vải dày hé ra nhìn, Hùng thấy người hầu chỉ lẳng lặng cúi đầu chờ đợi chứ không xuống xe giúp đở chủ nhân xuống xe như nhửng người bình thường. Chàng an tâm, ôm người đàn ông, nhẹ nhàng nhảy xuống. Khi Hùng xuống rồi, chiếc xe ngựa củng thản nhiên đi xa như không muốn tò mò, không muốn biết chuyện gì sẻ xảy ra bên bờ sông. Xoa huyệt ngủ để người đàn ông yên giấc cho đến sáng, Hùng dấu ông ta sau một bụi cây rậm rạp rồi thản nhiên đi ra bờ sông đứng đợi. Đợi chẳng bao lâu thì từ ngoài khơi, một chiếc bè nhỏ lẳng lặn tiến vào. Trên bè là một bóng người trùm vải kín mít từ đầu tới chân. Khi chiếc bè chạm bờ, trên bè một tiếng hỏi cộc lốc vang lên.
- Lệnh bài?
Chẳng nói gì cả, Hùng thẩy tấm lệnh bài bằng đồng cho bóng đen. Sau khi xem xét lệnh bài thật kỉ rồi, bóng đen thẩy lại tấm lệnh bài, trả cho chàng rồi chống sào đẩy bè chạm bờ. Biết rằng mình không nên nói nhiều, Hùng lẳng lặng bước lên bè. Sau khi Hùng đứng vửng trên bè rồi, chiếc bè củng nhanh chóng ra khơi. Đi một lúc sau thì chiếc bè mới tới bên trên ngọn cù lao. Tới nơi, Hùng mới biết rằng ngọn cù lao được tạo bởi một ngọn núi đá khá lớn. Từ trên đỉnh cao lâu lâu lại vang lên nhửng tiếng trống trầm hùng, dập dềnh vang xuống. Đường từ dưới bến tàu lên trên cách một khoảng xa mới có một bó đuốc nhỏ chỉ vừa đủ để thấy đường đi chứ không còn thấy được gì khác. Gần tới đỉnh đồi là một ngôi cổ miếu không lớn lắm. Bên ngoài có hai người đàn ông vạm vở đứng canh cữa. Hùng thản nhiên đi tới, đưa tấm lệnh bài bằng đồng cho người đàn ông canh cữa xem. Ông ta cầm lên, xem thật kỉ rồi gật đầu ra dấu cho Hùng đi vào. Vào đến bên trong, Hùng giật mình kinh ngạc. Ngôi cổ miếu rất là nhỏ chỉ đứng được có vài người. Bàn thờ nằm ngay giữa miếu bây giờ đả được chuyển sang một bên. Nơi dưới bàn thờ bây giờ là một con đường hầm dài hun hun, bên trong leo lét vài ánh sáng chập chờn chiếu ra, ngoài ra thì trong miếu không có ai cả. Chàng không ngờ rằng, ngôi miếu này chỉ mới là cữa ngỏ đi tới một nơi chốn khác thật là bí mật. Hồi hộp, Hùng lần mò từng bước, đi xuống đường hầm. Đi một khoảng đường xa, Hùng mới thấy được lấp loáng cuối đường hầm là một hang động to lớn. Trong hang động có khá đông người, sáng sủa nhờ được thắp đuốc khắp nơi. Ai nấy đều ăn mặc sang trọng, trên mặt ai nấy đều đeo một chiếc mặt nạ che mắt và mủi, chỉ hở miệng. Đàn ông thì đeo mặc nạ màu đen, đàn bà thì đeo mặc nạ màu đỏ. Trên trán cũa mổi mặt nạ đều có khắc chử, xem ra là pháp danh cũa mổi người vì nhửng cái tên đó thật không giống tên cũa người thường, có người pháp danh Hồng Côи ŧɧịt̠, người thì Bích Mao. Khi Hùng giở mặt nạ cũa mình ra xem thì chàng mỉm cười. Chử khắc trên mặt nạ cũa chàng là Tiểu Linh Chi, cây nấm nhỏ. Hùng nghỉ thầm có pháp danh này củng tốt, hy vọng rằng sẻ có ít người để ý đến chàng khi người ta nhìn được chử Tiểu Linh Chi. Trong động, mọi người chỉ thì thầm nói chuyện với nhau chứ không ai lớn tiếng gì cả. Cuối hang động là một bàn thờ lớn, nhang đèn đốt toả một mùi hương đậm đà phảng phất khắp nơi trong hang. Trên bàn thờ là hình tượng cũa một người đàn bà mặc áo trắng mỏng bằng ngọc xanh biếc, trông linh động như người thật và đẹp tuyệt vời. Chung quanh có nhiều chụm lữa đốt làm cho hang động lấp lánh và ấm cúng vô cùng.