Sau khi NHÀ MỒ bị đốt, dân bản đó cố gắng tìm kiếm những gì xót lại. Nhưng ngoài tro tàn thì chả còn lại gì. Một đội 4 thanh niên được lão thầy mo cử ở lại hiện trường canh gác. Sau vụ đó, bác mình bảo sẽ chuyển lều đi chỗ khác. Bác dặn, đồ cứu thương gồm thuốc cầm máu, băng, gạc, sát trùng,... chuyển hết vào lều cũ của bác và có ai bị thương thì dùng trong hộp trên xe tải, không được dùng thuốc trong lều bác , và có chuyện gì cứ tới tìm bác. Nói xong, bác dọn lều ra chỗ khác, cách xa chỗ dựng trại. Đó là vách đá, mà vợ bác đã tự vẫn năm xưa.
Được vài hôm, động vật nuôi trong bản bị bệnh hàng loạt. Họ tìm tới chỗ đoàn, muốn mua thuốc chữa bệnh cho động vật. May là lúc đó, ba với chú mình tính trước nên mua một lượng lớn thuốc thú y. Nhưng vẫn không hiểu, đã cho chúng uống nhưng vẫn không khỏi. Gà thì xù lông, trợn mắt, nhỏ giãi. Trâu bò thì sủi bọt máu, lợn thì ị ra máu. Cả buôn chìm trong hôi tanh nông nặc.
Chưa hết, nương rẫy của buôn đó bỗng bị héo úa, chết dần chết mòn. Còn suối gần đó, nước bắt đầu hôi tanh, không uống được. Cá thì chết trắng cả suối. Dân làng bắt đầu lo lắng, cho rằng điềm xấu đã tới. Lão mo và già làng họp tại nhà rông suốt ngày trời. Cuối cùng, quyết định sẽ xây lại NHÀ MỒ. Nhưng xây nhà thì dễ, tượng thần gác mồ mới khó. Gỗ để điêu khắc tượng, cần là loại gỗ lâu năm. Và được thần rừng ngụ qua ( giống như là ở qua đó 1 thời gian ). Nhưng cả buôn làng lại tìm được. Họ hồ hởi xây NHÀ MỒ, đến hôm làm lễ đẽo gỗ thành thần gác mồ.
Hai thanh niên được sắp đặt để đẽo gỗ, trùng hợp là 2 tên này có mặt trong lần cưỡng bức năm xưa. Hai tên cầm mác, lão mo vừa hạ lệnh bắt đầu. Thay vì đẽo gỗ, chúng lại tự đẽo bản thân. Từng thớ thịt được chúng đẽo ra khỏi người. Dân làng kinh hồn, người hét, kẻ la, vội ngăn 2 tên đó lại nhưng không kịp. Chúng đã đẽo lấy óc ra ngoài. Quá hoảng sợ, dân làng bỏ chạy tán loạn. Lúc quay lại, thì thi thể đã bị thú rừng tha mất. Tất nhiên, ai trong đoàn cũng xanh mặt, cơm chả dám ăn, thấy thịt là ói. Qua được 4 ngày, tạm yên ổn. Bọn thanh niên vẫn thường lệ đi lên rẫy. Nhưng đến giữa trưa, bỗng có tiếng la thất thanh. Ba, chú mình với vài người chạy vào, thì thấy 3 tên thân thể đã nát bươm.
Hỏi mới biết, lúc về 3 tên này bỗng nổi cơn. Nhảy vào cây keo, gai mắt mèo và bụi dứa rừng. Chúng hành động như lên cơn động đực. Da thịt bị gai cào xé, có tên ôm hôn thì cả khuôn mặt rách nát, mắt bị đâm lủng, lưỡi bị xé vụn. Lại một phen nhịn ăn. Trưa hôm sau, dân bản đó kéo tới chỗ dựng trại rất đông. Lão mo bảo nghi ngờ có có người hại dân làng, muốn khám. Mới đầu thì chú không đồng ý, nhưng ba mình khuyên: thôi kệ, cho họ khám đi em. Thanh minh mới dễ làm ăn. Bọn dân làng ào ào kéo vào dò đồ. Từng lều bị chúng lật tung lên khám. Cay nhất là nhân cơ hội chúng chôm đồ: gạo, muối, mỳ tôm,.... Cả đoàn thấy nhưng vẫn nhịn. Đến lúc, chúng lục thấy thuốc cứu thương ở trong lều cũ của bác. Thì trắng trợn mượn dùng. Ba với chú đều bảo, đó là thuốc đã hỏng. Sẽ đi tiêu hủy, không nên dùng. Bọn chúng nhất quyết sẽ lấy. Ba mình mới bảo làm giấy cam đoan từ cả hai, như vậy lỡ có chuyện gì thì ráng mà nhận hậu quả. Chú mình càu nhàu:
- Mẹ kiếp, ông đi buôn từ nhỏ. Đến giờ mới gặp cái buôn chó má này.
Mấy lần buôn bán với người dân tộc, họ đều rất quý, tính tình dễ mến. Sau màn khám xét, chúng kéo nhau về. Tối hôm đó, lại có tiếng la thất thanh. Sau khi dùng thuốc cứu thương, thì những tên này đều tự tử mà chết. Tên thì đang nằm trên sàn, bỗng lao đầu vào đống lửa, miệng nuốt than hồng vào miệng. Tên thì tự mổ bụng, lôi nội tạng ra. Tên còn lại thì quỳ lạy, đập đầu vỡ sọ mà chết. Quá kinh sợ, dân làng ai nấy đều xanh mặt.
Ngần ấy chuyện xảy ra, ba với chú ra chỗ bác. Thì thấy bác tay ôm tấm hình của vợ mà khóc. Ba kể thấy tội bác lắm. Khóc nấc từng cơn như đứa trẻ con, vừa khóc vừa vuốt ve tấm hình vợ. Bác ôm tấm hình, ghì chặt vào lòng, nước mắt thì cứ ướt cả áo. Ba với chú cũng rơm rớm nước mắt. Thương cho hai vợ chồng bác. Ngày xưa, vì gia đình ngăn cấm. Bác với vợ bác đã cố gắng vượt qua từng chút, đến ngày cưới cả hai đều ôm nhau khóc vì hạnh phúc. Nhưng bây giờ kẻ dương, người âm. Biết ba và chú đến, bác vội lau nước mắt. Bác bảo:
- Nếu bọn hắn có mời đi ăn đám tang thì cứ đi, ăn uống nhiệt tình vào. Mọi chuyện để anh lo.
Quả thật, hôm sau dân làng đó mời cả đoàn đi ăn đám ma. Nhớ lời bác, cả đoàn ăn uống no nê, rồi kéo nhau về. Lúc về thì thấy, bác đã chờ sẵn. Bác bảo:
- Anh pha sẵn nước giải rượu rồi, mấy chú mỗi người một ly, phải uống hết.
Uống sau, ba mình có cảm giác như có dòng nước xoáy trong bụng, cả đoàn nôn ra hết tất cả. Cả đoàn ói tới mặt mày xanh lè. Khi thấy trong có cả một con sâu đỏ hòm trong bãi nôn. Bác bảo:
- Đây là trùng ngãi, vốn chúng có sẵn trên cây trước khi bị luyện thành ngải. Nhiễm âm khí nặng mới bị biến thành, bình thường chúng vẫn sẽ ở trong trứng. Lão mo kia cần sẽ dùng nước thuốc kí©ɧ ŧɧí©ɧ chúng nở. Loại này, trù ếm trong thức ăn, nước uống rất khó phòng.
Chú mình hỏi:
- Tại sao lão làm vậy ?.
Bác giải thích:
- Chắc lão mo định nhờ bọn ngải trùng này biến mấy ae thành vật thế mạng cho chúng. Để chúng bình an, còn ae thì bị xui xẻo, tai ương. Một phần lão cũng nhờ ngải trùng này mà theo dõi. Anh cũng hơi ngờ ngợ đoán ra loại ngải mà lão mo này thờ rồi.
Nghe xong, ai cũng sợ. Chú mình chửi thề:
- Đm, lũ chó. Ông quyết băm chúng mày ra bã.
Bác bảo:
- Chắc chúng nghĩ bây giờ ae đang phát bệnh. Vậy diễn cho giống vào.
Nói xong, bác lấy ra 12 con hình nhân ( do đoàn có 12 người ) bằng vải, lấy ngải trùng bỏ vào trong. Sau đó, dùng 1 tấm bùa nhỏ màu xanh, trên có hình tim người. Bác nói:
- Đây là hình nhân thế mạng, bùa này đánh lừa ngải trùng là chúng vẫn sống trên cơ thể người sống. Mấy chú bỏ hình nhân vào người đi, bùa sẽ hút ít dương khí nhưng không sao đâu.
Chú mình có bảo:
- Lúc mình có nôn ra còn này ra ngoài, lỡ lão mo kia biết thì sao ?.
Bác cười:
- Anh tính cả rồi, nước mấy chú vừa uống. Anh điều chế từ Cổ, khiến ngãi trùng đã ra ngoài thì vẫn không khiến lão mo phát hiện. Chỉ là qua thời gian thiếu dương khí, sinh khí và hơi người là sẽ biết. Anh mới làm hình nhân cho mấy chú.
Bấy giờ mọi người mới vỡ lẽ. Bác nói cả đoàn phải chịu khó giả vờ người đang bệnh. Sáng hôm sau, ai nấy mặt mũi xanh xao, như người bị bệnh. Cả đoàn cố tỏ ra mệt mỏi, uể oải thật. Ba kể, dân làng 2 buôn kia thấy đoàn bị vậy lo lắm. Họ cho thuốc, nấu sẵn đem ra cho. Thậm chí còn nấu cơm, giặt đồ giúp nữa. Ai cũng cảm động, lúc mọi chuyện đã xong. Tặng lại cho họ nửa kho hàng chưa bán hết. Giữa trưa, lão mo có dẫn người ra. Lão đem tiền với chút lâm sản ra, gọi là trả tiền hôm bữa ( hôm lão dẫn người đến khám đó ). Ba với chú mình tất nhiên là nhận ( nếu không nhận sẽ khiến lão mo nghi ngờ ). Lão có nói:
- Muốn khám bệnh cho mọi người ?
Lúc này, chú mình hơi căng thẳng, vì lão cũng là người trong tâm linh. Lỡ mò ra cái gì thì khốn. Lão lại cười bảo:
- Lão này, học thuốc từ nhỏ. Để lão xem giúp cho. Đừng ngại. Anh em đồng bào cả.
Thấy lão đã nói vậy, thì cả ba và chú đều bí ( khi người dân tộc đã gọi là người ae đồng bào, thì đó là một cách họ thể hiện nhiệt tình, hiếu khách. Từ chối sẽ mất lòng họ ). Cắn răng để lão khám bệnh cho, lão vẫn biết bắt mạch như thầy thuốc miền xuôi. Rồi lão nhìn vạch mắt ra nhìn, rồi dò xét cả vòm họng. Trong suốt thời gian khám, lão lúc nào cũng tập trung cao độ, khám xong người này là lại trầm ngâm một hồi mới khám tiếp. Ba mình là người khám cuối cùng. Mắt lão loé lên như đã phát hiện điều gì, lão cười khè khè:
- Người anh em đồng bào tốt, rất tốt, khá lắm đó.