Chúng tôi chở anh Thắng vào bệnh viện, cũng may vết chém không sâu, tình hình của anh tạm thời không có gì nguy hiểm. Lát sau thì đàn em của Kiên Bói Cá mới tới, vì phát hiện bé Uyên bị mất tích quá trễ nên cũng không trách bọn họ được, vài người được cử lại để lo cho anh Thắng, anh Hùng mới nói cả bọn về biệt thự của Kiên Bói Cá cái đã, anh có chuyện muốn hỏi cho ra lẽ. Trong giọng nói của anh thoáng chút giận dữ, tôi cũng không hiểu tại sao, hay là vì tụi giang hồ này cứ liên tục cản đường của cả bọn? Thôi cứ theo anh về trước.
Đến biệt thự, Kiên Bói Cá đang đứng ngóng chúng tôi về, điệu bộ sốt ruột thấy rõ. Vừa thấy gã anh Hùng đã đi thẳng vào vấn đề: "Ông anh, tình hình chắc ông anh cũng nắm hết rồi. Bé Uyên bị bọn Tám Màu bắt là để uy hϊếp bác Hai Tình làm cái gì đó. Ông anh nhất định không nói cho thằng em biết chẳng lẽ còn lý do gì sao?"
Kiên thở dài như gã đã biết trước, gã nói: "Tụi mày cũng thông cảm, tao có hứa với ổng là sẽ không nói, nhưng chuyện đã tới nước này rồi thì đành vậy. Kệ mẹ ổng. Ổng nuôi Cá Mú khổng lồ làm bồ câu, tụi Tám Màu nhắm tới con cá đầu đàn, tại vì bọn bên Tam Giác Vàng ra giá rất cao. Mà muốn gọi được con cá đầu đàn này lên thì phải đích thân Hai Tình xuất hiện mới được."
Sinh nghe xong thì giật mình, ngày xưa chỉ nghe sư phụ nó kể rằng vùng Cà Mau này cá mú khổng lồ nhiều vô số kể, kích thước con nào con nấy như cái xuồng tam bản, vẫy đuôi một cái có thể làm chìm ghe, lở đất. Cá mú bình thường đã vậy, con đầu đàn còn to tới cỡ nào. Những lần gặp bồ câu của thả diều trong quá khứ, từ ông Năm Chèo cho đến nhện Thiên Mẫu, con nào con nấy cũng như cái nhà, vậy cũng đủ biết đồ chơi của thả diều toàn là thứ dữ. Anh Hùng bảo: "Nếu Hai Tình đồng ý đưa tụi em tới U Minh vậy thì nhất định phải có bồ câu, chuyện giang hồ của ông anh tưởng không liên quan nhưng giờ thì khác rồi."
Tôi mới hỏi: "Nhưng giờ biết đường đâu mà tìm ra tụi nó được anh."
Anh Hùng nghiêm mặt lại bảo: "Tụi nó di chuyển bằng vỏ lãi, lại muốn gọi con cá mú tất nhiên phải kiếm cái bến nào đó. Cá mú khổng lồ của bồ câu không thể lựa chỗ đông người mà gọi bừa lên được, đó là tôn chỉ của lục lâm rồi, nên nhất định Hai Tình sẽ tìm một bến nước nằm ở xó xỉnh nào đó, ổng là thả diều của vùng này mà, chuyện đó đối với ổng quá dễ dàng. Với lại..." Anh xoay bàn tay, chỗ ngón trỏ và ngón út của anh có hai đường màu đen như lấy viết lông vẽ lên vậy, anh đi tới chỗ tôi rồi nói tiếp: "Anh đã kịp kết Thiên Nhãn Hộ Pháp lên đôi mắt của bé Uyên, tại anh sợ nó sẽ bị chặn đường tiếp, định giao lại cho Hai Tình nhưng chưa gì đã gặp chuyện. Nhắm mắt lại đi mày."
Tôi làm theo lời anh nói, vừa xong anh đã ấn cả hai ngón tay vào tròng mắt tôi đau buốt, không quên dặn đừng mở ra vội mà hãy lấy tay vuốt lên mi mắt. Kỳ lạ thay, vừa vuốt xong thì cảnh sông nước đã hiện ra rõ mồm một, tôi nghe tiếng thằng Sinh: "Đại ca, cũng là anh cẩn thận, mà cái tật vòng vo không bỏ là không bỏ ta?"
Tôi vẫn chưa biết phải làm gì với thông tin này, anh Hùng giải thích qua loa cho Kiên Bói Cá, đại loại là hiện giờ tôi đang nhìn thấy những gì Uyên đang thấy, bảo gã ta trợ giúp tìm kiếm, đoạn anh quay sang tôi nói: "Thấy cái gì đặt biệt chút thì la lên nghe mày."
Tôi tập trung, thấy hai bên là rừng đước, cây cao che ngang như mái vòm, nước bên dưới có màu cà phê sữa pha chút xanh lá, kiểu như nước lợ. Vỏ lãi này có khoảng hơn hai chục thằng ngồi, đằng sau còn nghe tiếng máy dầu ầm vang, chắc còn khoảng hai chiếc nữa, vậy thì số lượng đã gia tăng rồi, có khi nào tên trùm giang hồ Tám Màu cũng tham gia chuyến đi này? Tôi không thèm để ý, giờ phải lo quan sát xung quanh. Vừa ra khỏi mái vòm rừng được, cảnh vật sông nước hiện rõ mồn một, những thảm lúa vàng rực thấp thoáng xa xa phía chân trời, kênh nước này dường như kéo dài bất tận, chạy song song với nó còn có một con đường mòn, một lão nông đang đạp xe thấy ba chiếc vỏ lãi liền quay đầu chạy mất dạng.
Vỏ lãi dừng lại ở một bãi nước nông, một bên bãi nước có thể thấy từng lớp phù sa màu nâu vàng, bên kia là rừng đước xanh ngắt một góc trời. Một giọng đàn ông cứng cỏi vang lên đằng sau: "Chỗ này đúng không?"
Tôi nghe giọng của Hai Tình: "Đúng rồi, đúng rồi. Là chỗ này đó, bậu cho ghe tấp vô đi. Đừng có dí súng vô đầu con Uyên nữa! Bậu muốn qua làm gì qua cũng làm mà!"
Chợt phía sau có một bàn tay rắn chắc vỗ lên vai, là anh Hùng: "Anh cũng có chút ý niệm gì đó rồi, chờ mày xác nhận thôi. Nhìn về hướng ngược lại con đường mòn lúc đi vô lúc nãy, mày thấy mấy loại rễ cây?"
Mới đầu tôi còn không hiểu ý anh Hùng đang nói tới chuyện gì, rễ cây thì tôi thấy đầy nhưng chỉ toàn là đước thôi. Uyên vì đang hốt hoảng nên cứ cử động liên hồi, cảnh vật cứ liên tục lướt qua, tôi bèn cố gắng tập trung, mỗi lần Uyên lia mắt thì để ý những chi tiết nhỏ của rễ cây, tôi đếm có khoảng năm sáu loại, vì cứ đinh ninh khu này toàn đước nên mới nhìn lầm. Có loại rễ tua tủa, kích cỡ nhỏ, có màu vàng óng; có loại rễ dày đặc, thân rễ to hơn, mọc san sát vào nhau; có loại rễ tủa tủa, đâm lên trên, tán lá còn có những trái cây dài thường thượt màu cam đỏ; có loại cây không thấy rễ, chỉ thấy vùng nước xung quanh mọc đẩy những thân cây nhỏ và ngắn màu đen. Tôi tả từng thứ lại cho anh Hùng, nghe xong anh lẩm bẩm: "Đúng là nó rồi, là bãi Khai Long!"
Kiên Bói Cá bất chợt khịt mũi rồi cười lên một tiếng: "Bãi Khai Long? Chú em mày lại thích nói chơi, bãi đó nằm ở gần biển, cách đây mấy chục cây số, vỏ lãi nào chạy nhanh vậy?"
Anh Hùng kêu tôi mở mắt ra được rồi, đoạn quay qua nói với Kiên Bói Cá: "Đại ca, có những thứ trong lục lâm nằm xa với hiểu biết của thế giới đương đại. Em nói vậy đều có lý do hết cả, anh tin thằng em thì chuẩn bị xe cộ, nhắm thẳng hướng Đông Nam mà chạy, tới chỗ rẽ em sẽ tự biết mà hướng dẫn!"
Kiên Bói Cá mới đầu còn do dự nhưng khi thấy ánh mắt quyết đoán của anh Hùng thì cho đàn em chuẩn bị xe cộ đàng hoàng, cả nhóm lên đường khoảng mười lăm phút sau đó. Theo sự chỉ dẫn của anh Hùng, xe chạy về hướng Đông Nam sông Gành Hào, cây cầu duy nhất mà chúng tôi đi qua mang tên Hòa Trung, đến đó anh Hùng nói với tài xế phải kiếm một con đường mòn nhỏ có cấm một cây sào cao bất thường, chính giữa treo mảnh vải màu đen, trên cùng treo mảnh vải màu đỏ rồi rẽ vào. Đến đoạn này tự nhiên tôi lại thấy thân thuộc đến lạ thường, cạnh bên còn có một con kênh nước màu cà phê sữa pha lẫn xanh lá, đi thêm chút nữa thì thấy rừng đước bắt đầu trở nên dày đặc.
Đến lúc này, Kiên Bói Cá không còn giấu được sự tò mò, lão nói: "Chú em, có chắc đi đúng đường không? Nhỡ đâu lạc mất thì toi, thằng Tám Màu không phải dạng người hành động tắc trách đâu!"
Anh Hùng cười, anh bảo: "Đại ca yên tâm, đường này sẽ dẫn đến bãi Khai Long, chỗ đó chú Hai Tình mới gọi được con cá mú lên."
Tôi, Sinh và Tú Linh từ đầu chỉ giữ im lặng, biết tổng anh Hùng làm gì cũng có lý do cả. Riêng Kiên Bói Cá vẫn bán tín bán nghi. Lão bảo anh Hùng phải giải thích cặn kẽ đàng hoàng, không thôi lão cho người quay xe về. Lúc này anh Hùng mới thở dài, chắc anh còn đang suy tính gì đó, không muốn phải vướng bận chuyện giải thích này nọ, nhưng Kiên Bói Cá nói vậy thì đành làm theo. Bãi Khai Long của Cà Mau vốn là khu du lịch nổi tiếng với bãi biển cát vàng, khu vui chơi, mua sắm sầm uất, nhưng đối với lục lâm, cái tên Khai Long xuất phát từ nơi khác. Cà Mau là mảnh đất tận cùng của Tổ quốc, có kết cấu hình chữ "V" giáp biển hết sức tinh xảo, những loài thực vật ngập mặn từ đó mà phát triển vượt trội. Khoảng ba trăm năm trước, khi những đoàn người khai hoang đầu tiên bước chân được vào đây thì lục lâm đã dùng mảnh đất này làm chốn ẩn thân từ trước đó rất lâu rồi.
Đoàn người đi khai hoang này chỉ gồm binh lính và trai tráng là chủ yếu, khi đang rẽ rừng bước đi đến một bờ nước thì họ thấy một tia sét lóe lên soi rọi cả một bầu trời, mây đen từ đâu kéo đến dày đặc, tiếp sau đó là cơn mưa như muốn gột sạch cả mặt đất. Cho là điềm lành rồng thần giáng thế, họ dựng cộc, đặt tên bến nước là bãi Khai Long. Cùng lúc đó, ở vùng đất sâu phía trong Cà Mau, cũng có một đoàn người khác đi khai phá, chứng kiến sự kiện tương tự nhưng là ở một cái ao lục bình, họ cũng đặt tên cho cái ao đó, gọi là ao Rạch Thiên.
Trải qua quá trình khai phá, những người trai tráng ở vùng bờ nước cho trồng lên năm loài cây bao quanh, tượng trưng cho những loài thực vật sống được dưới điều kiện khắc nghiệt lúc bấy giờ là: cây mắm, cây bần, cây dà, cây vẹt và cây đước. Những người đi khai phá ở vùng ao thì mở đất trồng cây lúa nước, thông nước từ trong ao ra ngoài, mãi sau này thành hệ thống kênh rạch chằng chịt thế nhưng diện tích cái ao vẫn không đổi. Ban đầu anh Hùng đã biết được nếu muốn gọi cá mú lên thì chỉ có hai địa điểm này, chúng đều cách thành phố chưa đến mười ki-lo-mét nhưng lại cách xa nhau đến hai mươi mấy ki-lo-mét, chọn một trong hai là giải pháp ngu ngốc, thế nên khi tôi tả lại thảm thực vật cho anh nghe, anh đã biết chắc đó là bãi Khai Long chứ không phải ao Rạch Thiên.
Tia sét năm xưa những người đi khai phá thấy được thật ra không phải hiện tượng rồng thần đáp xuống gì cả mà là do một tay những người thả diều tạo ra. Khi người thường đến vùng đất này sinh sống, thần thú của họ không thể cứ để long nhong bên ngoài được. Tia sét đó lóe lên như cầu vồng, nghĩa là đứng ở đâu cũng có thể thấy được nó, từng người lục lâm ngầm hiểu mình phải làm gì, che dấu thân phận vẫn là ưu tiên hàng đầu. Họ bắt đầu đồn thổi, thêu dệt nên hàng loạt sự kiện, sau này còn dẫn dắt những người đi biển đặt tên cho bãi biển vô danh nào đó là Khai Long, mục đích nhằm che giấu đi bãi Khai Long thực thụ, đơn giản vì nếu nó bị bại lộ thì không còn thả diều thuận lợi được nữa.
Anh Hùng kể cho Kiên Bói Cá nghe xong thì chúng tôi cũng đã băng qua rừng đước, thấp thoáng xa xa là cánh đồng vàng lúa, xung quanh mọc đầy những thứ rễ cây tôi đã thấy được qua ánh mắt của Uyên. Tôi nói với Kiên Bói Cá về sự kiện này, bấy giờ gã mới chịu tâm phục khẩu phục, còn nói rằng lục lâm bọn tôi thật là hành tung bí ẩn, chẳng biết đường đâu mà lần. Lúc này anh Hùng mới quay về nháy mắt với cả bọn, anh nói: "Sẵn sàng làm miễu chưa?"
Tôi trợn mắt, chẳng biết dự định của anh Hùng là gì, chỉ thấy Thạch Sinh và Tú Linh ra vẻ hết sức phấn khởi. Kiên Bói Cá nhìn cả bọn với vẻ mặt khó hiểu, phần vì câu chuyện anh Hùng vừa kể, phần vì trước đó anh dặn gã chỉ cần đem theo một người tài xế là đủ, chuyện còn lại cứ để cả bọn lo. Chạy được một đoạn, xa xa đã thấy bóng dáng của một đám người, dưới nước còn có những chiếc vỏ lãi màu xanh ngọc quen thuộc, không còn nhầm lẫn gì nữa, đó chính là bọn Tám Màu. Anh Hùng bảo tôi nhắm mắt lại, xem xem chú Hai Tình đã hành sự đến đâu rồi?
Tôi lập tức tập trung, khi anh Hùng ấn hai ngón tay vào mắt, cảnh vật bát nháo lập tức hiện ra phía trước. Bé Uyên hình như đang bị trói quăng vào một góc, hai bên có hai tên giang hồ đang đứng canh gác, xung quanh là hàng chục tên giang hồ khác đang chạy đôn chạy đáo, chúng múc nước vào những tàu lá dừa rồi đổ vào một cái hố được đào thủ công. Cạnh bên hố là một cái bàn được trải tấm vải màu vàng, đặt trên bàn có đủ thứ đồ linh tinh, nào là nhang, đèn cầy, đèn dầu, mai rùa, phất trần, và những món khác tôi không kể tên được. Vừa tả cảnh vật xong, tôi nghe thằng Sinh cười nắc nẻ: "Công nhận chú Hai Tình cũng không phải người dễ chơi, mấy thứ đó đi chung với nhau chẳng có tác dụng gì cả, chỉ là mấy thứ đồ lừa đảo của mấy tay đạo sĩ rẻ tiền. Điệu này là chú đang giả ngơ câu thời gian rồi!"
Anh Hùng bảo: "Chứ mày nghĩ thả diều của lục lâm là người đơn giản hả? Trận này phải đánh một vố thật kêu để không phụ lòng mong chờ của ổng!"
Nói đoạn, anh Hùng bắt đầu giải thích kế hoạch của mình với mọi người, nghe xong phải công nhận tôi cảm thấy phấn chấn lên hẳn. Xe dừng lại cách đoàn người của Tám Màu khoảng năm trăm mét, tài xế rẽ nào vào một lùm cây rồi cùng Kiên Bói Cá ẩn nấp dưới mép bờ bên phải con đường mòn. Phần tôi anh Hùng, Tú Linh và Sinh thì lội sang bên kia con kênh, len lỏi sau những rặng cây ngập mặn, tiếp cận mục tiêu phía trước. Khi còn cách khoảng năm mươi mét, anh Hùng nhìn về sau, cả bọn gật đầu ra hiệu đã sẵn sàng, anh liền đưa tay bắt ấn, những đường kinh văn bắt đầu xuất hiện trên móng của hai ngón tay cái, anh chụm chúng lại với nhau rồi đưa lên môi. Anh hít một hơi thật sâu rồi thổi ra, từ bên trong cửa họng của anh lập tức xuất hiện những tia nước li ti, làm khoảng vài chục lần như thế thì những tia nước này đã biến thành một làn sương mỏng, thêm vài chục lần nữa thì làn sương ngày càng trở nên dày đặc, phút chốc đã không thấy được cảnh vật phía trước là gì.
Tiếng nói chuyện của đám giang hồ bên kia làn sương ngày càng ầm ĩ, tôi lập tức gọi Thiên Hổ đúng theo kế hoạch, thấy chúng đang tập trung vào chiếc bàn mà Hai Tình đang "làm phép", ánh mắt thằng nào thằng nấy đều lộ vẻ kinh hãi, trong đó có chút thán phục. Hai Tình hình như cũng thấy có biến nhưng khuôn mặt tuyệt nhiên không lộ một chút cảm xúc gì cả, ông biết thừa đây không phải do mình gây ra. Lúc này Tám Màu mới vỗ tay dữ dội, ngay lập tức đám giang hồ cũng làm theo một cách đầy xu nịnh. Lão ta tiến đến bên Hai Tình, dõng dạc nói: "Chú Tình quả thật tài phép cao cường. Giờ chú gọi con cá mú lên cho tôi, đúng như lời hẹn, tôi sẽ thả hai chú cháu về nhà đàng hoàng!"
Hai Tình nghe xong thì bước về phía bờ kênh, ông ngồi xuống, dùng hai tay múc lên một chút nước rồi tưới chúng lên đầu mình. Ông đứng tư thế đinh tấn, miệng đọc lên những câu hết sức khó hiểu, sau đó hai vành môi thổi ra những làn hơi nghe giống như tiếng nước chảy. Từ bên dưới bờ kênh, hàng chục bong bóng nước to bằng cái chén nổi lên, sau đó là tiếng đập nước dữ dội như có hàng trăm người đang tham gia một cuộc bơi lội. Tôi tá hỏa, chẳng lẽ Hai Tình định gọi con cá mú lên thật, không làm chơi như lúc nãy nữa à? Định xông ra thì đã bị anh Hùng kéo lại, anh giải thích hết sức gọn nhẹ, kiểu như Hai Tình đã biết được cứ câu giờ sẽ không phải là ý hay, lúc này ông đã biết sự hiện diện của cả bọn, kêu con cá lên giống như một kiểu đánh lạc hướng thôi. Đợi khi Tám Màu hoàn toàn bị thu hút bởi con cá, cả bọn sẽ ra tay.
Tôi nghe anh nói vậy thì đứng yên quan sát tiếp, từ dưới mặt nước, có một vật thể trông như cái vành thúng nhô lên, sau đó là hai cái vành, rồi đến một cái cửa miệng rộng khoảng hai thước cũng lộ diện. Cái miệng này đang mấp máy như đánh hơi người gọi mình lên là ai, hình như nó biết được người đó là Hai Tình, nó lập tức cựa quậy, vài giây sau trước mắt tôi là một loài trông giống như cá rô nhưng phần da có những đốm đen to như cái rổ. Vảy ở trên trông sắc nhọn vô cùng, chúng đang gồng lên sừng sững, khi thấy xung quanh mình ngoài Hai Tình còn có hơn năm chục người và một màn sương dày đặc, trông mắt nó liền hiện lên sát khí rõ rệt khiến Tám Màu phải lùi về sau mấy bước.
Màn sương này thực chất chỉ là đòn mở đầu, sau khi Tám Màu lấy lại được bình tĩnh tiến đến gần chỗ Hai Tình, anh Hùng lập tức ra hiệu cho cả bọn cứ theo kế hoạch mà làm. Tôi nghe vậy thì liền gọi Thiên Hổ, băng qua lớp sương dày đặc, tiến đến vị trí phía sau Tám Màu và Hai Tình đang đứng, từ trong làn sương tiếng động ù ù vang lên nghe hết sức ghê rợn nhưng thật ra là do thằng Sinh và anh Hùng tạo ra. Đám giang hồ vừa mục kích con cá khổng lồ, lại bị che mất tầm nhìn nên trong lòng không khỏi nao núng, bỗng những âm thanh vù vù xé gió quen thuộc vang lên, Tú Linh phóng ra những cây kim triệt hạ từng thằng. Lúc này, cả đám giang hồ bắt đầu nhìn nhau, ngỡ là gặp hồn ma nào đó nên liền đứng vào tư thế đâu lưng, tay lăm le vũ khí chém loạn xạ.
Thấy vậy, tôi liền cúi thấp trọng tâm, nhắm nghiền mắt lại, tập trung cao độ tung ra một tiếng gầm, trong không gian này, tiếng gầm mặc dù nghe rất oai dũng nhưng lại trở nên ma mị đối với bọn giang hồ, chúng bắt đầu mất đội hình, có vài tên toan bỏ chạy ra ngoài nhưng đều bị Tú Linh phóng kim hạ sạch. Anh Hùng và Sinh ở bên ngoài cũng tiếp ứng, thoáng chốc mấy chục tên giang hồ đã bị hạ, đóng giả làm miễu quả là kế hoạch tiêu hao sinh lực kẻ thù hết sức thông minh của anh Hùng.
Tuy vậy, Tám Màu cũng không phải là một tay nhát gan, thấy đàn em hoảng loạn liền hét lên, bảo cả đám còn lại mau mau lấy dụng cụ ra, tóm gọn con cá rồi mở đường xông ra, ma quỷ gì cũng không chịu nổi một đòn của lão. Bọn đàn em nghe vậy liền chạy đến chỗ cái vỏ lãi lôi ra những cây tre, trên đầu mỗi cây tre đều có gắn một tấm lưới bằng kim loại, dây điện chạy dọc theo thân tre kết nối đến một bình ắc quy đặt dưới mạn vỏ lãi. Tôi hốt hoảng, thì ra là những cái vợt xiệt điện, hình thức đánh bắt cá dã man này đã bị cấm ở một số tỉnh do hậu quả nó để lại vô cùng lớn.
Khác với kiểu đánh bắt cá bằng lưới, cá to dính lại, cá nhỏ thì bơi qua để tiếp tục sinh trưởng, sinh sản, những con cá nào bơi ngay tấm lưới điện gắn ở đầu cây tre đều bị giật chết, cá nhỏ thì bị bỏ lại, xác nổi đầy mặt sông. Tụi giang hồ này thì biết gì đến luật pháp hay hậu quả, chỉ có lợi lộc trước mắt mà thôi. Lưới xiệt điện này tuy không thể nào gϊếŧ chết được con cá mú, nhưng cùng lúc chích vào nó như vậy chẳng phải độc ác vô cùng sao? Nghĩ mà tức điên, chỉ muốn lao ra sống mái với lũ này một trận, nhưng lời anh Hùng có dặn chừng nào anh chưa lộ diện thì hãy vẫn cứ ẩn nấp. Tôi liên tục gầm lên, hy vọng cản được bước chân của bọn Tám Màu nhưng chỉ phản tác dụng, bọn chúng quen dần rồi đâm ra chẳng để ý nữa. Kỳ lạ, sao Tú Linh lại ngừng phóng kim rồi?
Chưa kịp suy nghĩ gì nhiều thì đã thấy bọn giang hồ lâm lâm trên tay cây xiệt điện tiến về phía con cá. Hai Tình nãy giờ cứ cúi gằm mặt xuống, khi thấy những tấm lưới xung điện kê xác con cá, bỗng ông la lên một tiếng dữ dội, ngay lúc này con cá mú liền quẩy đuôi khiến đám giang hồ lùi về sau mấy bước, có thẳng té thẳng xuống lòng kênh. Con cá mú liền bơi chậm vào bờ, lúc này Tám Màu như hiểu ra điều gì đó liền xông tới kề dao vào cổ Hai Tình, con cá thấy chủ nhân mình bị nguy hiểm liền dựng đứng lên cao gần sáu bảy mét, có thể thấy hai vây phía trước của nó đã phát triển thành hình cánh tay. Con cá mú gầm lên, nhoài người về sau như chuẩn bị cho một cú đớp, Tám Màu là dạng lăn lộn giang hồ đã nhiều, thấy không ổn, lão ta liên tục la lên: "Mày đừng có tới đây, tới là tao cắt cổ chủ mày đó!"
Bỗng từ trong màn sương, tôi nghe giọng nói của anh Hùng: "Chà, chú Tám thấy vậy mà gan nhỉ, chú mà gϊếŧ chết chú Hai Tình, con cá này mà để chú chạy thoát thì chú chặt đầu con."
Tám Màu liền lia dao chém loạn xạ, vốn dĩ hắn chẳng biết anh Hùng đang đứng ở đâu, anh thấy vậy liền phẩy tay một cái, làn sương tan đi cũng là lúc tôi nhận ra thằng Sinh vừa xử xong thằng giang hồ cuối cùng, tiện tay tóm cổ nó lôi theo mình luôn, Tú Linh thì đã cõng Uyên trên lưng tự lúc nào. Xung quanh tôi, hơn năm chục thằng giang hồ đang nằm lăn qua lăn lại, rên lên ư ử làm tôi nhớ lại những thằng bị Tú Linh phóng kim trong trường đá gà, cảm giác đau đớn tột cùng. Tám Màu thấy cả đám xuất hiện liền khua dao qua lại, con cá mú thấy lão vẫn chưa buông chủ mình ra liền rú lên một tiếng nghe lạnh cả sống lưng, Tám Màu bị mất đà ngã ngược về sau, Hai Tình nhớ thế cũng thoát ra được, liền nhảy về phía chúng tôi. Tám Màu khạc một bãi nước bọt rồi quay lưng bỏ chạy, tôi định đuổi theo nhưng đã bị anh Hùng ngăn lại.
Bỗng từ đằng sau nghe tiếng thằng Sinh: "Đại ca, lại coi cái này nè!" Sinh kéo tay áo thằng đó lên, trên đó có một hình xăm kỳ lạ, có vài chữ viết nguệch ngoạc và một sợi dây xích trói quanh một con rồng, anh Hùng khẽ chau mày, Sinh nói tiếp: "Hình xăm này y chang của thằng Tùng Na Long Hội! Nãy em để ý kỹ thằng này lắm, thấy cái hình xăm là lại nhớ chuyện xưa mà!"
Anh Hùng nói cứ tạm thời bắt giữ nó đi, rút nhanh rồi tính tiếp. Một tiếng sau, chúng tôi đã đến dinh thự của Kiên Bói Cá, Hai Tình kể lại sự tình, ông vốn đã biết được chuyện anh Hùng bắt Ấn Thiên Nhãn Hộ Pháp lên đôi mắt của Uyên nên cố tình câu giờ, đến lúc hơn phân nửa đám giang hồ bị hạ gục thì gọi con cá mú lên, lúc đó Tám Màu không có đàn em hỗ trợ, dám làm bậy là ăn ngay một cú đớp của con cá liền. Tôi mới hỏi: "Vào U Minh có xài bồ câu này không chú?"
Hai Tình lắc đầu: "Không, bồ câu của qua không chở người liệng ngang U Minh. Vào trong đó phải nhờ lại một người bạn cũ!" Đoạn, ông nhìn sang đệ của Tám Màu, giờ nó đã bị Tú Linh châm đầy kim trên trán rồi trói lên ghế: "Không phải qua chê, nhưng Na Long Hội làm gì còn. Thằng nhóc con này chắc chỉ trùng hợp mà có hình xăm này thôi."
Tôi vừa buồn vừa mắc cười trong bụng, chuyện ở Ca Lâu Thành cũng không muốn nhớ tới làm gì, anh Hùng chỉ kể lại qua loa. Hai Tình nghe xong thì bắt ghế ngồi trầm ngâm, anh Hùng ra dấu cho Tú Linh, cô liền rút kim ra, thằng Na Long Hội tỉnh dậy thì nhìn láo liên xung quanh, chẳng hiểu chuyện gì đang diễn ra. Nó liên tục kêu lên, đòi chúng tôi thả nó ra không thôi nó chém chết cả đám, thằng Sinh nghe xong liền bước đến tán cho nó mấy cái liên tục, thằng nhỏ mếu máo muốn khóc anh Hùng mới ngăn thằng Sinh lại. Anh vạch tay áo của nó lên rồi bảo: "Hình xăm này đẹp quá, ai xăm cho chú em vậy?"
Nó đáp, giọng có phần dịu lại: "À, một tiệm trong thành phố. Hia muốn không tui chỉ cho, thợ xăm bảo đảm lành nghề, còn kiêm luôn cả chữa bệnh và bói toán. Có cái hình xăm thôi mà bắt bớ nhau ghê vậy!"
Anh Hùng kéo cái ghế, ngồi ngang hàng với thằng này, anh chậm rãi nói: "Chú em mày lại không hiểu rồi. Anh hỏi thêm một lần nữa nhé..." Nói đến đây, anh quay sang nhìn thằng Sinh, nó săn cánh tay áo để lộ ra Phục Ma Chú rồi anh nói tiếp: "Hình xăm này chú em mày ở đâu mà có?"
Thằng Na Long Hội sau khi thấy Phục Ma Chú của thằng Sinh thì ánh mắt hiện rõ vẻ kinh hãi, nó đưa mắt nhìn tôi, Tú Linh, Hai Tình rồi dừng lại ở vị trí của anh Hùng, giọng nói của nó ấp úng: "Thì ra... thì ra mấy người là lục lâm. Vậy mà... mà tui cứ tưởng là gặp miễu biết hát thật. Mấy người muốn gì, tui khai hết, tui không còn là người của cái tổ chức đó nữa đâu!"
Tưởng chừng như phải hỏi cung dữ lắm thì nó mới khai, tôi quên rằng Na Long Hội toàn là một đám giảo hoạt, hai mặt, làm gì biết đến hai chữ "trung thành". Thằng này tên là Bình, trong Na Long Hội nó được tặng cho biệt danh Chó Ma, cũng là một tên có máu mặt, ngày xưa nằm trong đội đi tìm ngọc rết Ngô Công Kim Thân ở U Minh Hạ. Nghe thằng Chó Ma kể ra mới biết, trước thời gian đội của ả La Tiên vào Ca Lâu Thành và đυ.ng mặt chúng tôi, đội của Chó Ma cũng phải trầy trật ở U Minh hết một chặng, thế nhưng trái với ả La Tiên, đội của Chó Ma sáu người bị chết hết năm, nhiệm vụ thất bại hoàn toàn, Chó Ma là thằng duy nhất còn sống. Lúc thoát ra ngoài, Chó Ma được Tám Màu cứu nên theo lão ta từ đó.
Thằng Sinh đứng sau nói vọng lên: "Tụi mày tìm ngọc rết làm gì? Khai ra cho bằng hết không tao đánh cho nát xương hết thì mới hả dạ!"
Chó Ma nghe xong thì người run lên bần bật, van xin thằng Sinh: "Đại ca ơi là đại ca, em nói em nghĩ đi rồi, ngày xưa cũng vì tiền thôi chứ có biết tên đầu lĩnh điên điên khùng khùng đó muốn làm cái gì đâu..."
Anh Hùng thắc mắc: "Điên điên khùng khùng?"
"Đúng rồi hia, suốt ngày thằng cha đó cứ đeo mặt nạ, xuất hiện rồi nói có vài câu, giao nhiệm vụ xong thoắt cái đã biến đâu mất tiêu. Làm như hay lắm, được cái là nhiệm vụ nào cũng được trả tiền xài thả ga!"
"Còn mày nghĩ đi là do nhiệm vụ thất bại?"
"Cũng một phần thôi... Đại ca hỏi em như vậy, không lẽ muốn đi vào Lõi rừng U Minh? Em khuyên thiệt tình, đừng có vô, không có toàn mạng trở ra đâu!"
Hai Tình nghe tới đó thì cười nhếch mép, ông gãi gãi cái tai, bắt chéo chân chữ ngũ, chờ xem bọn tôi sẽ phản ứng như thế nào. Anh Hùng trầm ngâm một hồi lâu, đoạn quay sang hỏi Chó Ma tại sao lại nói như vậy, nó bắt đầu kể lại chuyến đi của đám Na Long Hội nọ. Cũng hơi xui xẻo, Chó Ma không phải là một thằng giỏi kể chuyện, câu chuyện hết sức rời rạc. Về cơ bản đội hình đi vào U Minh của Chó Ma hùng hổ hơn đội hình đi vào Ca Lâu Thành, gồm có sáu thủ lĩnh Na Long Hội và hơn ba chục tên cóc ké. Tôi nghe thì có thể tóm gọn lại một số chi tiết về những cái chết của bọn thủ lĩnh: thằng đầu tiên đang lội dưới đầm lầy thì bị một cái cây mọc đầy đủ tay chân rượt, dùng những xúc tu siết đứt lìa làm đôi; thằng thứ hai bị muỗi rút cho bằng sạch máu, chỉ còn lại lớp da và mỡ; thằng thứ ba và thứ tư bị loài thú điên cuồng với cặp mắt đỏ ối lẫn trốn trong màn đêm xông ra móc lục phủ ngũ tạng nhai ngấu nghiến; thằng thứ năm bị sinh vật gì đó to bằng cái cây với răng nanh nhọn hoắt tấn công, nó đớp ngang một phát thì chỉ thấy cặp chân còn sót lại dưới đất.
Chó Ma là thằng thủ lĩnh cuối cùng còn sống sót, câu chuyện lúc này cũng bớt rời rạc hơn. Chuyện là, đang băng giữa cánh rừng, trời lúc đó đã nhá nhem sáng, còn chưa biết phải xử trí như thế nào thì Chó Ma thấy một căn chòi mọc lên thấp thoáng giữa những bụi cây rừng, trước căn chòi có một cái ao nhỏ hình tròn. Tưởng là chòi lá của kiểm lâm, Chó Ma liền dẫn đám đàn em còn lại xông vào, tìm điện đài hay thứ gì đó rồi gọi cứu hộ cứu ra ngoài, sáu thủ lĩnh chết hết năm, đoàn đi hơn ba chục mạng giờ còn lại bốn mạng, ai nấy đều lộ rõ vẻ kinh hãi thì quên ngọc rết ngọc rắn gì đi cho rồi. Cả bọn liền tủa ra, trèo lên những cành cây gần đó, áp sát căn chòi thám thính tình hình, thấy không có ai, vừa định phóng xuống thì Chó Ma nghe một âm thanh đập nước vang lên từ phía bờ ao. Nhìn kỹ lại thì ra là một ông lão tóc hoa râm, bận bồ đồ bảo vệ, quần kaki, áo phạch ngực đang ngồi khua chân dưới nước. Quái lạ, lúc nãy đi ngang thì bờ ao làm gì có ai, còn chưa biết phải nghĩ như thế nào thì đã nghe ông lão nói: "Vào nhà của người khác mà không xin phép là mất lịch sự lắm đó nhe!"
Bất chợt xung quanh ông lão, còn hàng trăm cặp mắt đỏ hoe xuất hiện trong những bụi cây, ông lão chầm chậm quay đầu lại, Chó Ma vừa chớp mắt một cái đã thấy ông ta đứng giữa đội hình bốn người. Đó là tất cả những gì Chó Ma còn nhớ, lúc tỉnh dậy thì đã thấy mình ở nhà Tám Màu, lão giang hồ nói là thấy Chó Ma nằm trên một thân gỗ, trôi trên dòng nước nên mới vớt lên, coi như chịu ơn cứu mạng, ở lại làm việc cho lão. Chó Ma nghe xong liền gật đầu lia lịa, trong lòng cũng chẳng muốn quay lại Na Long Hội mà báo cáo. Phần chúng tôi, nghe xong câu chuyện thì thấy có chút màu hư cấu, riêng Hai Tình thì vẫn giữ khuôn mặt đăm chiêu, ông trề môi rồi lắc lắc cái đầu tỏ vẻ ngao ngán.
Lúc này, anh Hùng mới cởi trói cho Chó Ma, mặc dù là người của Na Long Hội thì không muốn thông cảm nhưng thấy tình cảnh của anh chàng cũng tội nghiệp thật, anh khuyên từ nay về sau rút được khỏi lục lâm thì rút luôn khỏi giang hồ đi, kiếm công việc gì đó đàng hoàng mà làm. Chó Ma nghe xong thì gật đầu nhưng tôi nghĩ là cho có lệ thôi, xong thì lẩn thẩn đi thẳng ra cửa. Hai Tình lúc này mới chịu lên tiếng: "Câu chuyện của thằng nhóc đó kể nói thật một trăm phần trăm thì không phải, nhưng mười phần cũng đúng tám chín phần rồi. Qua biết khuyên nhủ giờ cũng vô ích, bản thân qua cũng chịu ơn mấy bậu. Đi thì đi, nhưng phải tránh ông già trong câu chuyện. Được chứ?"
Anh Hùng gật đầu, còn hỏi thêm: "Ông đó là Hai Quang, lục lâm gọi là Quang Lửa đúng không chú Hai?"
Hai Tình thở dài rồi gật đầu, vừa nói vừa quay lưng đi thẳng: "Qua chỉ dẫn mấy bậu băng qua bìa rừng. Từ đó về sau, có họa thì tự do mấy bậu chuốc lấy."