Hồng Quán thân là sư huynh Tư Lĩnh, đồng thời trong giới Hành Gia đã nổi danh là người cắm nhang ngàn nắm đất, bản lĩnh tuyệt nhiên không thể xem thường được, Phúc Nguyên vì thế mới nghe theo lời của Văn Khởi, tìm đến anh để nhờ đi bốc cái bát hương Cổ Nhân Thiên Tướng Tiên Cung. Kiến thức về các thế mộ, cách táng, trong giới Hành Gia dĩ nhiên là được ghi chép vô cùng cẩn thận, Hồng Quán là người ưu tú nên cũng nắm rõ chín phần. Hồng Quán trong cuộc hành trình này, từ đầu chí cuối đều tỏ ra cẩn thận, mặc dù đạo hạnh cao thâm, nhưng luôn đề phòng chứ không tỏ ra khinh địch, nên những gì Quán nói, nhưng người còn lại luôn lấy đó làm phòng bị, tâm lý vì thế không tránh khỏi có chút nặng nề.
Phúc Nguyên nhớ lại lời Quán kể về Con Hòm Khôn lúc anh vào Ngọc Liên Huyệt. Con Hòm Khôn vốn dĩ là những sinh vật sống bên trong quan tài, có hai kiểu, một là chúng vô tình kẹt vào, sinh sống và lớn lên, loại này vẫn được gọi là Con Hòm Khôn, nhưng ngẫu nhiên như vậy, biết kiếm đâu ra cho đủ để cung cho những người yêu cầu áp mộ? Thế là mới có loại Con Hòm Khôn thứ hai, là nuôi. Hồng Quán vừa nói, chính là ám chỉ nơi đây như một "chuồng", của một đạo sĩ nào đó, tạo ra để nuôi Con Hòm Khôn.
Tuy nhiên có một điều còn ghê gớm hơn, Phúc Nguyên hỏi: "Anh nói có mộ nào đó cần có cá hô chúa làm Con Hòm Khôn, mộ đó chẳng lẽ nằm dưới đáy sông Hậu?"
Tư Lĩnh lắc đầu: "Thôi, mình đừng bàn sâu vào chuyện này, nhị ca à, gì thì gì, chứ lặn xuống dưới sông Hậu bốc bát hương, Hành Gia Lão Tổ Tông độ mình không nổi đâu!"
Hồng Quán nói: "Thì anh có nói là sẽ đi bốc cái bát hương đó đâu mà đệ lo, Thiên Tướng Tiên Cung còn chưa bốc xong, ở đó lo đâu xa xôi. Cái anh nói ban nãy, đó là từ đầu chuyến đi đến giờ, có quá nhiều thứ trùng hợp đến khó tin, ví như gặp thầy Tư, nơi đó có Ngọc Liên Huyệt, sau đó lại gặp đám cá hô thành tinh, cuối cùng là đến được nơi có Loạn Tám Mươi Mốt Mộ này."
Ba người còn lại chăm chú lắng nghe, Bảo An thì vừa liếʍ chân, vừa đảo mắt quan sát xung quanh. Hồng Quán im lặng giây lát để mọi người suy nghĩ, rồi nói tiếp: "Nơi đây, theo anh vừa đi khảo sát, mộ được xây theo bố cục Loạn Mộ, chỉ có khả năng dùng để nuôi Con Hòm Khôn. Mà vừa nãy con cá hô chúa thập phần quái dị, chẳng thể vì thành tinh mà lại ra thân hình như thế, có chăng nó vốn là Con Hòm Khôn thì sao?"
Tư Lĩnh nói: "Chẳng phải Con Hòm Khôn chỉ sống được trong quan tài thôi sao? Nó ra khỏi quan tài là chết ngay, con cá hô chúa ban nãy hành cả đám mình lên bờ xuống ruộng, nó sống chắc cũng gần cả trăm năm chứ chết gì, nhị ca coi phải không?"
Hồng Quán nó: "Đúng vậy, nhưng huyền thuật vốn trăm phương ngàn cách, người ngày xưa tạo ra, người ngày nay thêm mới, trải qua mấy cuộc bể dâu như vậy, có khi kiến thức đến tai bọn mình thì đã thay đổi đi nhiều."
Phúc Nguyên tiếp lời: "Có khi... Cả cái sông Hậu này chính là cái quan tài, giam giữ Con Hòm Khôn cá hô chúa đó thì sao?"
Nghe đến đó, ai cũng im lặng, chính là cảm giác mông lung bé nhỏ trước tự nhiên. Sông Hậu cuộn trào sóng dữ, lại thẳm sâu tăm tối, làn nước mờ đυ.c, ngàn xưa đến nay chôn giấu trong lòng nó không biết bao nhiêu bí mật, ai dám khẳng định rằng chẳng có một cao nhân Hành Gia nào đó có thể xoay chuyển Càn Khôn, đảo sơn nghịch thủy để mà biến Hậu Giang từ một con sông nhuốm màu đáng sợ, trở thành cái quan tài tự nhiên khổng lồ, cũng đáng sợ không kém!
Câu hỏi chỉ là: nếu quả thực Hậu Giang là một cái quan tài, có Con Hòm Khôn là một quái thú cá hô dài gần mười thước, vậy, người nằm trong mộ đó là cái thứ gì nữa cơ chứ?
Phúc Nguyên phá vỡ không gian im lặng, lên tiếng trước: "Đúng như anh nói, tôi mong rằng những gì chúng ta trải qua, nhất nhất đều vì tình cờ, nếu hết thảy chúng đều có liên quan với nhau như sợi xích thì câu chuyện đằng sau hẳn phải vô cùng kinh khủng!"
Tư Lĩnh nói: "Rồi, giờ chúng ta nên làm gì đây? Chẳng lẽ đứng vậy tới sáng?"
Hồng Quán nói: "Dĩ nhiên là di chuyển đi rồi. Xuồng máy thì đã hỏng, thậm chí có dùng chèo bơi dọc mé, thế nào cũng bị lính đồn bắt lại, giờ chỉ còn cách đi băng qua khu Loạn Mộ này, xem đầu bên kia là đâu, rồi mới tính được."
Tư Lĩnh lắc đầu: "Lúc nãy con cá chúa lao đi như điên, đệ chẳng tài nào nhìn được nó lao về đâu, không biết có qua được bờ Trà Vinh hay chưa nữa!"
Phúc Nguyên nói: "Thực ra ban nãy có ai nhìn được gì khác ngoài màu đen, thử hỏi Bảo An xem."
Bảo An nói, lúc ấy có một đoạn xuồng lắc lư liên tục, nó lại vừa bình thường lại sau khi hóa yêu thú, nên dĩ nhiên chẳng xác định được phương hướng gốc ban đầu thì làm sao xác định phương hướng đoạn sau được. Hồng Quán tỏ vẻ thất vọng, vì đúng là cần phải xác định được đã qua bờ Trà Vinh hay chưa, mới biết là nên đi qua khu Loạn Mộ này hay là nên sử dụng lại chiếc xuồng móp méo đó mà bơi dọc bãi, nhận biết hướng.
Hồng Quán nói: "Không phải lo, tôi cho rằng chúng ta đã qua bờ Trà Vinh rồi!"
Tư Lĩnh và Phúc Nguyên ngạc nhiên hỏi, do đâu mà Hồng Quán chắc chắn như vậy, vì ngay cả bây giờ nhìn hướng bằng trăng cũng khó. Quán bình thản đáp: "Dựa vào lũ cá hô."
Hồng Quán giải thích, cá tuy vô vàn loài, lại sống ở nhiều địa hình, nhiều dạng nước, nhưng bản thân chúng khi trong trạng thái bình thường, đều thích bơi ngược dòng nước. Dù nghe qua có vẻ tốn sức, nhưng bơi ngược dòng chúng dễ điều chỉnh phương hướng, dễ săn mồi, đón lượng nước để thở, vậy suy ra được, hướng ban đầu bọn chúng là ở bờ Trà Vinh. Vì khoảng giữa Cồn Mỹ Phước, hướng đến bờ trong của Sóc Trăng, trải dài đến Song Phụng, nước nông, nhiều bùn, không phải nơi cá hô thường thích sống, huống gì là cá hô thành tinh. Mé bên Trà Vinh, nước sâu, chảy mạnh, lúc bị tấn công, cá quay về tổ, nên Quán đoán nơi này cũng là ổ của đám cá đó, có lẽ đâu đó ngoài mé nước ngoài kia là một hố nước sâu cho chúng trú ngụ.
Tư Lĩnh nghe đến đó, hiểu rằng hiện giờ cả bọn chỉ còn cách đi băng qua khu Loạn Mộ này, trong lòng không khỏi ngán ngẩm, nói: "Nếu vậy thì đi thẳng qua đám mả này là nhanh nhất, nói thì dễ, nhưng đồ đạc chúng ta phần lớn đều rơi mất, chỉ còn mấy cây dao nhỏ, với Thiết Bút và Tỏa Sơn Tiên, gặp yêu ma quỷ quái thì khó lòng mà chống cự lại hết, hay là đợi đến sáng hẵng đi?"
Hồng Quán nói: "Nếu thật là Loạn Tám Mươi Mốt Mộ thì có đi ngày hay đêm, đều có thể gặp ma quỷ, huống hồ bên kia bến chỗ Đồn giang thuyền, sau đợt ban nãy, có lẽ bọn chúng đã phát hiện ra đám mình là chủ mưu và cho người đi lùng sục, em muốn đi bốc bát hương hay muốn vào nhà đá đây?"
Phúc Nguyên nói: "Anh Tư yên tâm, trong giới bọn tôi có nhiều phương cách trừ tà diệt ma không cần dùng đến dao kiếm, tôi tuy đạo hạnh không cao, nhưng nếu căn cứ vào âm khí nơi này để dự đoán ma quỷ, tôi cảm thấy bản thân vẫn có thể hữu dụng mà tiêu diệt được bọn chúng."
Hải Yến nãy giờ nghe ba người nói qua lại, có phần khó hiểu, nay thấy quá tò mò, nên hỏi ngay: "Loạn Tám Mươi Mốt Mộ và Táng Mộ Thư, tuy cha tôi cũng là thầy dẫn thây, nhưng sao nghe lạ quá, nó là gì vậy?"
Hồng Quán nhân đó mà giải thích lại, kỳ thực cả Phúc Nguyên và Bảo An cũng chưa được tường tận, Tư Lĩnh thì sợ mình nhớ sai, nên bốn người đều chăm chú nghe.
Trước tiên cần nhắc lại, trường phái tống xác dẫn thây của Lương sư phụ là giúp người khác có được cách chết "đẹp", gọi là "nằm trên thế đất, mộ xây theo trời", tất cả đều kỹ lưỡng, dựa trên nguyên lý âm dương, Kinh Dịch. Hành Hương phái, thoát xác từ những thầy dẫn thây, lại nghiêng về nghiên cứu mộ có sẵn, để hoặc là bốc bát, hoặc là phá mộ, áp mộ, trấn yểm. Hồng Quán trước kia theo sư phụ Hành Gia đi bốc bát, từ sớm đã nhìn ra mặt tối ác ôn của rất nhiều đồng đạo, chán ngán Hành Gia nên không muốn bốc bát hại người nữa, chỉ muốn tìm Thi Nhân trong truyền thuyết của Hành Gia mà thôi. Vậy nên, Táng Mộ Thư, kỳ thực là quyển sổ ghi chép của Hành Gia, Lương Hải Yến dĩ nhiên không được biết là đúng. Nói không biết, ấy là đang nói về tên, còn các phương thuật bên trong, Lương gia hẳn đã có nghe qua, vì vậy nên mới có chuyện, Lương Khiết Trì cản trở Hành Gia khi bốc bát hương xứ Gò Công.
Táng Mộ Thư bên trong có ba mươi sáu thiên, bảy mươi hai khẩu quyết, đều nhằm một mục đích nghiên cứu gần như hết tất thảy mồ mả trên thế gian, từ thiên táng, đến mộc táng, thủy táng, hỏa táng, đều được ghi chép lại một cách kỹ lưỡng.
Như đã nói ở trên, sở dĩ Hành Gia ghi chép cẩn thận là vì mục đích muốn trộm mộ, đào huyệt, phá quách, cạy nắp quan, tất cả đều phải có hệ thống, nghiên cứu để tìm ra đặc điểm chung. Cái ác khi đi theo một nhóm thì đáng sợ đến thế! Mục đích thứ hai, đó là Hành Gia, vốn không quan tâm đến các nguyên lý của thầy phong thủy, thì nay có thể dựa vào cách bố trí mộ huyệt của người khác, từ đó tạo ra những thứ để chống lại chính những nghiên cứu của thầy phong thủy, gọi là gậy ông đập lưng ông, ví dụ là Con Hòm Khôn hoặc cách áp mộ Ngọc Liên Huyệt chẳng hạn.
Đó là nói về nội dung của Táng Mộ Thư, còn cái gọi là Loạn Tám Mươi Mốt Mộ là một trong ba mươi sáu thiên trong đó, thiên Loạn Mộ. Trong Loạn Mộ này có ba loại, Loạn Chín, Loạn Hai Bảy và Loạn Tám Mốt. Khi nãy Hồng Quán vào trong xem xét, thấy mộ ở đây đúng là bày trí theo thế "Loạn", gọi là "Quần mộ hợp long, Nhất gia cảm ứng", hai mộ đôi vây quanh một mộ đơn, hai bày trí như vậy là một "Thước", hai "Thước" thành một "Quan", cứ thế xoay thành hình cánh cung, để ở giữa năm "Thước" và một mả đôi, lấy mả đôi làm "đinh tán", lại từ đó phân chia âm dương về các nơi theo thế trận bày sẵn, kỳ thực phức tạp vô cùng, ở đây chỉ là nói đại khái, chuyện mồ mả âm phần bao đời nay đều không hề đơn giản.
Vậy "Loạn" nghĩa là sao? Đó không phải là để mồ mả lung tung lộn xộn, mà "Loạn" là cách nói lấy cảm hứng từ Gia Cát Lượng tạo ra Bát Quái Trận Đồ. Thế tại sao không gọi là "Bát Quái Mộ", hay "Trận" gì đó mộ, mà lại là "Loạn Mộ"? Chẳng gì sâu xa cả, ghi cụ thể quá, người ta lại biết về cách bày trí, chẳng phải Hành Gia, suy cho cùng đều hoạt động trên tinh thần đi lừa người khác hay sao, làm cho nó thêm huyền bí, người ta mới thấy nó ma quái.
Phúc Nguyên càng ngày càng biết thêm nhiều thứ về Hành Gia, cảm thấy họ thật phức tạp, dù chỉ là một nhóm trộm mộ mà thôi. Hải Yến thì trầm ngâm, dù là cùng một gốc xuất phát từ các thầy tống xác dẫn thây vùng Tương Tây Hồ Nam, nhưng khi đến vùng đất mới, yêu cầu thời cuộc mà tách ra thành những nhóm người khác nhau đến đối nghịch. Dù sao đi nữa, bản thân Hải Yến vẫn thấy không thích cách làm của Hành Gia, lừa đảo vẫn mãi là lừa đảo.
Dù không thích Hành Gia là một chuyện, nhưng Hải Yến vẫn thấy Hồng Quán xứng đáng là trang nam tử hán, đội trời đạp đất, lại khẳng khái không câu nệ, vẫn có ý định đi theo chung nhóm, mong muốn được mở mang tầm mắt, thử lăn lộn giang hồ một phen, liền nói: "Dù sao cũng đã lạc vào đây, coi như chúng ta là đồng đạo, trước mắt cần phải băng qua Loạn Mộ, mọi điều xin nhờ các anh giúp đỡ!"
Tư Lĩnh tuy vai vế là sư đệ của Hồng Quán, nhưng tuổi đời lớn nhất cả bọn, có câu người sống càng lâu càng tinh ý, chỉ mấy lời của Hải Yến vừa nói, lão cũng đã hiểu được gần hết tâm tư của cô, liền cười rồi nói: "Con gái của Lương sư phụ lại khách sáo rồi, sắp tới chắc phải bảo với sư huynh của tôi hợp sức với cô nhiều!"
Hải Yến nghe xong, cũng hiểu rằng Tư Lĩnh biết rằng cô đang để ý đến Hồng Quán, da mặt đỏ ửng lên, cũng may đang tối trời nên không ai thấy. Riêng Hồng Quán thì vẫn còn chưa hiểu, anh còn đang suy tính xem sẽ vượt qua Loạn Mộ này như thế nào.
Tình cảnh hiện giờ dù lạc quan cũng không dám nói là dễ, vũ khí không còn, bãi bồi này thuộc khúc nào của sông Hậu cũng chưa rõ, nhưng có lẽ không xa nếu so với đầu bến giang thuyền mé Trà Vinh. Mặc dù Hồng Quán đã chứng kiến những bài Chú đầy uy lực của Phúc Nguyên, nhưng trong bãi Loạn Mộ này, chưa biết ma quỷ ra sao, mạnh hay yếu, nhiều hay ít, rồi còn hiểm họa từ bao nhiêu Con Hòm Khôn, thật khiến người khác lo nghĩ.
Hồng Quán nói: "Bây giờ có lẽ đã qua giờ Hợi, tình hình này đi cũng khó mà ở cũng khó, tuy nhiên ở lại đây mãi cũng không phải ý hay, mọi người cùng nghĩ cách để vượt qua Loạn Mộ này xem sao."
Phúc Nguyên nói: "Tôi thấy cứ tranh thủ lúc lính Pháp chưa phát hiện ra chúng ta ở đây, cứ đi vào khu vực này. Bảo An dùng mắt mèo dẫn đường, tôi sẽ đi bên cạnh nó để đề phòng ma quỷ tấn công, anh và Tư Lĩnh giải mã dần địa thế Loạn Mộ này, còn Hải Yến cô nương đây thì với tuyệt kỹ tống xác, tôi tin là thế nào cũng có lúc hữu dụng!"
Bảo An khịt mũi, nói: "Đúng là tui nhìn thấy rõ đường để đi, nhưng nếu cứ lần mò trong đống Loạn Mộ ấy đến sáng, tôi thấy hơi nguy hiểm cho mọi người thôi!"
Hồng Quán sực nhớ lại điều gì đó, liền nói: "Có lẽ chúng ta không lần mò trong đó lâu đâu, tôi nghĩ đi vào một chút sẽ có trợ giúp."
Tư Lĩnh lắc đầu, nói: "Nhị ca à, trong khu này chỉ có ma quỷ thôi, làm gì có ai mà giúp?"
Phúc Nguyên hiểu ý Hồng Quán, tiếp lời rằng: "Ý của anh Quán cũng không phải không có lý. Mọi người hãy nhớ, đồn giang thuyền của Pháp lập ra, kiểm soát chặt cả một khúc sông, ấy vậy mà nghĩa quân vẫn có thể đánh úp được. Địa hình nơi này phức tạp, hai bên bờ sông cây cối nhiều, nơi này lại cách biệt, ý của anh Quán phải chăng đoán chừng bên trong khu này có căn cứ của nghĩa quân?"
Hồng Quán gật đầu: "Đúng vậy, nhưng chỉ là đoán vậy thôi. Nghĩa quân thoắt ẩn thoắt hiện, khiến lính Pháp thất kinh bát đảo, thì nơi trốn cũng phải kỹ lưỡng. Rễ bần ở đây vẫn còn mọc đều, không bị gãy, cho thấy ít nhiều rằng nơi đây ít bị càn quét bởi lính Pháp, cho nên tôi đưa ra suy luận ấy thôi, huynh chớ chê cười."
Ở đời thế nào chẳng gặp những lúc, bản thân muốn làm nhưng ngoại cảnh lại không đồng thuận để ta có thể trơn tru hành động, ta vẫn hay tự động viên bản thân bằng những lý do, cốt yếu chỉ để việc hành động trở nên hợp lý hơn mà thôi. Kỳ thực chuyện muốn vào Loạn Mộ là suy nghĩ của Hồng Quán, linh cảm bảo rằng bên trong ấy có chứa lời giải cho nhiều điều anh còn đang vướng bận, nhưng tình hình thực tế cho thấy việc ấy lại quá nguy hiểm, chẳng biết có phải vì thế mà anh cho rằng bên trong khu này có thể có nghĩa quân đang trú đóng hay không, như vậy thì lý do muốn đi vào lại trở nên đúng. Hồng Quán nghĩ xa là vậy, nhưng Tư Lĩnh, Hải Yến và Bảo An đều cho rằng đó là hợp lý.
Bảo An khịt mũi, nói: "Đúng là bên trong có mùi của con người, có điều... có cả mùi tử thi nữa!"
Tư Lĩnh đáp: "Đúng rồi, chẳng phải như vùng Gò Công, Tháp Mười, vẫn có rất nhiều nghĩa quân nếm mật nằm gai trong rừng rậm, chuyện chết chóc làm sao tránh được, vậy nên thế nào cũng có mùi tử khí!"
Hải Yến nói: "Chẳng phải khi nãy Bảo An nói rằng có thứ gì đó chạy ngang hay sao? Thú hoang, hay là người, hay là...?"
Hải Yến cố tình bỏ lửng cuối câu, hầu như ai chẳng biết ý cô muốn nói đến là gì, thực ra nói rằng do ma trêu quỷ chọc hay Con Hòm Khôn quậy phá nghe hợp lý hơn thú hoang chạy rất nhiều.
Bảo An lắc đầu, nói: "Không đoán được. Thứ ấy chỉ vụt qua rất nhanh, rồi lại rút vào sâu trong tán cây, tui bị rối loạn mùi vị, chẳng phân biệt được, nhìn bên trong cũng không tài nào thấy gì khác ngoài cây lá và mấy đυ.n mả đất..."
Tư Lĩnh lần nữa nhìn vào bóng đen dày đặc, nói: "Thật là khó nghĩ, hông ấy chúng ta đợi thêm một chút nữa, đợi khi vải khô, đệ đốt vài cây đuốc, đi cho an tâm?"
Bảo An chợt vểnh tai lên, nó nói: "Tàu Pháp tới rồi kìa, đã quá giữa sông, phen này chúng ta không có sự lựa chọn rồi, nghe tiếng thì chắc phải đến chục xuồng tuần tra có đèn pha, đứng đây chốc nữa chẳng thể nào qua mắt được đám lính đó đâu."
Bốn người còn lại liền đưa mắt nhìn ra phía giữa sông, đúng là đã thấy rất nhiều đốm sáng nhỏ, là đèn pha trên xuồng, đang chạy về hướng này. Hồng Quán nói: "Tại sao chúng lại hành động nhanh được như vậy?"
Phúc Nguyên tiếp lời: "Gấp gáp như vậy cho thấy đã có biến, bằng không chúng có thể chặn ở đầu Trà Vinh mà bắt chúng ta rồi. Có khi nào... Có khi nào tên Bình thoát được khi nãy, về báo lại thân phận của Bảo An, nên bọn chúng mới huy động nhân lực nhiều như vậy?"
Hồng Quán gật đầu, đúng là không thể loại trừ khả năng đó được.
Hải Yến lúc này vội giục: "Chẳng còn lựa chọn nào khác rồi, tôi thấy cứ theo phân công của anh Nguyên như vừa nãy, tạm thời cứ lánh vào khu Loạn Mộ này đã, nếu tình hình đường đi không ổn thì chỉ cần nấp đợi đến khi chúng rút đi thôi!"
Tư Lĩnh lắc đầu, nói: "Cô gái à, cái xuồng máy khi nãy lao lên bãi, để lại một vết to thế kia, chúng rọi đèn làm sao không thấy được? Đến nước này rồi thì chúng ta bắt buộc chạy được bao xa thì chạy đó!"
Tư Lĩnh nói không sai, cái xuồng to lù lù, chưa kể khi lão lên đã làm đổ rạp gãy ngã rất nhiều cây cối dưới bãi bồi, khó lòng mà giấu được. Hồng Quán xắn tay áo lên, cầm chắc Thiết Bút, nói: "Mọi người, đi nhanh, Phúc Nguyên và Bảo An đi đầu cảnh giới, tôi và Tư Lĩnh hai bên, Hải Yến cô nương đi ở giữa, mọi người dù có gặp chuyện gì cũng không được tách rời, vào trong đó, khó lòng nói trước được điều gì!"
Tất cả gật đầu rồi theo đó mà đi vào. Bãi bồi thoải, cách mép nước tầm mười thước, đất dần khô cứng, có cỏ mọc, cho thấy thủy triều ít lên tới đây. Vừa đi vài bước đã thấy mộ kề mộ, mả liền mả, âm u lạnh lẽo vô cùng, không gian thì tối đen, ánh trăng trên cao bị tán cây che khuất gần hết, nhìn xuống chân không thấy ngón, giơ tay ra trước đã không thấy bàn tay, Bảo An luôn miệng nhắc cẩn thận dưới chân, Phúc Nguyên cầm Tỏa Sơn Tiên vạch đường đi, Hồng Quán cầm Thiết Bút thủ thế, Tư Lĩnh và Hải Yên mỗi người cầm một cây dao găm, năm người đều tập trung cao độ.
Đi chừng vài chục thước, bố cục mộ dày đặc hơn, trong này tuy âm u rậm rạp, nhưng tiếng gầm của mấy chiếc xuồng tuần tra đã vang dội đến, cho thấy sớm muộn bọn chúng cũng vào được tới đây, Hồng Quán liền giục Bảo An và Phúc Nguyên, cứ đi nhanh hơn, không gian xung quanh vẫn chưa có dấu hiệu gì của ma khí đang dâng cao, cho thấy tạm thời đến lúc này, nơi đây vẫn an toàn.
Phúc Nguyên và Hải Yến từ trước đều khá xa lạ với những thứ của Hành Gia, nay lại vô tình xuất hiện ở một nơi mà Quán gọi là Loạn Mộ, không khỏi tò mò, dù chân cứ bước đi gấp, nhưng liên tục hỏi Hồng Quán và Tư Lĩnh, cái này là gì, cái kia là gì. Hồng Quán nãy giờ đã trình bày, thấy Tư Lĩnh cũng muốn thể hiện bản lĩnh, liền gợi ý cho lão, lão không cần câu nệ, cứ thế sổ ra tràng giang đại hải, tuy dông dài nhưng lại vô cùng thú vị.
Tư Lĩnh nói, thông thường, trong thế Loạn Tám Mốt này, mả ở đây được xây bề thế, cái nào cũng là mả đôi, chôn theo cả nam và nữ. Hành Gia nếu trong quá trình sàng tro, gặp ngay những mả theo các thế quen thuộc, ai ai cũng đều tay chỉ Đông chỉ Tây, mồm nói Nam nói Bắc, hết sức trôi chảy hùng hồn, cứ như thiên vạn hùng binh, xoay chuyển càn khôn, khiến gia quyến người bên dưới mộ không khỏi trầm trồ thán phục, vậy mới mạnh dạn rút hầu bao chi đậm, dù gì chuyện ba hoa cũng chảy trong máu của Hành Gia rồi.
Để chứng minh, lão tranh thủ một số lúc đi vào vùng không bị tán cây che, có chút ánh sáng của trăng vàng, thì liền chỉ tay, nói nào là mả này là mả Long Phụng Quy Thiên, dành để chôn người có thê thϊếp, muốn tùy táng hoặc người vợ chết theo, nhìn vào thì trái cao phải thấp, trước rộng sau hẹp, gạch xây bảy viên thì để hở một kẻ rộng hai chỉ, gọi là Long Đạo để hồn phách vợ chồng gia chủ có thể đi ra.
Nào là mả này gọi là Kiên Sơn Quần Tinh Trang, dành cho những gia đình lỡ có người mẹ hoặc người cha không may chết chung với đứa con, mả xây theo bố cục của các chòm sao, nhìn từ trước vào hai bên thấp, giữa cao, như trái núi, vững chãi như tình gia đình, sẽ sớm giúp người bên dưới được siêu thoát, gia đình còn sống thì sẽ làm ăn phát đạt, lên như diều gặp gió.
Nào là Bảo Kê Tinh Thất, dành cho người chết trẻ, hoặc trai thì để hình gà trống sau mộ, nữ thì để hình chim trĩ, đỉnh mộ đặt ba đồng vàng, hai đồng bạc, huyệt đặt sâu không quá hai thước. Trong các hình thế xây mộ, người xây đặt tên theo thiết kế, đều tránh chữ "Mộ", họ dùng các chữ như "Thất", "Sơn" hoặc "Trang" để ám chỉ ngôi mộ, so sánh ngôi mộ của người chết này như những nơi linh thiêng tôn quý khác.
Tất cả các số đo, kích thước, bày trí trong các thế mộ này đều được Hành Gia nghiên cứu kỹ lưỡng từ các thầy phong thủy khác, sau đó "biến tấu" lại một chút, để có thể "sàng tro" chính cái mả mình vừa làm!
Hồng Quán nghe Tư Lĩnh trình bày cứ gật gù, cho thấy lão nói cũng không có gì sai. Tư Lĩnh khoái chí, cười tít mắt, đúng như Bảo An từng nhận xét, loại người như Tư Lĩnh bình thường có vẻ nhỏ nhen, ham cái lợi trước mắt, nhưng đυ.ng chuyện thì lại là người sống biết trước biết sau, có tình có nghĩa.
Qua đám mộ dày đặc thì đến một đoạn cây gỗ to cao bắt đầu xuất hiện, đường đi vì thế khó khăn hơn, Phúc Nguyên hỏi: "Có thấy điều gì đặc biệt không?"
Hồng Quán sờ vào vai Bảo An, nó nói rất khẽ: "Chúng đang ở đây...mùi rất gần"
Phúc Nguyên vừa dùng Tỏa Sơn Tiên để vạch lối đi băng qua một đám dây leo thì Bảo An hốt hoảng kêu lên: "Cẩn thận dưới chân!"
-0-
Lại nói tên Bình từ lúc nghe được cái tên Tăng Thế Chí, là người của Thần Tài ở Chợ Lớn thì không khỏi giật mình. Làm sao bọn chúng biết được con bé yêu tinh? Ba tên đàn em của hắn đã bắn tin từ hồi trưa hay sao? Hoặc giả như bọn Thần Tài đó đã biết về con bé từ trước thì chẳng phải chúng có thế lực vô cùng ghê gớm, chỉ vì lùng một con bé yêu tinh mà có thể lôi cả người của Bộ Tham mưu Soái Phủ Toàn Quyền vào cuộc, chịu giúp đỡ cho phần lính tráng nữa chứ. Bình đoán rằng, Thần Tài, đúng như tên gọi, là những người có quyền lực bằng kim tiền!
Tay Đồn trưởng tuy được phân công đi cùng Bình lùng sục dọc theo bờ Trà Vinh nhưng do hắn còn sợ quá, nên chỉ đậu thuyền lại một chỗ rồi ép Bình đi tìm, mỗi hướng phải rà soát hai mươi cây số, trong đêm nay phải đem thông tin của nhóm Hồng Quán về cho Tăng Thế Chí, bằng không thì coi chừng cái mạng. Bình biết đó là mệnh lệnh từ gã Sĩ quan Hải Quân, loại ấy không biết đùa bao giờ, nên dù Bình vẫn còn run cũng không dám lơ là, thế là ra sức truy tìm vô cùng gắt gao.
Thuyền đang lướt dọc theo bờ Trà Vinh, xuôi dòng Hậu Giang, đèn qua soi rọi từng nhành cây ngọn cỏ trong dải đất ven sông, đột nhiên một tên lính hét lớn: "Sếp ơi, em thấy xuồng của bọn chúng rồi!"
Bình cười lên khoái chí, nhưng vẫn sợ lũ cá nên chưa dám đứng sát lan can, tay đút túi quần, nói: "Để coi lũ chó chúng mày trốn tao được không! Tụi bây, báo các thuyền kia, tập trung bao vây bến sông này, đồng thời quay về, cử thêm viện binh cho chắc, tao muốn vây chặt khu bãi bồi này, một con kiến cũng không ra được!"
Tên lính nhận lệnh của Bình định gật đầu hô "Dạ rõ!" thì bỗng nhiên hắn nhớ lại gì đó, liền ngẩng đầu quay lại nhìn vào chỗ bãi sông, miệng lắp bắp: "Dạ, dạ khoan sếp ơi, hình như... Hình như..."
Tên Bình nổi nóng, quát: "Hình như con mẹ mày, còn không mau làm theo lời tao nói!"
Gã linh lộ vẻ sợ sệt, hai tay nắm lại với nhau, nói lí nhí: "Dạ, bãi này... bãi này, không lên được đâu sếp ơi!"
Tên Bình nóng đỏ mặt, hét: "Có cái chó gì mà không lên được? Hay mày muốn tao bắn nát đầu mày rồi mới lên được?"
"Dạ đâu... đâu phải, chỉ là... trên đó... trên đó có quỷ đó sếp ơi!"
Tên Bình vốn xuất thân là tên lừa đảo, đầu trộm đuôi cướp, làm gì coi quỷ thần ra gì, nhưng từ sau đợt gặp cá hô vừa mới nãy, hắn lại thành ra nhát cấy, thấy dây tưởng rắn, nghe đến trên bãi bồi có quỷ thì tay chân bất giác lạnh toát, đổ mồ hôi lạnh. Hắn giả vờ bình tĩnh, ra giọng, nói: "Quỷ là quỷ cái gì, bọn bây có súng, mà còn sợ quỷ là sao?"
Gã lính thấy tên Bình đã có vẻ sợ, cũng hạ giọng, kể cho tên Bình nghe.
Kỳ thực khu vực này vẫn thuộc phạm vi phụ trách của đội giang thuyền, theo lý ngày tuần tra hai bận, lúc sáng lúc khuya, đi dọc bờ sông, không để cho nghĩa quân được rảnh rang hoạt động. Lịch trực luôn được báo về cho Bình và Đồn trưởng cùng một bản báo cáo chi tiết về hoạt động ca tuần tra đó, rất chi là "sạch", nhưng thực ra hơn cả năm nay có tên nào dám bén mảng vào bến ấy nữa đâu, từ sau một lần bị hù cho khϊếp vía!
Kể, hơn năm trước, một buổi tuần khuya, thuyền chở theo chín tên lính, súng ống đầy đủ, vẫn chạy ngang bãi bồi này như thường lệ thì nghe tiếng kêu cứu. Trăng hôm ấy rất sáng, phản chiếu ánh vàng lấp lánh trên sông, không gian vì thế không quá tối, tất cả chín tên lính đều nghe rõ mồn một tiếng kêu la thất thanh, mới đưa mắt nhìn về hướng bãi thì thấy rõ ràng có một cô gái đang vùng vẫy trong làng nước, nước văng trắng xóa, làm gì nhìn lầm được. Chín tên này là lính cũ, vẫn hay tuần đêm trong rừng ven sông, chuyện ma quỷ từ lâu đã bỏ ngoài tai, lần này thấy vậy dĩ nhiên chạy thuyền đến giúp. Chúng còn cẩn thận, sợ rằng nghĩa quân bày kế đánh úp, nên hạ xuồng máy, hai tên đến cứu cô gái, thuyền to ở đây chĩa súng sẵn, hễ có biến thì xử ngay.
Cô gái kêu lên vô cùng thảm thiết, hai tay giơ cao rồi chìm dần xuống. Sợ rằng cô sắp chết, tên lái xuồng chạy hết tốc lực, đến gần bên thì một tên vội phóng xuống, mò tìm cô gái. Ai ngờ chỗ hắn vừa phóng xuống là một bãi nông, nước chỉ ngập chưa tới háng, thì làm sao một cô gái chìm được. Tên trên xuồng đâm hoảng, tuy vẫn chưa sợ lắm, mới nói có khi do ma da kéo, tên dưới nước bảo vớ vẩn, làm gì có ma cỏ ở đây, hắn mới quay ra sau, định mò xung quanh thì tên trên xuồng mới hét lên, bảo trên lưng tên dưới nước có thứ gì đó đang đu vắt vẻo. Tên dưới nước giật mình, vội vòng tay ra sau cổ, nắm được thứ gì đó mềm oặt giật ra trước thì thấy là một tấm giấy cắt hình người, cái đầu người bằng giấy được vẽ đầy đủ ngũ quan, mắt sơn đen, môi tô đỏ, tóc đen dài như được làm từ tóc thật đang dính vào tay hắn, nhìn hắn trừng trừng, trong ánh sáng đêm trăng, cái đầu giấy như đang cười đầy ma quái, cô gái ban nãy chỉ là một hình nhân giấy, dụ hắn lao xuống nước rồi leo lên vai cho hắn cõng.
Tên lính hoảng quá hét lên một tiếng, quăng cái đầu rồi phóng lên xuồng, bảo tên còn lại chạy ra khỏi bãi bồi. Xuồng vừa nổ máy, từ khắp nơi trong bãi bồi hiện lên các bóng trắng, hệt như hiện ra từ hư vô, giơ tay vẫy vẫy. Thuyền lớn nghe hai tên lính hét, tưởng đâu bị nghĩa quân phục kích, lập tức nổ súng bắn vào bãi bồi, mỗi loạt đạn đều nghe tiếng hét hòa lẫn vào tiếng cười, vang lên hết sức ma quái. Bọn chúng bắn tưởng chừng như muốn tan nát cả cánh rừng ven sông, tên đội trưởng nói, dù có là Diêm Vương thì cũng không sống nổi sau đợt này, mới cử hai xuồng năm lính, lên trên xem xét. Riêng phần hai tên vừa quay lại thì mặt xanh như tàu lá chuối, ai hỏi gì cũng chỉ lắp bắp: "Có ma... Có ma...", cứ thế run như cầy sấy.
Đợt ấy, năm tên lính đi lên bãi bồi xem, khắp nơi còn ám mùi khói thuốc, bãi bồi tối đen, không thấy gì bất thường cả ngoài việc trên tán cây bần đang treo những sợi dây, quấn vào cổ những cái hình nhân, thân làm bằng giấy cắt, chỉ có phần đầu là làm y như thật, ban nãy súng bắn làm chúng nát bươm ra, bên trong nhiểu xuống dịch đỏ tanh hôi như máu. Bọn chúng đến gần, cầm một cái đầu lâu hình nhân giấy lên, nhìn nó như đang há miệng ra cười man rợ. Bỗng từ đâu sau lưng đám lính vang lên giọng cười the thé ma quái khiến bọn chúng sợ xanh mặt, phóng vội lên xuồng chạy về thuyền.
Lần này đến lượt tên đội trưởng không tin. Hắn chửi đám lính, bảo một tên chở hắn vào, hắn phải đích thân xem xét, nếu để nghĩa quân bày trò giả ma giả quỷ để đánh đồn, khi ấy tất cả sẽ bị xử bắn. Hắn bảo dừng xuồng lại ở sát mé bãi bồi, sau đó phóng xuống nước, lội lên trên, đứng rất lâu, im lặng nhìn xung quanh mà không nói gì cả. Hắn đứng khá lâu, đến nỗi tên lái xuồng sốt ruột lại sợ có chuyện, mới kêu hắn ba bốn lần, bảo hắn nên quay về thuyền. Hắn im lặng, quay lại, chầm chậm đi lên xuồng, không nói gì cả, cũng không ngẩng đầu lên, ngồi đối diện với tên lái xuồng. Tên lái xuồng linh cảm có chuyện không ổn, nhưng chưa dám đánh động hắn, sợ hắn quở phạt, mới lay nhẹ vai hắn, thì bất ngờ hắn ngẩng đầu dậy, khuôn mặt hắn trông chẳng khác gì mặt hình nhân giấy cả. Hắn nhìn tên lái xuồng cười lên man dại, rồi lao vào bóp cổ tên này, khiến chút xíu nữa cả hai đã rơi xuống sông. Trên thuyền thấy có động mới chạy đến cứu, đem tên đồn trưởng lên thuyền, thoa dầu, cho uống nước gừng ấm cả đêm hắn mới tỉnh dậy, bị mê sảng đến cả tuần.
Thế là từ đó về sau, đêm nào cũng vậy, hễ có đội nào định vào bãi thì đều thấy những con hình nhân giấy bị treo cổ dọc các nhánh bần. Khi có người bước lên, đồng loạt các hình nhân giấy này sẽ quy qua nhìn vào kẻ xâm phạm, nở nụ cười ma quái. Lính trong đồn tên nào cũng bị, nhưng sợ bị phạt, thế là trong báo cáo hằng đêm vẫn cứ ghi là tuần đầy đủ, kỳ thực đều bỏ qua bãi bồi hình nhân giấy này.
Bình nghe xong thì tay chân càng lạnh hơn nữa, ruột gan cũng nhốn nháo lên hết cả, nhưng lần này Bình không còn đường lui, nếu rút về thế nào cũng bị tống giam, vậy coi như đời hắn xong. Hắn không cam tâm, không hiểu động lực ở đâu ào tới dồn dập, Bình rút súng bắn chỉ thiên ba phát, nói với tất cả tên lính, đêm nay phải lùng sục hết cái bãi bồi này, tên nào bỏ trốn, hắn sẽ bắn bỏ. Đám lính thấy trước mặt mình là một Đồn phó hoàn toàn khác, hệt như một con thú, đói khát và tức giận.
Đám lính lên xuồng, tổng cộng có hơn năm mươi tên, khí giới, đèn đuốc sáng trưng cả khúc sông, lũ lượt kéo lên bãi bồi.
Khi ấy gần qua giờ Tý, trời bỗng nổi lên trận gió lạnh.
-0-
Bảo An vừa kêu lên, Hồng Quán lập tức nhảy ra trước, Thiết Bút trong tay định vung ra, nhưng anh chợt phát hiện thì ra trước mặt chỉ có mấy cái xác khô, xương cốt bị bào mòn, vô cùng khó coi, da thịt chẳng còn gì cả, nhưng quần áo vẫn còn khá nguyên vẹn. Tổng cộng có năm cái xác, đều mặc đồ bà ba đen, có đeo tay nải, dù bị quăng rải rác khắp nơi. Bảo An vẫn gầm gừ gì đó, nó không quan tâm mấy cái xác bên dưới.
Tư Lĩnh xem xung quanh thì thấy trong các tay nải có bùi nhùi, vải khô và gần đó thì còn mấy cây đuốc cháy đen. Phúc Nguyên tìm thấy một khẩu súng ngắn còn mới, một cây dao đi rừng vẫn bén tốt. Hồng Quán cúi xuống xem xét mấy cái xác trong lúc Tư Lĩnh đốt đuốc. Hồng Quán kéo Phúc Nguyên lại, nói: "Những người này, xem ra đúng là nghĩa quân thật!"
Phúc Nguyên đồng ý, anh vốn cũng quan sát rất nhạy bén, nhìn vào những vết rách trên y phục mà Hồng Quán đang chỉ, nói: "Hình như họ... không phải bị chết ở đây, mà là bị lôi đến đây rồi mới chết, đúng không?"
Hồng Quán gật đầu. Lúc này, Tư Lĩnh đã đốt xong ba cây đuốc cho lão, Hải Yến và Phúc Nguyên. Bảo An bỗng gầm gừ liên tục, Hồng Quán biết có chuyện đến, hỏi: "Thứ gì vậy Bảo An?"
Nó nhăn mặt, ra vẻ khó hiểu: "Mùi xác chết và... mùi giấy!"
Bỗng nhiên, từ phía trước vang lên tiếng đàn, một dáng người con gái tóc đen dài, mặc y phục trắng toát, đang lơ lửng giữa tán cây bần, gảy đàn. Hồng Quán cầm Thiết Bút thủ thế, Phúc Nguyên định bước đến trước xem đó là gì thì bỗng nhiên Hải Yến níu áo anh lại, cô lắc đầu ra dấu đừng tiến lên. Hồng Quán hỏi: "Thứ đó là gì vậy? Ma hay quỷ? Sao chẳng có mùi âm khí?"
Hải Yến nói nhỏ: "Nó là giấy thì làm sao có mùi âm khí! Người giấy ma, loại này tôi có nghe ba tôi nói đến rồi... Người giấy ma, coi mộ quỷ!"