Nghi Lễ Tế Thần

Chương 71

Lại nói chuyện Hạ nhận ấn Tổ xong xuôi thì chẳng nói năng gì, lặng lẽ cầm cuốn mật thư của Đại Trí trao cho, và cuốn minh thư mà Huyền n để lại, rồi đi vào hang núi, nơi cất đạo cụ, cờ hiệu, kiếm báu…rồi ở bặt trong đó luyện phép, Quỷ núi Vu thấy thế chẳng con nào dám hỏi han gì, con nào con nấy chỉ dám đứng hầu nơi cửa hang…

Hơn một ngày sau, lúc đêm tối trăng mờ thì thấy Tổ Huyền Vi bước ra…Hóa ra phép xuất hồn đã được Huyền n dạy cho từ trước, nhưng nay được Đại Trí bồi đắp thêm cho, thì luyện khá nhanh, chỉ trong một ngày nhập tàng đã rốt ráo mà ra.

Khi bước ra đã thấy chúng Quỷ đang bu kín cửa hang chờ đón, Hạ liền truyền cho chúng nó:

“Ta đã nhập được phép xuất hồn, nhưng có hai điều như sau, thứ nhất, thời gian xuất ra chẳng dài, nếu không nương thân xác nhân thú mà nhập thì chẳng tồn tại được lâu sẽ tan đi theo gió, thứ hai, phạm vi xuất ra chẳng xa, chỉ trong năm trăm mét đổ lại…bây giờ về việc đi xa ta đã có mẹo sư dạy, chỉ còn việc nương xác đang chưa biết tính sao, vậy nay ta muốn một trong các Quỷ ai nhận việc đó cho ta? Các Quỷ nên nhớ chuyến này xuất sơn đi dễ khó về, Quỷ nào đi làm việc cho ta thì không còn được sống, vậy ai nguyện vì ta mà chết?”

Hạ nói vậy vì biết, nếu như Quỷ cho Hạ lấy xác nhập vào, thì Quỷ đó cũng phải chết…

Tức thì trong chúng Quỷ có một con chim cắt, bay ra quỳ lạy mà nói:

“Tôi có phép khinh rất mạnh, ngày bay đi được cả trăm cây, có thể đến nơi định sẵn chờ Tổ đến, vậy việc lần này tôi xin đi.”

Hạ và chúng Quỷ nhìn lại, Thì ra Quỷ đó là con chim cắt đen tuyền, có đôi mắt sáng quắc, tên Ma-na-kiền.

Hạ nói:

“Khi ta lấy xác thì ngươi phải chết, ngươi biết việc đó chăng?”

Chim cắt liền nói ngay:

“Vì Tổ thì tôi có chết cũng chẳng tiếc thân, chỉ mong cho Tổ được việc đạo, rửa hận xưa cho chúng tôi.”

Hạ lại nói:

“Binh đi làm việc lần này phải có các phép mưu trí, cẩn mật, nhanh nhẹn, ứng biến, chịu được mệt mỏi, gian khổ, lại phải ẩn thân…ngươi có các phép ấy chăng?”

Quỷ đáp:

“Xin nhận có các đức ấy, nguyện dùng hết tài mọn chẳng để hỏng việc lớn của Tổ.”

Hạ gật đầu ưng thuận, rồi chợt đôi mắt lệ nhòe…Các Quỷ thấy vậy đều xúc động bồi hồi…

Đoạn Hạ giơ bàn tay trái lên, chim bay lại dụi đầu vào cánh tay Hạ, rồi lại đậu vào lòng..Hạ đưa tay ra Vuốt ve cổ chim, lại móc trong túi ra một chiếc ấn có dây đeo, trên ấn ghi chữ “Đại Trí sư phụ”, đeo nó lên cổ chim, lại dán lên ức chim một đạo bùa đỏ, trên ghi chữ “tử”, rồi căn dặn ân cần:

“Khởi hành ngay đi kẻo hỏng mất việc, vào chùa nếu bị Thần cản thì cho Thần xem ấn này sẽ được qua, khi đến được chùa chớ có la cà, nhớ gặp thầy ta cho nhanh, nếu chưa gặp được phải thầm để ý mà quan sát, đặc biệt phải theo dõi kẻ này…cứ vậy, cứ vậy…”

Chim nhận lệnh, chợt thấy đôi mắt nhòe lệ đi, chim biết chuyến này đi rồi chẳng về được núi, liền bay một vòng mà nhìn ngắm mặt các Quỷ lần cuối, đoạn bay trên đầu Hạ ba vòng, cất tiếng nói lớn:

“Chào Tổ Huyền Vi tôi đi, hẹn Tổ đến ngày giờ ấy thì gặp.”

Nói rồi đập cánh, nhắm hướng chùa Thanh Trúc bay thẳng.

Thật là,

Dùng binh phải như vậy

Dù binh Quỷ hay người

Lòng cúc cung tận tụy

Có chết cũng chẳng rời.



Ngày lành đã đến, Ma-na-kiền cũng đã đi được hơn hai ngày, chắc cũng đã tới nơi từ sáng…

Hạ nôn nóng ngước lên trời…

Tầm này là đã khoảng chín giờ tối rồi, vậy là sắp đến giờ hẹn ước với thầy. Hạ liền đứng dậy, rời khỏi am, đi tới mộ Huyền n thắp lên ba nén hương, rồi một mình lặng lẽ đi lêи đỉиɦ núi Vu, nơi đã sắp sẵn đàn tràng theo nghi thức làm phép xuất hồn…

Hạ bước ra sát vách núi…Từ trên đó phóng mắt nhìn xuống thấy dốc đá thăm thẳm, hút sâu mất tầm mắt, phía dưới có làn khói tụ mờ mờ ảo ảo… nơi vực sâu thung lũng này xưa kia là nơi trú ngụ của các vong ma Ngạ Quỷ là đệ tử của Vu sơn, nhưng từ khi Kinh Tâm đến đây diệt phá đã chẳng còn nữa, tuy nhiên ở những nơi địa linh bí hiểm, vẫn còn phảng phất nét linh dị hoang sơ, khiến những kẻ lạ chân lạc vào nơi này trông thấy đều chẳng khỏi rùng mình…

Hạ thấy gió lạnh thổi buốt phía sau, biết là các Quỷ đã hiện đủ theo hiệu lệnh, đang đứng sau lưng, đoạn quay lại, mắt lửa mở ra thì nhìn thấy ma Quỷ trùng trùng đang đứng, nằm, bò, bay lại ngổn ngang, trên dưới cả thảy có hơn chục con, hữu hình* lần vô hình, chúng là những Quỷ có phép độn thổ đã thoát nạn Rồng đêm đó…

(*hữu hình: Quỷ có được xác người hoặc động vật, trên núi Vu có Quỷ mượn được xác chim muông, thú dữ thành tinh, đều gọi là hữu hình…)

Hạ đứng trên vách núi, chỉ tay xuống vực sâu thăm thẳm mà phát ra đại nguyện rộng lớn trước mặt chúng Quỷ:

“Đêm nay ta xuất sơn đi chuyến này, trước là việc trăm họ chúng sinh, sau là thù môn ta, cuối cùng là thù riêng nhà ta, ta thề lần này ân oán trả đủ, hoặc Kinh Tâm, hoặc ta một trong hai không thấy ngày mai mặt trời mọc…chuyến này đi lành ít dữ nhiều, nếu không tróc được nó sẽ bị nó diệt, hoặc có may mắn thoát chết về núi ta cũng nghuyện nhảy xuống vực này mà chết cho trọn nghĩa…”

Đại nguyện phát ra sâu thẳm nơi vực hun hút, vang vọng khắp núi rừng phiêu linh, mây mù liền giăng tỏa che cả trăng sao, gió lạnh thổi lên ào ào thấu buốt thịt da, cây rừng xào xạc, chim muông bặt tiếng…

Chúng Quỷ nghe thấy đại nguyện rộng lớn như vậy liền cùng quỳ hết xuống mà đảnh lễ…

Thật là,

Ôm mối thù sâu thẳm

Thề trước mộ sư tôn

Phát đại nguyện rộng lớn

Bỏ cả mạng lẫn hồn.

Bấy giờ Hạ mới bước lại ngồi vào giữa đàn tràng, đàn tràng đã được ghi chép cẩn thận trong cuốn sách thầy Đại Trí trao cho dạo nọ , Hạ chỉ việc dựa theo sách ấy mà luyện, từ khi gặp thầy, cứ nghĩ việc luyện phải cả năm dài tháng rộng, nhưng Hạ chỉ vào hang, chưa đầy một ngày đã thấy trở ra mà đắc được…

Đoạn Hạ truyền:

“Hỏa thiên di thắp tám nến này lên cho ta, chính là tám thức của ta, chúng Quỷ hãy quanh đây mà che chở, đừng để Trời, Thần, Quỷ, Vật, phong vân nơi khác tới đây mà phá mất đàn này, nếu một trong các nến tắt đi, là nến nhãn thức thì ta bị mù, nến nhĩ thức thì ta bị điếc…cứ vậy cho tới Mặc-na thức tắt đi thì ta sống không bằng chết, A-lại-da thức tắt đi thì ta nghìn kiếp chẳng được độ sinh…chúng Quỷ nhớ lời ta dặn chăng?”

Chúng Quỷ đồng thanh hô lớn:

“Lời Tổ dạy chúng tôi chẳng dám trái…”

Đoạn lại truyền như sau:

“Nếu các nến này lần lượt tự tắt đi, tức là hồn ta đã nát, chết về tay yêu ma, khi ấy không được khóc lóc kinh động mà Kinh Tâm nó theo hồn ta tìm đến thì lần này nó diệt sạch chẳng tha cho ai, không được phát tang mà ma Quỷ các cõi tới ăn xác ta, các Quỷ cứ mặc đàn tràng bỏ ở đây mà lẳng lặng đi tìm chỗ trốn, chớ ở lại núi này kẻo mang họa, bao nhiêu tư liệu sách giấy ta giao lại cả cho Quỷ Phú-nặc, các huyền kí hiệu lệnh ta lại giao cho Hỏa thiên di, các Quỷ này nhớ phải giữ lấy mạng, một thời gian sau thì về lại núi này mà gây dựng, tìm người Huyền nhân mà đưa lên làm Thập Tổ, lấy hiệu cho hắn là Huyền Trí…”

Thế rồi phân phó công việc một lượt cho chúng Quỷ xong, con nào con nấy đều khấu đầu nhận việc.

Xong xuôi cả chợt một Quỷ bước ra, thì ra là Quỷ lửa Hỏa thiên di.

Hỏa thiên di nói:

“Sắp đến giờ thiêng, xin Tổ chớ nói lời gở mà làm động lòng quân…”

Chúng Quỷ nghe thế đều quỳ lạy mà thưa:

“Xin Cửu Tổ chớ nói lời gở, nếu Tổ mà chết chúng tôi cũng chẳng sống làm gì.”

Hạ nghe vậy thì thương trào nước mắt, đoạn ngước nhìn một lượt khắp mặt chúng Quỷ, rồi lặng im không nói nữa, giắt dao Vu vào lưng, ngậm bùa Di vào miệng, rồi ngồi xuống đàn, nhắm phương Bắc lạy ba lạy, cứ vậy từ từ nhập vào thiền định…

Lần này ra đi, biết việc hiểm nguy, sợ chẳng còn sống mà về nên Tổ chẳng hề mang theo một binh một tốt nào ngoài Ma-na-kiền…các Quỷ biết Tổ vì chúng nó như thế, sợ chúng nó thác oan, con nào cũng cảm phục, thương Tổ tới trào nước mắt.



Chỉ vào trong thiền định chưa tới mười phút, lập tức phép xuất hồn được cảm ứng, Thần thức bay theo hiệu lệnh di trong bùa thiêng, thoáng cái đã tới cổng chùa Thanh Trúc, lập thức thấy hai Hộ pháp bay ra, thì ra là quan giám tự, các Hộ pháp ấy một người mặc đồ trắng, dung mạo uy nghi cao quý, lại có nét từ bi, dân gian gọi là ông thiện, người kia lại mặc đồ đen, khuôn mặt nhăn nhó hung dữ , lại tỏa ra sát khí đằng đằng, dân gian gọi là ông ác, hai Thần giữ lấy hồn Hạ mà hỏi:

“Này, hồn ma bóng quế nơi nào mà tới chùa này?”

Hạ đáp:

“Hai Thần không nhận ra tôi sao? Tôi là đệ tử của Đại Trí, pháp danh Diệu m, nay vì có việc bên ngoài mà xác chưa tới được, hồn về chùa gấp để làm Phật sự, mong các Thần cho vào kẻo lỡ mất thời cơ.”

Hai Thần nghe nói như thế, liền mở Pháp nhãn quán sát, quả đúng là đệ tử Như Lai, nên liền cho vào.

Hạ vào chùa thì xem xét một lượt khắp chùa, liền thấy hướng tây có động, pháp khí bao trùm thì biết Đại Trí nhập thiền hướng ấy, liền vội vã ra đó, bấy giờ do lực còn yếu, lại đi đường xa, nên thân thể đã bắt đầu mỏi mệt, bay vội tới nơi sân Chính điện thì bỗng có tiếng reo lớn:

“Cửu Tổ đến rồi, tôi chờ Tổ mãi…”

Thật là,

Nhận việc lớn, nhập tàng tu luyện

Giờ lành đến, Cửu Tổ xuất sơn.