Nghi Lễ Tế Thần

Chương 62

63.



Gian Chính điện ánh sáng mờ ảo vô thường, hương nhang tịnh bích, nến cháy lay lắt, không khí se sắt cô liêu, chỉ một người một tượng ngồi lặng im, cảnh tĩnh như tạc.

Phương nghe như muôn ngàn cơn sóng triều dâng lên đổ ập bốn bề, khi lại nghe như muôn ngàn ác thú trùng độc bủa vây lấn thân, lúc lại thấy như mình ngồi trên mỏm đá cao, xung quanh thác chảy ầm ầm, dưới chân muôn trùng lang sói đang gào rú đòi lên.

Ngước lên lại thấy như Trên bầu trời cao trăng khi sáng khi tối, sao khi tỏ khi mờ, mây đen vần vũ, trời lúc mưa lúc tạnh, nắng lúc gắt lúc không, thiên nhiên như biến đổi ảo diệu khó lường, rồi bỗng như cơ thể lúc nóng lúc lạnh, lúc lại đau đớn nhập tàng, khi thì khoan thai bồng bềnh như đang cưỡi trên đám mây lớn mà bay đi khắp non xanh nước biếc…

Rồi bỗng thấy da như tan thành nước, tạng như nát thành cám, trí như biến thành hư…

Phương hít vào một hơi, thì thấy hơi thở lan đi khắp châu thân, thấy khí xung quanh cô đọng cả, khí nào thân như người khát uống nước mát, nó tràn đi khắp mũi họng yết hầu, rồi tràn khắp trí não tinh Thần, sau lại tràn xuống làm thanh mát nội tạng, khí ấy cứ vậy tràn đi tới khắp chân tay, rồi tới các ngón chân ngón tay, rồi lại cuộn lên theo dòng mà trào ra ngoài, khí cứ vậy trôi đi đến đâu, cuốn trôi cơ thể tới đó, người cảm giác cứ tan dần ra cho tới khi chẳng còn gì.

Vậy là giới tuệ định đã xong, giữ nghiêm các giới sẽ có trí tuệ, theo tuệ mà hành sẽ đạt thiền định.

Lại thấy như thân miệng ý cùng hòa làm một, ý nghĩ sinh ra lời nói, lời nói điều hành thân thể, cùng nhất nhất mà theo, lại vì chẳng còn nghĩ gì nên chẳng còn ý, cũng chẳng còn nói năng, lại cũng chẳng còn làm gì, liền chìm vào thiền định.

Lúc lại rơi vào hôn trầm*, mắt mũi đều gục, nhưng chỉ trong chốc lát lại tỉnh táo thoát khỏi hôn trầm, lại rơi sang ngay vọng động*, lúc ấy lại thấy bóng mẹ hiện về, kí ức từ ngày thơ tua qua đầu như cuộn băng quay chậm, rồi tới hương, Hạ, Vy, Đại Trí, cậu Thức, bà ngoại… cũng đều như vậy mà lên, các nhân ảnh tan đi lại liền rơi vào các cảnh ảnh, trường lớp, nhà trọ, công viên, ghế đá, cứ thế trùng trùng mà nối tiếp hiện ra, suy nghĩ này nối với thức nọ… là đang rơi vào cõi người.

(*hôn trầm: buồn ngủ; *vọng động: suy nghĩ linh tinh.)

Lại có lúc thấy hiện ra bóng yêu ma Ngạ Quỷ cơ man không kể xiết, chẳng biết do đâu có lúc lại như rơi vào cõi Dịch âm, chúng Quỷ con nào con nấy bủng beo đói khát, quấn lấy chân người xin ăn, có con đang ăn thì thức ăn biến thành than, bị bỏng đau đớn mà nằm gục…hóa ra là đang rơi vào cõi Ngạ Quỷ.

Rồi thoáng cái đã thấy như đang ở các ngục, coi các Diêm Vương làm việc, thoáng cái nữa lại thấy đang ở nơi tối tăm hôi hám, chó sắt chim đồng, cối xay thịt người, sông Rồng suối sắn, dầu nóng trong vạc, hổ dữ trong rừng, phân cứt máu me, dãi nhớt bầy hầy, lúc lại thấy bàn đinh thảm chông, giường sắt cột sắt, lại có những người cứ vậy mà lao vao, hóa ra là đang nơi cảnh ở các địa ngục…

Rồi lại bỗng chống rùng mình mà thoáng tan đi, liền thấy ở cõi nơi ấy hôi hám bẩn thỉu, bị tuột da xé lông, bị ăn thịt uống máu, kinh hãi trốn chạy, dẫm đạp lên nhau, ăn ở bầy đàn, nịnh bợ xòe đuôi, làm trò gánh thú, kéo cày ngoài ruộng, kéo gỗ trên rừng, làm chó săn chim ưng, giúp người làm ác…thì ra đang rơi vào cõi súc sinh.

Rồi thoáng cái lại thấy đang ở nơi âm u giá lạnh, cảnh vật hoang tàn, chỉ có núi non, xa xa có người, lại gần ai nấy sáu tay, người nữ xinh đẹp người nam xấu xí, cứ lao vào nhau mà đánh gϊếŧ…hóa ra lạc vào cõi A-tu-la.

Rồi thoắt cái lại thấy thân vô định, như rơi vào chốn tiên cảnh bồng bềnh, hương thơm ngào ngạt, cảnh vật đua sắc màu hương, chim muông hót tiếng hay, suối thơm nước chảy, cây trong vườn trĩu quả, đây đó tiếng đàn sáo ngân nga, đâu đâu lại văng vẳng tiếng người ngồi chơi cờ trò chuyện, cùng cười thống khoái, đâu có lại tiếng ca hát nữ nhi, thật là đê mê ngây ngất…thì ra hồn lạc vào cõi trời.

Vậy là đã phá được các kiết, Pháp nhãn chợt mở ra, đôi mắt sáng lên ánh lạ, hóa ra vừa quán sát mà hiểu thấu sáu nẻo luân hồi, là nơi đi về của những sinh linh chết đi, dựa theo nghiệp nào mà về cõi ấy…

Rồi bỗng tâm như trùng xuống, mắt tai mũi lưỡi thân ý đều chẳng còn nhận biết được gì, vậy là phá tan sáu thức, khống chế sáu căn…

Rồi chợt lại thấy có người đối diện nhìn mình chăm chăm, nhìn kĩ lại thì đó cũng lại là mình, hoảng hốt kêu lên nhưng lục căn đã mất, chẳng còn miệng mà kêu lên, tâm liền lắng đọng, nhìn rõ ra thì người ấy chính là Mặc-na thức, là thức thứ bảy khống chế tư duy, vậy là chắp tay mà niệm “a di đà Phật”, người ấy tan đi ngay, vậy là phá tan bảy thức.

Chợt lại nghe như cơ thể biến đổi, có khí thoát ra, toàn thân bay theo khí đó, tụ lại thành quầng đen, chính là A-lại-da thức, thức này khống chế sinh mạng, thức vừa hiện lên liền thấy các Quỷ nơi địa ngục tới bắt, liền chỉ mỉm cười với chúng mà niệm một câu “A di đà Phật”, lập tức thức đó tan đi, chúng Quỷ vì thế cũng liền tan đi, vậy là phá xong A-lại-da thức.

Tám thức cũng vì vậy mà phá xong hết, các thức đều quy thuận có thể toàn tâm toàn ý mà sai khiến, đoạn liền niệm chú thì thấy chúng thoát ra cả, rồi điều khiển cho chúng bay tới đâu, liền nhìn được cảnh vật ở đó, chỉ ngồi một nơi mà ngắm được bốn bể non sông…

Đoạn lại thấy hồn phách nhập tàng, chìm vào một nơi nào cơ man bùa chú, chỉ hô một tiếng di, lập tức lá bùa “di” bay lại, câu chữ đầy đủ, cứ vậy mà học theo, lại hô một tiếng “hỏa”, tức thì bùa hỏa bay lại, trên bùa có chữ, cứ vậy mà đọc theo, lửa lại cháy bừng bừng…

Rồi tâm thức như bừng tỉnh, hô lớn một tiếng “bội”, thức thì nó phóng to hết ra, lại hô lớn tiếp một tiếng “nhãn”, tức thì bùa nhãn bay lại, liền cầm lấy bùa đó mà nhập vào mắt, tức thì Pháp nhãn mở ra, liền đó hô ngay một tiếng “tịnh”, tức thì thấy bùa Phổ hiền Đại minh chú bay lại, lá bùa này trước nay trống trơn, nhưng giờ đây nhìn thấy đầy chữ, cứ vậy mà đọc theo, hóa ra trên bùa chỉ có một câu niệm Phật tam muội, chính là đạo hành của Bồ tát Đại thế chí, liền lập tức niệm theo, niệm đủ ba hồi thì rơi trở về thực tại, thoát khỏi ảo cảnh do chính tám thức tạo ra, bấy giờ mới mở choàng mắt, thì thấy nơi mình đang ngồi là giữa phòng thiền đìu hiu, khói nhang vẫn bay nghi ngút, trước mặt là tượng Như Lai…

Phương như tỉnh khỏi giấc mê dài, liền vội vã đứng dậy nhưng vừa đứng lên thì hai chân tê dại, liên khuỵu xuống ngay, sau cứ thế mà bò tới áo pháp, rút vội ra lá bùa thiêng, nhìn chăm chú một hồi, tự khắc Pháp nhãn làm sáng Tổ, trên bùa hiện ra câu niệm Phật tam muội, liền lập tức niệm theo đủ ba hồi, bỗng thấy cảm ứng ngay, ánh sáng từ bùa ấy phát ra rực rỡ, rồi hội lại thành đám mây lành, tụ dần thành hình người là một nhà sư, nhãn quang đẹplạ kì, mắt én mày ngài, thanh toát bội phần, dái tai chảy dài tới hết cằm, đôi môi đỏ hồng, đâu trọc cằm Vuông, dáng đi thanh thoát, mặc áo cà sa vàng, đạt đủ tứ đại oai nghi*.

(*tứ đại oai nghi: bốn dáng người hành giả tu Phật môn phải giữ, đó là đi, đứng, nằm, ngồi.)

Thật là,

A-la-hán nước Phật

Thần thông nhất vô biên

Trò theo hầu chư Phật

Từ thuở mới khai thiền*.

(*thuở khai thiền: thuở đức Phật còn sống, bắt đầu nhập đạo, có thể nói đây là vị A-la-hán sống cùng thời với đức Phật.)

Bỗng chốc nơi chấm sáng ở ngực Phương sáng lên dữ dội, thì ra là cảm ứng với vị kia…

Vị đó liền nói:

“Ta là Mục-kiền-liên*, nhị đệ tử của đức Như Lai, đã chứng được quả vị A-la-hán và về nước Phật, nhưng nay xuất hiện lại ở cõi Ta Bà, được giao việc kí vào thân người mà làm Phật sự, vậy mà cho tới nay ta mới thấy mặt ngươi…

(*Mục-kiền-liên: là người thứ hai trong thập đại đệ tử của Như Lai, đã chứng quả A-la-hán và có danh hiệu Thần thông đệ nhất.)

Phương lập tức quỳ lạy xuống mà thưa:

“Kính thưa Tổ, kẻ học trò lâu nay có Tổ bên cạnh nhưng căn cơ thấp kém, trí tuệ chưa cao nên không nhận biết được, hôm nay mới được thấy Tổ mong Tổ bỏ qua cho con.”

A-la-hán liền nói:

“Người thường không phá chấp ngã vô minh, làm sao xem mặt được ta? Nay ta hỏi ngươi, đạo ta là gì?”

Phương trả lời:

“Chính là đạo giải thoát.”

A-la-hán nói:

“Giải thoát điều gì?”

Phương đáp:

“Giải thoát khỏi chấp mê u minh, giác ngộ liền đạt được đạo, hiểu thấu cuộc đời, từ đó mà về nước Phật, không còn lặn ngụp trong Lục đạo luân hồi.”

A-la-hán nói:

“Hành đạo có bốn Hạng, kẻ biết mình ngu, kẻ không biết mình ngu, kẻ biết mình giỏi, kẻ không biết mình giỏi, ngươi thuộc Hạng nào?”

Phương nói:

“Học trò biết mình ngu.”

A-la-hán lại nói:

“Xem nói là tiếng sấm, làm là tia sét, thì làm người có bốn Hạng, có sấm chẳng sét, có sét không sấm, có sấm có sét, không sét chẳng sấm, ngươi thuộc Hạng nào?”

Phương đáp:

“Học trò không sét cũng chẳng có sấm.”

A-la-hán nói:

“Ngươi thật là học trò đạo ta, ngươi là kẻ có các oai nghi của đạo ta, học theo pháp môn ta, đạt được năm phép ba la mật, cũng xứng vào hàng có công phu, nay ta truyền cho ngươi hay, A-la-hán chỉ xuất hiện ở cõi người một lần duy nhất để giúp cho hành giả một việc duy nhất, nếu ngươi dụng công mà gọi A-la-hán lên, hãy làm theo chỉ điểm ngươi học được trên bùa, A-la-hán khi hiện lên có ba điều ngươi cần nhớ:

Thứ nhất, chẳng gọi A-la-hán hiện lên khi hành ác;

Thứ hai, chẳng gọi A-la-hán hiện lên khi tưởng nhớ;

Thứ ba, A-la-hán hiện lên sẽ không bao giờ hiện lại, vậy ngươi nhớ lời ta chăng?”

Phương cung kính cúi đầu.

A-la-hán liền nhẹ nhàng mà tan đi, không khí liền trở lại thanh tịnh như trước,

Phương đứng phắt dạy, bước ra mở cửa phòng thiền, thì đã thấy Đại Trí, Nhất Nguyên cùng các chúng tăng đều đứng đầy cả ở sân chờ đợi, thấy Phương mở cửa lập tức có người la lớn cảnh báo, mọi người đều ồ lên mà chạy xúm lại, nhưng Đại Trí ra hiệu, tất cả các tăng đều trật tự trở lại, Đại Trí tiến sát lại Phương nói:

“Có biết đang là ngày nào tháng nào không?”

Phương lắc đầu.

Đại Trí lại nói:

“Nay là đúng bốn mươi chín ngày từ khi ngươi phát nguyện với Kinh Tâm, đã là chín ngày từ khi cô Vy đi khỏi, ngươi đã ở trong đó liền một mạch chín ngày không ra, đêm nay chính là đêm ngươi phải chết, ngươi đã sẵn sàng chưa?”

Phương mỉm cười không đáp…

Thật là,

Nhập thiền định, phá giới u mê

Nhất cảnh tăng, nhân gặp A-la-hán.