... Tại một căn phòng thuộc căn cứ bí mật tại địa phận Hà Nội ...
Minh bị trói trên ghế, sau khi nghe Mười Họa kể lể một thôi một hồi về truyền thuyết Hắc Đế, sau đó lão ta nói rằng tương chuyền kẻ nào có ba cái nốt ruồi sau gáy mà xếp thành hình tam giác thì kẻ đó chính là hiện thân của Hắc Đế. Minh ngồi trên ghế lắc đầu, cậu ta vừa cười vừa nói:
- Ông nói lảm nhảm đủ chưa? cái gì mà hiện thân của Hắc Đế cơ chứ? Chả lẽ ông muốn thu phục tôi để đi theo quân phản động các ông à? Đừng có hòng!
Mười Họa thấy có việc gì đó dường như không đúng cho lắm, lão ta nghĩ rằng đúng là sau gáy Minh có ba cái nốt ruồi xếp thành hình tam giác thật, nhưng tại sao Minh lại không chịu nhớ ra bản thân mình cơ chứ. Lúc đầu Mười Họa nghĩ rằng không lẽ linh hồn của Hắc Đế đã bị Thiên Phụ đầy xuống dưới Âm Tào Địa Phủ, bắt qua cầu Nại Hà, uống canh Bà Mạn để đi đầu thai cho nên bây giờ Minh mới không nhớ gì hết? Nhưng Mười Họa nghĩ kĩ lại thì cái giả thiết đó hết sức vô lý, làm sao mà Thiên Phụ có thể dễ dãi để cho Hắc Đế đi đầu thai lại thành người sau khi mà Hắc Đế đã làm bao nhiêu điều ác như vậy? Còn đang mải chìm đắm trong cái suy nghĩ, thì chợt Minh lớn tiếng hỏi Mười Họa:
- Mà cứ cho như là những gì ông nói là có thật, nhưng tôi hỏi ông, làm sao Hắc Đế, hay như chính là bản thân tôi... có thể sống sót sau hai quả đại cầu Tam Vị Chân Hỏa và Hàn Băng được cớ chứ? Chẳng phải chính ông đã nói rằng Hắc Đế vĩnh viễn biến mất khỏi thế giới này sau khi bị hai quả đại cầu đó đập vào người rồi hay sao?
Mười Họa không nói gì, mặt lão ta đanh lại, thế rồi lão nói bằng một cái giọng hết sức ghê rợn:
- Ngài chưa hề chết, và cũng chưa hề biến mất khỏi thế giới này...
Vậy tại sao lại có điều vô lý như vậy? không lẽ Tam Vị Chân Hỏa Đại Cầu và Hàn Băng Đại Cầu không đủ mạnh để gϊếŧ chết Hắc Đế. Cái lý do khiến cho Hắc Tướng Quân luôn tin rằng Hắc Đế vẫn tồn tại nói ra thật dài dòng.
Chắc hẳn các bạn còn nhớ sau khi Hắc Tướng Quân (tức Mười Họa) bị Lê Long (một thần tướng trên Thiên Đình) dùng giáo đâm và ép nằm xuống mắt đất. Ngay khi Tam Vị Chân Hảo và Nước Hàn Băng kịp trào tới chỗ hai người, Hắc Tướng Quân đã ma mãnh dùng thuật xuất thần chui sâu xuống lòng đất. Kể từ sau đó, Hắc Tướng Quân nhập vào hết người này đến người khác, có là để chiếm lại Chung Giới Môn và quyết ăn thua với Thiên Phụ và Địa Mẫu. Rồi cứ như thế, ngay từ lúc thế giới được lập lại, Hắc Tướng Quân không từ một thủ đoạn, hắn lợi dụng việc Thiên Phụ tạo ra con người với sự khác biệt, Hắc Tướng Quân đã gây hận thủ, kích động nhiều cuộc chiến thương tâm suốt mấy ngàn năm qua chỉ để chiếm lại Chung Giới Môn. Tuy nhiên điều Hắc Tướng Quân không thể ngờ tới đó là việc Hắc Đế vẫn còn tồn tại cùng với hắn. Điều khiến cho Hắc Tướng Quân đưa ra cái kết luận đó bắt nguồn từ cái lần đầu tiên hắn biết được về một trong bẩy cuốn kinh sách, đó chính là Họa Bì Kinh. Lúc đầu Hắc Tướng Quân cứ ngỡ rằng ám khí của Hắc Đế vẫn còn tồn tại trên đời, và bất kì một kẻ nào đủ sự tàn ác thì mới có khả năng hấp thụ ám khí mà viết nên cuốn kinh sách đó. Mãi sau này, Hắc Tướng Quân còn tìm ra thêm được nhiều cuốn kinh nữa, ví như Vạn Binh Kinh, Tà Thuật Kinh, nhưng hắn chưa bao giờ có trong tay được cả đủ bẩy cuốn. Càng đọc kĩ những cuốn kinh sách đó, Hắc Tướng Quân càng không tin vào mắt mình, cái điều mà hắn không tin đó là kẻ viết nên những cuốn sách này không thể nào chỉ hấp thụ ám khí của Hắc Đế không được, ví ngay như cái việc áp dụng cả kinh văn của Phật Giáo vào kinh sách này thì lại càng không thể. Nếu như các bạn còn nhớ, Phật Giáo cũng chỉ mới bắt đầu sau khi thế giới được lập lại, chính Thiên Phụ đã ban cho con người một cơ hội mới, đó những ai thực sự biết quý trọng cuộc sống này, hiểu được cái lẽ sống, cái đạo đức làm người sẽ được thành phật và đứng ngang hang với thần thánh trên thiên đình, và người đầu tiên thành phật không phải ai khác chính là Phật Tổ Như Lai.
Sau một thời gian dài nghiên cứu những cuốn kinh sách mà mình có được trong tay, Hắc Tướng Quân kết luận rằng không một kẻ nào trên cõi đời này có tâm ma đủ lớn để viết nên được một thứ tà kinh ác độc và đáng sợ như thế này được. Thêm vào đó, Hắc Tướng Quân phải sống suốt mấy trăm năm mới thu được một vài cuốn kinh sách. Điều đó có nghĩa là kinh sách vẫn đang được viết, và người viết không phải là ai khác mà chính là Hắc Đế. Hắc Tướng Quân lúc này mới chợt nhận ra một điều, một sự thực hiển nhiên, đó là bẳn thân Hắc Đế chính là sự khởi nguồn của tà ma yêu đạo. Nếu quả thật Hắc Đế đã vĩnh viến biến mất khỏi thế giời này thì làm sao Hắc Tướng Quân còn có ma lực như bây giờ, điều đó chứng tỏ rằng Hắc Đế còn sống, và vẫn đang viết tiếp những cuốn tà kinh để tuyên truyền ma lực của mình tới người trần mắt thịt. Quá đỗi mừng rỡ khi biết được điều đó, Hắc Tướng Quân đã gác hẳn chuyện đoạt lại Chung Giới Môn qua một bên, hắn dùng toàn bộ sức lực để đi tìm người viết nên mấy cuốn ma kinh, hay như để đi tìm lại Hắc Đế. Nhưng thời gian thấm thoát trôi qua, tá kinh cũng được sao chép rất nhiều, nên khó lòng mà tìm ra được Hắc Đế. Và thế rồi cuối cùng, Hắc Tướng Quân cũng không ngờ được rằng, chính cái giây phút mà hắn quyết định bỏ cuộc, quyết định chiếm lấy Chung Giới Môn một mình, thì hắn lại gặp được Hắc Đế, cũng tại chính cái mảnh đất này đây, ngay cạnh Chung Giới Môn như ngày nào. Hắc Tướng Quân đã bỏ ra biết bao công sức để tìm kiếm, cho nên đến ngày hôm nay khi mà hắn tìm được Hắc Đế rồi, thì chắc chắn hắn sẽ không bỏ cuộc đâu, hắn sẽ làm mọi cách để Hắc Đế nhớ lại được cái quá khứ của mình, để lại có được sức mạnh, để lại có thể một lần nữa bước chân lên Thiên Đình mà trả thù Thiên Phụ và Địa Mẫu. Nghe đến đây, Minh im lặng một lúc suy nghĩ, thế rồi cậu ta hỏi Mười Họa:
- Nếu đúng như vậy... thì ý ông là kiếp trước trước nữa ... hay như cái kiếp đầu tiên của tôi là Hắc Đế?
Mười Họa gật đầu và đáp:
- Thưa ngài đúng vậy.
Minh hỏi tiếp:
- Và ông muốn tôi nhớ lại cái kiếp đầu tiên đó.
Mười Họa đáp:
- Vâng.
Minh phì cười, cậu ta nói:
- Ông đúng là người điên dệt mộng mà. Tôi còn không nhớ nổi truyện năm ngoai nữa nói gì đến chuyện nhớ lại cái kiếp đầu tiên của mình.
Mười Họa đứng đó im lặng, trong lòng lão ta đang uất ức lắm, lão ta uất vì lão tin rằng chắc chắn Thiên Phụ và Địa Mẫu đã làm gì với vong hồn của Hắc Đế nên bây giờ ngài mới ra nông nỗi này, Thấy rằng cái cách thuyết phục hay như ép cho Hắc Đế nhớ lại kiếp trước là không được. Mười Họa bảo Chiến đưa cho lão ta một con dao, Chiến rút dao quân sự ra đưa cho Mười Họa, lão cầm con dao rạch ngay một vết sâu trên cổ tay, máu lão tuôn chảy. Thế rồi mười họa tiến tới, úp đầu Minh xuống, mặc cho cậu ta gào thét:
- Ông làm cái trò gì thế?!
Mười Họa Một tay ghì đầu Minh xuống, một tay đưa dao lên, lão nói:
- Thành thật xin lỗi ngài, nhưng tôi không còn cách nào khác, phải làm thế này thì ngài mới nhớ lại được.
Thế rồi Mười Họa dùng dao rạch chéo hai vết thẳng lên gáy Minh, nơi có ba cái nốt ruồi. Sau đó lão quăng dao, đưa tay lên nhỏ máu của mình lên thẳng cái vết rạch trên gáy Minh. Khi máu của Mười Họa nhỏ thẳng vào vết thương hở trên gáy Minh, chỉ thấy người Minh rung lên bần bật, thế rồi đột nhiên Minh gồng người đứt dây trói, hất văng Mười Họa vào tường. Đám người còn lại trong phòng thì sợ hãi tột cùng, bọn chúng thấy Minh ôm đầu giẫy giụa, khắp người bốc lên khói đen, thế rồi chợt nhiên Minh lăn ra đất bất tỉnh. Mười Họa lúc này mới đứng dậy tiến về phía Minh, trên nét mặt lão ta có thoáng qua chút thất vọng, không lẽ Minh không phải là hiện thân của Hắc Đế? Không lẽ quả thật Thiện Phụ và Địa Mẫu đã làm gì minh rồi?
Nhưng ngay khi cái sự thất vọng của Mười Họa dâng lên đến đỉnh điểm, lão để ý thấy khắp người Minh bắt đầu xuất hiện những vằn vện đen bốc khói, thế rồi một lớp giáp đen bao bọc lấy toàn thân. Mười Họa mừng rỡ rơi nước mắt, thế rồi Minh mở to mắt, một cặp mắt đen ngòm. Minh từ từ đứng dậy, cậu ta bây giờ thở ra khói đen, Minh nhìn khắp phòng, Mười Họa mừng rỡ vội quỳ xuống cúi lạy mà nói trong nước mắt:
- Hắc đế... ngài đã quay về rồi.
Mấy tên còn lại thấy Mười Họa quỳ lạy thì cũng vội làm theo. Vậy chẳng lẽ, Hắc Đế đã thực sự hội sinh? Vậy có nghĩa là hắn ta chưa bao giờ chết?
... Tại Thiên Đình ...
Thiên Phụ đang ngồi uống trà một mình bên cạnh ao cá thơ mộng, ông ngồi ngắm nhìn những bông hoa nở tươi sắc ven hồ. Thả mình vào cái mùi hương thơm thoang thoảng trong không khí, ngắm nhìn những con cá chép đang bơi lội tung tăng trong dòng nước trong lành. Bạch Long từ từ tiến tới, Thiên Phụ quay qua nhìn thì Bạch Long cúi đầu chào:
- Thần nhi xin tham kiến Thiên Phụ.
Thiên Phụ mỉm cười, thế rồi ông miễn lễ, để Bạch Long ngồi xuống cạnh mình. Thiên Phụ rót một ly trà đẩy về phía Bạch Long. Bạch Long làm một ngụm, thế rồi cậu ta cùng với cha thả mình vào cái không khí thanh tịnh và yên bình tại nơi hồ nước nên thơ này. Bất chợt Thiên Phụ thở dài một hơi, thế rồi ông nói:
- Ta biết con đến đây về vấn đề gi rồi.
Bạch Long không nói năng gì, chỉ quay qua nhìn Thiên Phụ. Thế rồi Thiên Phụ tiếp lời:
- Trước tiên ta cũng muốn xin lỗi về việc đã trói con tại Cột Trụ Thiên, ta làm thế là có hơi nặng.
Bạch Long vội cúi đầu đáp:
- Thưa cha, cha không hề có lỗi, chỉ tại con quá hồ đồ, nóng nảy nên đã thốt mạo phạm tới cha.
Thiên Phụ quay qua nhìn Bạch Long, ông mỉm cười rồi vỗ lên vai của Bạch Long, ông nói:
- Con muốn biết gì về Hắc Đế.
Bạch Long lúc này mới nói vào chủ đề chính:
- Con có nghe chư thần trên Thiên Đình bàn tán với nhau về việc Hắc Đế đã hồi sinh. Con chỉ muốn biết điều đó là có thật hay không thôi ạ.
Thiện Phụ thở dài rồi nói:
- Để ta kể cho con nghe một câu chuyện nhé.
Bạch Long vâng lời, thế rồi cậu ta ngồi chăm chú lắng nghe cha mình kể lại mọi việc từ thời điểm Hắc Đế ra đời.
Thiên Phụ kể rằng, ngay xưa trần thế là một nơi tuyệt đẹp, con người ta nói cùng một thứ tiếng, cùng một mầu da, và có chung một niềm tin và lý tưởng sống. Thời gian thấm thoát trôi qua, con người sống hòa thuận với nhau, đâu đâu cùng tràn ngập niềm vui và sự hạnh phúc. Thế nhưng cho đến một ngày, Thiên Phụ thấy rằng cuộc sống của con người là quá dễ dãi, và ông ta muốn thử lòng con người. Thế cho nên, Thiên phụ đã chọn ra một gia đình tại một vùng đất gần biển, một gia đình giầu cố tốt bụng, và luôn hết lòng thờ phụng ông và Địa Mẫu. Thiên Phụ bắt người cha trong gia đình đó phải trải qua những sự đau đớn nhất trên cõi đời, đó là chứng kiến hai đứa con thân yêu và gia đình chúng bị gϊếŧ hại. Sau đó, Thiên Phụ còn khiến cho cả gia đình người này phải tán gia bại sản, sống một cuộc sống trốn lui trốn lủi. Nhưng điều mà Thiên Phụ không ngờ được, đó là cái món quà quý giá nhất mà ông và Địa Mẫu ban tặng cho con người lại có thể là một con dao hai lưỡi, món quà đó chính là cảm xúc.Con người ta một khi đã bị dồn vào bước đường cùng, cảm xúc trào dâng lẫn lộn có thể sinh ra một thứ đáng sợ, cái thứ được gọi là tâm ma. Chính cái tâm ma này làm thay đổi con người, khiến cho con người ta có thể từ một người tốt trở thành một kẻ xấu hoàn toàn, và chính cái người mà Thiên Phụ trọn để thử thách đó đã hóa thân thành Hắc Đế. Kể từ lúc Hắc Đế xuất hiện, mọi thứ dường như đã vượt ra khỏi tầm kiển soát của Thiên Phụ hoàn toàn, ông đã tốn không biết bao nhiêu thần thánh, thiên binh thiên tướng, để tiêu diệt Hắc Đế. Nhưng rồi, kết quả vẫn lại về không, Hắc Đế không những không gϊếŧ được, Cửu Trụ Thiên (tượng trưng cho lòng trung thành thờ phụng của loài người với Thiên Phụ và Địa Mẫu) bị đánh sập còn có một, rồi việc Chung Giới Môn bị mở ra, tà ma yêu đạo đặt chân lên thiên đình, và đả thương vô số chư vị thần tiên trên Thiền Đình. Thấy rằng không còn cách nào có thể cứu vãn lại được cái sai lầm này nữa, Thiên Phụ đã đưa ra một cái quyết định, một quyết đinh mà khiến cho thâm tâm của ông phải hối hận mãi mãi, đó chính là làm lại thế giời. Để làm lại thế giới, không còn một cách nào khác ngoài việc là phải phá bỏ đi tất cả, và xây dựng lại từ đầu. Việc xây dựng lại thế giới thì dễ, nhưng mà để phá hủy toàn bộ thế giới và chắc chắn rằng Hắc Đế vĩnh viễn biến mất, thì cần có một thứ gì đó có sức mạnh vô song, đó cũng chính là lúc Thiên Phụ quyết định dùng Tam Vị Trân Hỏa Đại Cầu và Hàn Băng Cực Đại Cầu.
Ngay cái lúc mà Thiên Phụ giáng hai quả đại cầu xuống trần thế để tiêu diệt Hắc Đế, có lẽ ngay tại cái giây phút đó, ông đã có một chút hối hận trong thâm tâm. Nói là hối hận trong thâm tâm là vì khi Thiên Phụ nghĩ lại mọi chuyện ra đến nông nỗi như ngày hôm nay, tất cả đều do bản thân ông gây ra mà thôi. Ngoài ra, Thiến Phụ cũng nghĩ rằng, bản thân ông Tất (người sau này trở thành Hắc Đế) vốn dĩ cũng chỉ là một con người hiền lành tốt bụng, nhưng do Thiện Phụ đã quá tay, muốn thử lòng con người mà dẫn đến việc ông ta trở thành Hắc Đế. Nghĩ đến đó, lúc giáng hai quả đại cầu xuống trần thế, Thiên Phụ đã làm giảm bớt đi năng lượng của hai quả đại cầu phần nào. Với cái lí do đó, chúng ta đã có được câu trả lời cho vấn đề tại sao Hắc Đế không hoàn toàn biến mất khỏi trần thế này. Tuy nói là hai quả đại cầu giáng xuống trần thế không đủ sức mạnh để làm Hắc Đế tiêu tan khỏi trần thế, nhưng sức nóng của Tam Vị Chân Hỏa cộng thêm cả cái khí lạnh của Hàn Băng cũng đủ sức làm tiêu tan thể xác của Hắc Đế. Đáng lẽ là hai sức lực này sẽ ăn sâu vào tận bên trong cơ thể, làm tiêu tan cả hồn phách của hắn, nhưng chính nước mắt của người vợ năm xưa (tức là bà Tất, hay như Vương Mẫu Nương Nương sau này) nhỏ xuống trần thế đã bao bọc lấy linh hồn của Hắc Đế. Khi bị bắt lên thiên đình chịu tội, Hắc Đế vẫn luôn miệng chửi bới Thiên Phụ trước mặt các thần tiên. Ngay lúc đó, tất thẩy thần tiên đều có một ước nguyện đó là mong Thiên Phụ tiêu diệt Hắc Đế ngay khi còn có thể, nhưng Thiên Phụ lại nghĩ khác. Trong lòng ông nghĩ rằng những lời lẽ chửi bới kia là có phần đúng, và ông không được phép phủ nhận điều đó. Cuối cùng, Thiên Phụ đã bỏ ngoài tai những lời đề nghị của thần tiên về việc tiêu diệt Hắc Đế, ông đã ban cho Hắc Đế một cơ hội nữa. Vậy cơ hội ở đây là gì? Nên nhớ rằng trước khi trần thế được tái tạo lại, Âm Tào Địa Phủ chưa tồn tại. Chỉ sau khi đã tạo lại trần thế, hay như tái tạo lại con người, Thiên Phụ mới bảo Địa Mẫu lập thêm một nhà giam nữa, đó chính là Âm Tào Địa Phủ, và người đầu tiên vào nhà giam đó chính là Hắc Đế.
Âm Tào Địa Phủ lúc mới lập ra có tất cả 18 tầng địa ngục, cũng như người đời này vẫn thường truyền tụng nhau. Hắc Đế trước tiên bị giam tại địa ngục 100 năm, và bị giam ngay vào tầng cuối cùng của Âm Tào Địa Phủ, đó là tầng thứ 18. Nếu nói rằng 17 tầng trên của địa ngục là sự hành hạ về thể xác, những kẻ lầm đường lạc lối khi bị bắt xuống đây sẽ phải chịu tra tấn cực hình, đau đớn vạn phần, thì tầng 18 dưới địa ngục lại không phải là hành hạ về thể xác, mà là tinh thần. Bất kỉ kẻ nào một khi đã bị giáng xuống tầng 18 của địa ngục sẽ phải trải qua những thời điểm đau đớn nhất trong cuộc đời, cái nối đau mà không một sự đau đớn thể xác nào có thể so sánh được, đó chính là nỗi đau trong lòng. Ví như Hắc Đế, khi hắn bị giam tại tầng 18 của dịa ngục, ngày ngày, Hắc Đế phải trải qua nỗi đâu đớn cảnh hai đứa con bị gϊếŧ, rồi thì cảnh bị phản bội, rồi thậm chí cả cảnh chính tay mình gϊếŧ vợ giã man như thế nào. Nên nhớ rằng khi hắn đã xuống dưới tầng 18 của địa ngục rồi, thì Hắc Đế chỉ còn là ông Tất, một người phàm tục. Thật ra cái nỗi đau này không phải là để tra tấn Hắc Đế về những việc mà bản thân hắn đã làm, mà sự tra tấn đó chỉ là để hắn mở mắt, cảm nhận được những gì mà hắn đã gây ra cho người khác. Thời gian thấm thoát trôi qua, cứ tưởng những thời khắc đau đớn nhất trong cuộc đời hắn sẽ làm cho hắn mở mắt, nhưng không, tâm ma của Hắc Đế còn quá mạnh, và trong lòng hắn vẫn luôn thù hận Thiên Phụ. Một trăm năm trôi qua, đã đến ngày Hắc Đế được đi đầu thai. Đáng lý ra thì Hắc đế không được phép đầu thai làm người ngay, mà phải trải qua ngã súc sinh trước. Nhưng Thiên Phụ thiết nghĩ, chính ông đã lấy đi gần như một đời người của Hắc Đế, thì nay Thiên Phụ sẽ trả lại cho Hắc Đế 1000 kiếp người. Mặc dù biết rằng tâm ma mạnh như Hắc Đế thì uống canh Bà Mạn để quên đi kiếp trước cũng là vô dụng, nhưng Thiên Phụ vẫn hy vọng rằng rồi Hắc Đế sẽ thay đổi. Và rồi cứ như thế, Hắc Đế đã chịu cảnh sống chết luân hồi 1000 năm, sống từ kiếp này qua kiếp khác, và có vẻ như hắn không bao giờ quên được sự thù hận, lúc sống Hắc Đế vẫn cố gắng tu luyện tà đạo, viết tà kinh, và tìm cách gây chiến tranh khổ đâu cho loài người. Người đời thường nói, có những thứ mà thời gian không thể xóa bỏ được, và một trong những thứ đó là vết thương lòng, nhưng có lẽ câu nói này đã không hoàn toàn đúng.
Hy vọng của Thiên Phụ đã không tắt lịm khi mà bắt đầu từ kiếp 666 của Hắc Đế, hắn đã bắt đầu thay đổi. Có lẽ những gì Hắc đế thấy và nếm trải qua từng nấy kiếp người, những khổ đau mất mát đó đã khiến cho hắn mở mắt. Cộng thêm với việc canh Bà Mạn không có tác dụng với hắn, nên Hắc Đế vẫn có phần nào nhớ mang máng được những sự khổ đau mất mát từ cái kiếp trước của hắn. Cho đến thời điểm hiện tại, tức là cái kiếp thứ 999 của Hắc Đế, khi hắn đầu thai xuống nước Việt Nam, làm một thiếu tá cảnh sát hết lòng vì dân vì nước, điều này đã khiến cho Thiên Phụ cảm thấy nguôi ngoai được phần nào. Tuy nhiên, Thiên Phụ biết chắc chắn rằng tâm ma trong lòng Hắc Đế là vẫn còn, hiện giờ nó chỉ bị suy yếu đi mà thôi. Ngoài ra, cái việc mà Hắc Tướng Quân tìm đến Hắc Đế để khôi phục lại tâm ma cho hắn, Thiện Phụ cũng đã tiên đoán được. Việc Thiên Phụ vẫn để cho Hắc Tương Quân cái cơ hội đó là vì ông tin rằng sau mấy trăm năm luân hồi, Hắc Đễ đã không còn như trước, và cái kiếp thứ 999 này chính là cái cơ hội cuối cùng mà Thiên Phụ ban cho Hắc Đế với hy vọng rằng hắn ta sẽ không lầm đường lạc lối nữa, sẽ không còn rơi vào ngã quỷ một lần nữa.
Nghe đến đây, dường như Bạch Long đã hiểu ra tất cả, cậu ta ngồi ngẫm nghĩ lại. Có lẽ bây giờ sâu thẳm trong thâm tâm Bạch Long đã không còn oán trách cha mình lạnh lùng và vô cảm như ngày trước nữa, mà bây giờ, cậu lại thấy rằng cha mình là một người có tấm lòng rộng lượng và nhân ái, chẳng trách mà cho dù Cửu Trụ Thiên đã sụp xuống còn một, vậy mà người đời vẫn luôn sùng bái và tôn thờ ông. Nghĩ đến đây, Bạch Long vội đứng dậy và quỳ xuống trước mặt Thiên Phụ, cậu ta nói giọng nghẹn ngào:
- Thần nhi thực sự khâm phục phụ thân, thân nhi xin phụ thân thứ tội cho thần nhi vì đã không hiểu biết sực việc một cách tường tận, mà vô tình thốt lời mạo phạm đến người.
Thiên Phụ vội đỡ Bạch Long dậy và nói:
- Con trai của ta, tạo ra con người và trừng phạt họ chỉ là chuyện nhỏ, nhưng làm sao để họ sống có ý nghĩa và thấu hiểu được chân lý của sự sống mới là khó.
Bạch Long nhìn Thiên Phụ rưng rưng nước mắt, giờ thì cậu ta mới thực sự hiểu được nỗi niềm của cha mình.
... Tại phòng họp ở Ủy Bản Nhân Dân, thuộc địa phận Thanh Hóa, Việt Nam ...
Chỉ Huy Hiếu mở một cuộc họp khẩn cấp, trong đó còn có cả Uy tham dự. Tại buổi họp này, bác Hiếu nói:
- Như các đồng chí đã biết, việc di tản dân chúng vào miền Trung và miền Nam tạm thời coi như là hoàn tất. Hiện giờ số lượng quân đang đóng tại Thanh Hóa là năm đại đội. Thêm vào đó, chúng ta còn nhận thêm ba đại đội nữa vừa mới được cử tới viện trợ từ địa phận Thái Hòa và Quỳnh Bảng. Hiện giờ đã cử hai đai đội đi canh gác tại các địa điểm máu chốt, tạo nên một bức tường kiên cố. Ngoài ra, tôi đã phân công và bố chí thêm ba đại đội nữa ở lại giúp người dân di tản nốt và canh giữ Thanh Hóa. Cuối cùng chúng ta còn ba đại đội dự bị, ý của tôi là chúng ta điều động ba đại đội này đánh chiếm lấy những vùng lân cận địa phận Thanh Hóa. Trước là để giải cứu những người dân vô tội còn mắc kẹt lại, hai là để giải phóng thêm nhiều địa bàn, đợi cho quân chi viện từ Vinh, Đồng Hới, Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, và Nha Trang tới. Khi quân chị viện tới, chúng ta sẽ cùng nhau liên kết lại và giải phóng Hà Nội cùng một lúc. Các đồng chí có ý kiến gì không?
Mọi người trong phòng họp không ai nói một lời nào, có lẽ ai ai trong lòng cũng có chung một ý nghĩ đó là quyết chiến quyết thắng, muốn giải phóng miền Bắc khỏi quân phản động càng sớm càng tốt. Uy ngồi ngẫm nghĩ một lúc, thế rồi chú ta nói:
- Chỉ huy có biết bao giờ quân cứu viện sẽ tới không?
Bác Hiếu đáp:
- Theo như thông tin nhận được thì là cuối tuần này.
Chú Uy hỏi tiếp:
- Thế với lực lương bao gồm ba đại đội này, chỉ huy tính đánh ở đâu trước?
Bác Hiếu bèn chỉ tay lên tấm bản đồ đã để sẵn trên bàn và nói:
- Sau đây sẽ là chiến lước tiến quân của ta. Theo như tin mật báo, thì một lượng lớn quân phản động đóng chốt tại địa bàn Thịnh Vượng. Để mở đường giải phóng cho thủ đô Hà Nội, chúng ta sẽ tiến đánh địa phận Nga Sơn trước. Điều đầu tiên sau khi chiếm đánh là giải cứu toàn bộ người dân còn mắc kẹt lại ở đó, điều thứ hai là lập một tuyến phòng thủ kiên cố, đợi cho quân chi viện từ các vùng miến tới, sau đó sẽ tiến đánh và giải phóng thủ đô Hà Nội. Để chiếm giữ được địa phận Nga Sơn, tôi sẽ chia quân ta ra là hai tốp, mặt đất và đường biển. Tốp một bao gồm hai đại đội sẽ đi đường Quốc Lộ 10 đến địa phận Hòa Bình, khi đến nơi, chúng ta sẽ vượt đường rừng núi đi theo hướng Đông Thôn tiến đến Kỳ Sơn. Sau đó tốp một sẽ vượt sông Lèn, tiến vào địa phận Hà Hải vượt qua đường Tỉnh Lộ 508 tiến thẳng tới Hà Châu và nằm phục kích ở đây. Sau khi đã ổn định đội hình tốp một sẽ phân chia lại ra làm hai đại đội, một đại đội phục kích tại đây, đại đội thứ hai sẽ lằng lẳng men đường rừng núi tiến thẳng tới thôn Giáp Nội và phục kích ở đó. Lý do chúng ta phải chánh các con đường lớn mà chọn đường rừng núi là vì như các đồng chí biết, quân địch chắc chắn sẽ chặn đầu tại các ngả đường dẫn tới Nga Sơn, nên chúng ta cần phải giữ bí mật tiến quân tuyệt đối. Còn tốp hai, các anh sẽ đi bằng đường biển từ Cửa Hới, cứ thế men theo bở biển cho đến khi cập bến thuộc địa phận xã Kim Trung. Sau đó tốp hai sẽ đi vòng qua Cửa Lạch Cán, tiến thẳng tới Nga Thạch và nằm phục kích ở đó. Sau khi ba đại đội đã vào vị chí phục kích, để tránh bị phát hiện khi dùng bộ đàm liên lạc, chúng ta sẽ thống nhất cùng tiến đánh vào lúc mười hai giờ trưa. Các đồng chí rõ cả rồi chứ, có ai còn thắc mắc hay như câu hỏi gì khác không.
Mọi người đều yên lặng, vì xem ra kế hoạch tiến quân lần này của bác Hiếu coi bộ có vẻ như quá hoàn hảo. Chú Úy ngồi ngẫm nghĩ một lúc thế rồi chú ta nói:
- Nhưng phải giải quyết sao với bọn quỷ. Đành rằng quân phản động thì ta không lo, chỉ lo cái bọn không phải là người mà thôi, liệu chúng ta có dám chắc rằng chúng ta sẽ chiến thắng chỉ với ba đại đội không? Theo như những gì tôi ghi nhận được tại Hà Nội thì súng đạn của ta là vô hiệu lực với bọn quỷ, chỉ huy chắc hẳn biết điều này chứ?
Nghe việc chú Úy nhắc đến lũ quỷ, lúc này mọi người trong phòng họp ai ai cũng phải rùng mình. Thế rồi trên khuôn mặt họ lộ rõ một chút gì đó lo lắng, tất cả quay đầu nhìn về phía bác Hiếu. Bác Hiếu đáp:
- Quân trinh thám cho biết, không hề có dấu hiệu của quỷ tại Nga Sơn, tất cả đều là quân phản động. Bọn quỷ đó chủ yếu chỉ đóng tại các vùng giáp ranh với Hà Nội mà thôi. Cho nên chúng ta lần này chắc thắng.
Nghe bác Hiếu nói thế, tất thể mọi người ai ai cũng mừng rỡc ra mặt. Riêng có mỗi Uy vẫn ngồi đó suy ngẫm, chú ta nghĩ rằng không có lẽ nào mọi việc lại đơn giản và chắc ăn như thế được, biết đâu Nga Sơn là một cái bẫy để dụ quân ta. Chú Úy ngồi trong phòng họp nghe toàn thể các đồng chí khác cùng hô to khẩu hiệu "quyết chiến, quyết thắng" mà trong lòng cũng không nỡ dập tắt đi cái tinh thần chiến đấu đang sôi sục trong lòng họ. Sau khi đã bố chí và phân công rõ ràng. Mọi người ai ai cũng ra về để chuẩn bị cho tối ngày kia xuất quân. Đợi cho đến khi mọi người đã ra về hết, lúc này chú Uy mới tiến tới, chú ta nói nhỏ với bác Hiếu:
- Tôi hy vọng rằng chiến lược của chỉ huy lần này sẽ thành công rực rỡ. Vì nói cho cùng, mạng của mấy trăm chiến sĩ đều nằm trong tay chỉ huy đó.
Bác Hiếu nghe câu nói đó của chú Uy thì im lặng, chỉ biết nhìn chú ta. Chú Uy chào tạm biệt bác Hiếu và nói:
- Tôi cũng về đây, các đồng chí cứ triển khai chiến lược như dự tính. Tôi sẽ ở lại đây đợi quân chi viện tới, khi họ tới tôi sẽ cùng với bọn họ tiến tới Nga Sơn gộp quân với các đồng chí.
Nói rồi chú Uy lặng lẹ bước đi, bỏ lại bác Hiếu đứng đó nhìn theo chú Uy đi xa dần khỏi Ủy Bản Nhân Dân.
Trang sau cái hôm giả lại quân hầm cho bác Hiếu, cô cũng chưa về lại miền Nam ngay, mà nán lại giúp người dân di tản trước. Có lẽ vì trong lòng Trang vẫn chưa quên được hình ảnh nguyên một gia đình ở Yên Phú bị gϊếŧ, và cô quyết sẽ không để cho cảnh tượng đó lập lại. Tối nay lượng người di tản đã dảm xuống chỉ còn có mấy tốp, Trang tính sáng mai sẽ là tốp xe cuối cùng trở người dân tị nạn đi, cô cũng sẽ nhẩy lên xe và vào lại trong Nam luôn, chắc có lẽ bản thân Trang cũng đã quá chán nản với cảnh bom đạn chiến trường này rồi. Hôm đó sau khi dọn dẹp xong khu "Nguyện Ước Di Dân", Trang chuẩn bị ra về thì chợt bác Hiếu tiến tới, Trang như một thói quen, cô đướng nghiêm chào bác Hiếu theo nghi thức quân đội, bác Hiếu chào đáp lại, thế rồi bác đưa cho Trang một tập hồ sơ và nói:
- Đây là hồ sơ chiến dịch Nga Sơn, cháu xem qua đi.
Trang đón nhận lấy tập hồ sơ, cô ngơ ngác còn đang định hỏi lại thì bác Hiếu đã móc trong túi áo trước ra hai cái quân hàm bả vai mà Trang để lại hôm nào. Bác ta nói:
- Quân đội của chúng ta luôn cần nhưng người tuổi trẻ tài cao như cháu. Bác chỉ muốn chau suy nghĩ cho kĩ, vì dù gì quyết định cũng là ở bản thân cháu. Luôn nhớ rằng không phải chỉ có một gia đình còn mắc kẹt lại ở Yên Phú, mà còn hang trăm hộ gia đình khác đang đợi ngày giải phóng khỏi quân phản động.
Nói rồi bác Hiếu đặt hai cái phù hiệu quân hàm vào tay Trang, bác ta nắm chặt lấy tay cô nói giọng nghẹn ngào:
- Còn về hai cái phù hiệu bả vai này, cháu hãy giữ lấy nó làm kỉ niệm. Hãy luôn ghi nhớ rằng mình đã từng phục vụ trong quân đội, luôn tự hào là một chiến sĩ hết lòng vì tổ quốc, vì người dân.
Nói rồi bác Hiếu lặng lẽ chào tạm biệt Trang đi về phòng của mình. Trang đứng đó tay cầm phù hiệu với tập hồ sơ nhìn theo, chợt cô rưng rưng hai dòng lệ, Trang bất chợt gọi lớn:
- Chỉ huy ...
Bác Hiếu quay lại nhìn cô mỉm cười, bác đưa tay lên chào theo nghi lễ, thế rồi lẳng lặng bước đi mà không kịp nhìn thấy hai dòng lệ đã tuôn rơi trên mặt Trang, trên mặt của một nữ quân nhân.