Quyển 10 - Con Rồng Cháu Tiên
Trước khi đi vào câu truyện dưới đây, tôi có đôi lời muốn nói với bạn đọc. Thứ nhất, những nhân vật, sự kiện, và ban ngành dưới đây chỉ được mượn tên, chứ trên thực tế, chúng không hề chính xác và đúng một chút nào. Thứ hai, sở dĩ tôi lấy địa điểm là đất nước Việt Nam của tôi là vì tôi muốn bạn đọc cảm thấy gần gũi hơn mà thôi. Điều cuối cùng mà tôi muốn lưu ý với bạn đọc rằng nếu nội dung trong truyện bị nói quá lên hay hiểu sai nghĩa, nó sẽ không hay và gây rắc rối cho bạn đọc và ngay như cả tôi. Thế cho nên, tôi chỉ muốn nói một điều cuối cùng, truyện dù sao cũng chỉ là truyện, làm ơn đừng hiểu nó theo một nghĩa trái ngược hay như cố tình gán ghép nó vào một giai đoạn lịch sử, hay như gán ghép cho bất kì một ai hay như một ban ngành tổ chức nào, vì truyện hoàn toàn không có thật, tất cả tình tiết và nội dung đều do tôi nghĩ ra và tạo nên, xin chân thành cám ơn bạn đọc. Một chi tiết đáng lưu ý nữa là bạn đọc sẽ thấy có nhiều chương đề "mở đầu". Bạn có thể tạm hiểu ở đây rằng đó là những sự mở đầu khác nhau cho chung câu truyện này, tuy nhiên nó diễn ra ở nhiều nơi khác nhau, cùng nhau dẫn dắt người đọc đến một cái thân truyện, hay như giúp bạn đọc có một cái nhìn bao quát hơn, để có thể cảm nhận được câu truyện rõ rệt hơn, hay cũng có thể là một bộ phim có nhiều đoạn trailer vậy, xin mời bạn đọc cùng tôi thưởng thức câu truyện mà các bạn đã đón đợi từ rất lâu.
Mặc dù đã sắp đến ngày lễ nghìn năm Thăng Long, hầu như các cơ quan ban ngành đều cho công nhân viên chức cán bộ của mình nghỉ mười ngày để có thể tham gia vào đại lễ của dân tộc, để có quyền tự hào bản thân mình là con rồng cháu tiên, là người Việt Nam. Cho dù đã là tối ngày mùng 9 tháng 10 rồi, nhưng tại viện bảo tàng dân tộc học vẫn có một nhà nghiên cứu lịch sử cặm cụi ngồi đọc dịch một cuốn sách gì đó trong phòng làm việc của ông. Qua nét mặt của ông, chúng ta cũng không thể nào mà hiểu rõ được rằng ông đang ngạc nhiên, mừng rỡ khi tìm được một báu vật cổ kính, hay như ông ta đang thực sự sợ hãi trước cái sự mê tín dị đoan của người Việt Nam chúng ta gần một ngàn năm về trước, cái thời mà ma quỷ và thần thánh còn đang tranh giành quyền lực. Đang say sưa ngồi nghiên cứu, tìm tòi, và dịch học, chợt tiếng cửa ở phòng nhà nghiên cứu lịch sử học vang lên. Ông ta có hơi giật mình quay lại và nhìn, thì ra đó là Hoàn, nhân viên bảo vệ của viện bảo tàng dân tộc học. Hoàn nhìn ông Hùng cười nói:
- Bác vất vả quá, giờ này vẫn chưa về cơ à?
Ông Hùng mỉm cười đáp:
- Thì cậubiết đó ... tôi vốn say mê với công việc ... bây giờ lại tìm được một vật chứng lịch sử quan trọng và thú vị thế này ... khó lòng mà dứt ra được.
Hoàn cũng cười khì, thế rồi cậu ta nói:
- Vậy có gì tí bác nhớ khóa cửa nhé, cháu xin phép về trước...
Ông Hùng mỉm cười vẫy tay và nói:
- Cậu cứ về đi, tí tôi khóa cửa cẩn thận cho.
Hoàn đáp:
- Dạ vâng, chỉ còn cái cửa sau thôi bác nhé, cửa trước cháu khóa kĩ càng hết rồi.
Ông Hùng gật đầu, thế rồi Hoàn cũng chào tạm biệt rồi ra về trước. Khắp cả cái viện bảo tàng dân tộc học, giờ chỉ còn lại một mình ông Hùng. Không gian bốn bề im lặng đến dễ sợ, nếu ở trong viện bảo tàng một mình vào buổi đêm như thế này, có lẽ một người có thể nghe thấy cả tiếng nói chuyện vọng về từ cái thế giới bên kia vậy. Do đã là tháng mười nên thời tiết cũng nát mẻ hơn hẳn, mặc dù đã ở cửa sổ phòng, nhưng không hiểu sao càng dịch hiểu những câu từ trong cuốn sách mà ông và một số người bạn đồng nghiệp tìm được tại một ngôi chùa cổ giữa lòng thành phố Hà Nội, ông Hùng lại càng nhớ rõ hơn cái cảnh một số đồng nghiệp đã phải bỏ mạng chỉ để lấy được cuốn kinh sách này ra, và càng thấu hiểu hơn tại sao người ta lại bảo vệ nó kĩ càng như vậy. Theo như những gì ông Hùng hiểu được, thì cuốn kinh sách này nếu người nào không có học thức rộng về lịch sử sẽ coi đây như một quyển sách kinh dị, không có thật. Tuy nhiên, đối với những người dày dặn kinh nghiệm về lịch sử như ông Hùng, thì cuốn kinh sách này là cả một kho báu vô giá, nó chỉ ra rõ ràng rành mạch, hơn thế nữa nó còn là một chứng cứ sống về việc thế giới bên kia và tà ma yêu đạo là có thật.
Đại khái nội dung cuốn sách nói về những con vật đã bị yểm bùa và tu luyện. Nếu nói rằng con người ta có thể bị bỏ bùa và chơi ngải, thì con vật cũng tương tự. Nhưng trong sách này còn nói lên một điều còn đáng sợ hơn cả những thứ bùa ngải, hay như tà ma, đó chính là những con linh thú hay có thể gọi là ma thú. Linh thú như trong sách nói ý chỉ những con vật chưa thực sự đã thuộc về bóng tối, mà trong sâu thẳm chúng ít ra vẫn còn mốt chút linh tính, ý nói rằng người luyện vẫn có thể sai bảo và điều khiển được chúng dễ dàng. Tuy nhiên, một khi con thú đã được luyện thành ma thú rồi thì chúng chắc chắn sẽ không còn có một chút gì gọi là linh tính cả. Thường thì ma thú chỉ được luyện khi mà người tu luyện chúng chắc chắn rằng pháp lực của mình cao cường lắm. Vì một khi mà ma thú đã luyện thành, sẽ không có gì khống chế hay như ngăn cản được chúng. Tuy nhiên, ma thú nói là sẽ gϊếŧ sạch, phá sạch, nhưng chúng chỉ lui bước trước người hay như một thứ gì đó mà thực sự có sức mạnh hay như quyền năng hơn hẳn chúng, và cái việc mà có một thế lực nào đó khiến cho ma thú phải lùi bước dường như là không tồn tại, nếu có thì cũng rất là ít và hiếm hoi. Thú vật trong sách để luyện thành ma thú hay như linh thú thì rất nhiều, từ những con ma ong với một chiếc kim độc chết người, hay như những con ma bướm có thể mang mộng phấn làm cho con người ta chìm đắm mãi mãi vào một giấc ngủ ngàn thu, chết mà không chết, sống cũng không hẳn sống cho đến những con vật to lớn như ma tượng với sức khỏe phi thường, cho đến những con vật dữ tợn như ma sói hay như ma gấu.
Mỗi con vật đều có một cách tu luyện riêng và rất khác biệt, thế nhưng, cho dù là luyện linh thú hay ma thú, một thứ nguyên liệu không bao giờ thiếu đó là máu và thit của con người. Đọc đến đây ông Hùng tháo cặp kính xuống dụi mắt và nghĩ ngợi một lúc. Trong sách này nói cũng đúng thôi, cho dù có là vũ khí hay như tà đạo đi chăng nữa, chúng đều không có tốt hay xấu, mà chỉ có người sử dụng nó là người tốt hay người xấu mà thôi. Ngay đén cái cuốn kinh này cũng đã nói lên một cái sự thật cay đắng từ lâu lắm rồi, không có gì độc ác, không có gì tàn nhẫn hơn con người cả. Đó cũng là một câu trả lời đơn giản cho việc dù có luyện linh thú hay ma thú thì cái cần có cũng là sự độc ác và tàn nhẫn của con người mà thôi. Tuy nhiên thế giới này được tạo ra bởi sự cân bằng của mọi thứ, cũng như đã có mặt trăng thì phải có mặt trời, có buổi sáng thì phải có buổi đêm, có nóng thì phải có lạnh, và có ma quỷ thì tất hẳn, phải có thần thánh. Thế cho nên, cái việc tạo linh thú với ma thú cũng chỉ là làm giúp cân bằng lại cái thế giới này mà thôi, đó là để đối phó lại thánh thú. Thánh thú là sao? Thánh thú là những con thú nửa phàm nửa thánh, chúng không hẳn là do thần thánh luyện ra, mà đơn giản chúng đã tu nhiều kiếp để rồi được phái làm thánh thú, sống tại trần thế, thoát khỏi luân hồi sinh tử, để thay thần thánh mà canh giữ trần thế. Lấy ví dụ như thánh miêu, đọc đến đây ông Hùng bắt đầu suy nghĩ "không lẽ trong sách ám chỉ linh miêu". Thánh miêu chỉ là một số ít trong những con vật được trở thành thánh thú. Thánh miêu là một thánh thú được trên trời phái xuống trần thế để canh giữ cánh cổng giữa cõi âm và cõi dương. Thánh miêu còn có một quyền năng khác, đó là nó không chỉ canh giữ cánh cổng âm dương đó không, mà nó còn có thể làm cho người sống nhìn thấy được người âm, hay như đưa người âm về lại với cõi sống vậy. Ngoài thánh miêu canh giữ cánh cửa âm dương ra còn có thánh cẩu, tuy nhiên thánh cẩu không có được nhiều quyền năng như thánh miêu. Nhưng bù lại, thánh cẩu chính là người canh giữ những khu mồ mả, chúng ngăn ngừa người âm không quay lại được, hay như săn lùng những vong hồn còn lởn vởn cố ý hãm hại người cõi âm. Nói là thánh cẩu không có nhiều quyền năng như thánh miêu, nhưng thực tế, thánh cẩu có thể nhìn thấy được người cõi âm bất kể ở đâu, bất kể dưới hình dáng gì, và nguy hiểm hơn cả, tiếng tru và tiếng sủa của thánh cẩu có thể khiến cho vong hồn bị tan biến mất mãi mãi khỏi cõi đời này. Cũng như linh thú và ma thú, thánh thú tồn tại rất nhiều loại, và mỗi loại có một quyền năng và sức mạnh riêng, thế cho nên việc luyện linh thú và ma thú coi như cũng là một chuyện bình thường, một điều hiển nhiên để giúp cho cái thế giới này cân bằng trở lại mà thôi. Ngoài ra, trong sách còn đề cập đến chi tiết, rành mạch những việc tu luyện từng loại thú một cho dù là linh thú hay là ma thú. Ông Hùng lật qua thật nhanh như để tìm kiếm một cái gì khác nữa. Khi lật đến cuối trang, ông ta thấy rằng cuốn sách này có vẻ như bị nói đứt đoạn. Trong sách còn nhắc đến việc luyện thú còn có một bước đi tắt nữa, nếu muốn làm thánh thú chỉ cần mang đến hồ Long Nhãn, còn muốn luyện ma thú, chỉ việc chôn sống tại Tử Cấm Địa, còn luyện linh thú thì hãy cho chúng tắm nước sông Huyết Mạch. Ông Hùng đọc đến đây thì ông ta suy nghĩ, hồ Long Nhãn hình như đã được nghe được ở đâu đó, ngay cả cái tên Huyết Mạch nghe cũng quen lắm, chỉ có Tử Cấm Địa là chưa nghe đến bao giờ. Chợt ông Hùng như nhớ ra một cái gì đó, ông ta vớ vội một cuốn lịch sử Việt Nam chạy ngay ra ngoài phòng trưng bày của viện bảo tàng, nơi mà có một mô hình đất lớn về lãnh thổ đất nước Việt Nam. Ông Hùng nhanh tay bật đèn, và đặt quyển sách lịch sử lên mặt kính của mô hình đất nước Việt Nam.
Ông Hùng nhanh tay lật sách và tìm kiếm địa danh đầu tiên mà cuốn kinh cổ kia nhắc đến đầu tiên, đó là hồ Long Nhãn. Sau một hồi tìm kiếm, ông Hùng nhận ra rằng đây hồ Long Nhãn không phải cái hồ nào khác mà nó chính là hồ Hoàn Kiếm. Ông Hùng suy ngẫm, vậy không lẽ truyền thuyết là có thật? Ông Hùng nhớ trong kho tàng lịch sử truyền thuyết Việt Nam, đã từng có truyền thuyết kể rằng, Việt Nam là một trong những vùng đất địa linh nhân kiệt, là một trong ba nơi duy nhất có cánh cổng dẫn lên cõi trên, hay nói cách khác, dẫn lên thiên đường. hồ Long nhãn chính là Chung Giới Môn, cánh cửa dẫn lên thiên đường. Tương truyền rằng không một người phàm nào có thể mở được cánh cửa này, phải luôn luôn có một người bán tiên bán phàm (nửa tiên nửa phàm) để mở ra. Thêm vào đó, còn có một vị thần được phái trách nhiệm canh giữ cánh cổng đó, và ông ta đã giữ cánh cổng đó từ lâu rất lâu rồi. Ông Hùng nghĩ thầm, "không lẽ đó là thần Kim Quy, người cho vua Lệ Lợi mượn gươm thần?". Tiếp theo đó ông Hùng lại lật sách, tìm kiếm trên bản đồ vị trí của sông Huyết Mạch, sau một hồi tìm kiếm, ông Hùng ngạc nhiên khi nhận ra rằng sông Huyết Mạch không phải xa lạ gì mà chính là sông Hồng của Việt Nam. Người bây giờ nói rằng sông Hồng có màu đỏ vì nước sông chưa nhiều phù sa lắm, nhưng trong truyền thuyết thì nói rằng bên dưới sông Hồng chính là Huyết Mạch của một con kim long. Ông Hùng thầm nghĩ "không lẽ cái truyền thuyết kim long giáng trần là có thật?", vậy cái truyềng thuyết kim long giáng trần là sao? Người Việt Nam từ xưa tin rằng đất Việt Nam không phải có ngay từ khi bàng thổ sơ khai. Tương truyền rằng khi bàng thổ sơ khai, thiên phụ và địa mẫu có nuôi một con kim long. Nhưng ngay khi thiên phụ địa mẫu hai người quyết định tạo ra con người, trên trần thế, kim long đã tình nguyện giáng trần để chọn ra một mảnh đất tốt nhất làm nơi đặt cánh cửa chung giới môn đầu tiên để tạo cơ hội cho loài người khi tu thành chính quả có thể thăng thiên làm thần tiên.
Nhưng điều đáng buồn đó là khi xuống giới trần thế, kim long đã mắc phải một thứ căn bệnh, một thứ căn bệnh đã ngăn cản không cho kim long thăng thiên được nữa, đó là nảy sinh tình cảm. Ngày trước trên thiên đình đã có một thiên luật rất khắt khe, đó là hễ làm thần tiên thì tuyệt đối không được phép có tâm tư tình cảm gì, vậy mà khi kim long giáng trần, do quá ham mê cảnh đẹp trốn trần thế mả dần quên đi rằng bản thân mình là một thánh thú. Mặc cho kim long hết lời van xin, nhưng thiên phụ và địa mẫu vẫn phải gạt tay và không chấp nhận cho kim long trở lại thiên đình. Biết rằng bản thân mình đã xúc phạm thiên điều, điều đó khó mà tránh được tội chết, tuy nhiên kim long vẫn muốn đền đáp công ơn thiên phụ địa mẫu đã nuôi dưỡng và chăm sóc mình. Ở trần thế lâu, tiên khí của kim long ngày càng hao tổn và tiêu tan dần, trước khi chết, kim long van xin thiên phụ và địa mẫu rằng sau khi mình chết, hãy biến xác mình thành một vùng đất mới, tạo thành một vùng đất địa linh nhân kiệt, đặt chung giới môn ngay ở đấy. Chiều theo ước nguyện cuối cùng của kim long, thiên phụ địa mẫu đã đồng ý. Kim long cuối cùng cũng nằm xuống, dáng người cong cong hình chữ s ngay cạnh một bờ biển biển rất đẹp, trước khi chết, bạch long còn nhổ ra hai viên ngọc quý trôi thẳng ra ngoài biển. Sau này, thiên phụ và địa mẫu đã hóa xác bạch long thành một mảnh đất hình chữ S. Nghĩ đến đây, ông Hùng như tự hiểu rằng, con sông Hồng đó có mầu đỏ là vì nó chính là mạch máu chính của kim long, chừng nào sông còn đỏ, tức là máu trong người kim long vẫn chảy, và điều đó có nghĩa rằng bạch long vẫn còn sống. Và tại sao kinh đô nước ta ngày đó lại được đặt tên là Thăng Long, không lẽ người đời xưa luôn mong muốn rằng có ngày con kim long này sẽ được thiên phụ và địa mẫu tha thứ để mà thăng lên cõi trời một lần nữa? Hai viên ngọc mà kim long nhả ra không lẽ giờ đã biến thành đảo Trường Sa và Hoàng Sa? Chợt ông Hùng như nhớ đến còn có mảnh đất dữ thứ ba mà trong sách đề cập đến, đó là Tử Cấm Địa. ông Hùng vội mở sách tra cứu, cuối cùng ông nhìn xuống mô hình đất nước Việt Nam. Ông Hùng há mồm kinh ngạc, vùng đất tử địa đó chính là ...
Chợt một cơn gió lạnh thổi thẳng vào gáy của ông Hùng khiến cho ông khẽ rùng mình. Ông Hùng quay đầu lại nhìn, mặc dù bốn bề vẫn hết sức im lặng, nhưng ông vẫn có cảm giác như trong cái viện bảo tàng dân tộc học này có một ai khác nữa chứ không phải mình ông. Ông Hùng đi ra khỏi phòng trưng bày mô hình, ông ngó nghiêng một lúc rồi gọi lớn:
- Có ai ở đây không?
Bốn bề vẫn im lặng, không một tiếng trả lời. Lúc ông Hùng vừa quay đầu vào thì chợt có một người nhanh như cắt tiến lại đằng sau bịt miệng ông Hùng, đó chính là Lâm. Lâm bóp cổ, ép ông Hùng vào tường. Ông Hùng lúc này mới sợ hãi nói:
- Anh ... anh là ai? Anh muốn cái gì?
Lâm nhìn ông Hùng cười, chưa nói năng gì. Một lúc sau tiến vào cùng phòng là Mười Họa, trên tay cầm cuốn Thoại Thú Kinh. Ông Hùng còn chưa kịp hỏi thì Mười Họa định làm gì với cuốn kinh đó thì cuốn kinh đã tự động bốc cháy ngùn ngụt trên tay lão Mười Họa. Ông Hùng kinh hãi hết nhìn Mười Họa rồi lại nhìn Lâm. Lúc này đây khắp trên người Lâm bắt đầu nổi lên những hình xăm vằn vện, những chữ Hán cổ. Lâm lúc này mới nói:
- Nói đi, Tử Cấm Địa là vùng đất nào ở Việt Nam?
Ông Hùng nghĩ rằng những người này là những kẻ xấu, ông ta nói:
- Tôi làm sao mà biết được?
Lâm cười lớn, thế rồi hắn lấy tay vận lực thọi mạnh vào bụng ông Hùng một phát. Khiến ông Hùng sặc máu mồm đau đớn. Thế rồi Lâm nói:
- Ông cầm trên tay cuốn Thoại Thú Kinh, sau đó cầm thêm một quyển sách sử ra dò tìm khắp mô hình vùng đất Việt Nam, chả lẽ ông không biết Tử Cấm Địa ở đâu?
Ông Hùng nói:
- Các người ... các người theo dõi tôi?
Mười Họa huýt sao một phát. Từ trên trần căn buồng, nơi góc tối đen như mực chợt một con vật lao vụt ra và đậu ngay trên cái bàn kính. Ông Hùng kinh hãi nhìn con vật đó, đó chính là ma quạ. Theo như ông đọc được trong sách Thoại Thú Kinh, ma quạ là một trong những ma thú, không hiểu sao không có cách luyện linh quạ mà chỉ luyện được ma quạ. Theo những gì ông nhớ, thì ma quạ trong sách có nói là con vật theo dõi bí mật và an toàn nhất, hơn thế nữa, đặc biệt hơn nữa, ma quạ thường nấp dưới bóng tối và trở thành vô hình, ngay đến cả những con vật nhìn thấy ma như chó hay mèo cũng hiếm khi mà nhìn thấy ma quạ được. Ma quạ còn có một quyền năng nữa là nó có thể mổ chết người, ma quạ mỗi khi mổ người nó sẽ mổ đủ năm điểm, đầu, hai chân, và hai tay. Nếu để nó mổ đủ ba nhát mỗi nơi, thì con người ta sẽ có cảm giác như bị trằm nghìn mũi kim đâm xuyên thấu người, sau đó tim của họ sẽ vỡ tung mà chết. Giờ đây ông Hùng đang tận mắt nhìn thấy một con ma thú đứng cách mình có mấy bước, khắp người nó nổi lên nhừng vằn vện đỏ rực bốc khỏi, và nguyên đôi mắt, cái đôi mắt đỏ rực đó cũng khiến ông phải rùng mình sợ hãi. Bây giờ thì ông Hùng phải thừa nhận rằng, truyền thuyết là có thật, ma quỷ và thần thánh cũng đều là có thật. Chợt tên Lâm dùng một tay túm tóc ông Hùng dựng mặt ông ta lên và nói:
- Nói đi, ông biết kia là con gì rồi chứ?
Ông Hùng vẫn nằng nặc nói rằng không biết, cuối cùng Lâm quay qua nhìn Mười Họa. Chỉ thấy Mười Họa lầm rầm đọc một thứ thần chú gì đó, rồi thổi về hướng con ma quạ. Ngay tức thì con ma quạ đi một vòng trên mặt kính như thể nhìn khắp cái mô hình nước Việt Nam. Nó dừng lại ở một chỗ và gõ mạnh lên kính tạo thành một vết nứt vòng tròn. Mười Họa tiến tới nhìn thẳng từ vòng tròn đó xuống dưới phía cái mô hình đất nước Việt Nam. Sau đó lão ta quay lên mỉm cười nhìn Lâm, vậy là lão ta đã biết Tử Cấm Địa nằm ở đâu trên đất nước Việt Nam rồi. Tên Lâm mỉm cười, một nụ cười gian ác khiến cho ông Hùng phải kinh hãi, thế rồi Lâm dưa bàn tay trái của hắn lên, trên mặt bàn tay hắn từ những hình xăm nhon hắt dần lồi ra một lưỡi dao đen xì bốc khói nghi ngút. Thằng Lâm dùng lực đâm mạnh lưỡi dao đó vào chỗ nối khớp dữa vai và cánh tay ông Hùng nói:
- Bây giờ ông hãy trả lời tôi, cái bình cổ lục giác của nhà Nguyễn để đâu?
Ông Hùng lúc đầu tiên không nói năng gì, thằng Lâm liền xoáy tay làm cho lưỡi dao xoay theo như thể tách rời cả cánh tay khỏi vai ông Hùng. Không chịu nổi đau đớn, với nghĩ rằng cái bình đó chắc cũng không có gì đáng để giấu, nên cuối cùng ông Hũng đã chỉ chỗ. Cả ba người tiến về dãy nhà C, nơi trưng bày toàn bình cổ quý giá từ các triều đại khác nhau của Việt Nam. Mười Họa đi một lúc rồi lão ta dừng lại trước một cái bình lục giác màu trắng tựa ngà voi, trên không khắc một chữ gì. Điều lạ là chiếc bình này tuy nói là cổ, nhưng trên bình không có tí tì vết gì của thơi gian, lại luôn sáng bóng như mới ra lò vậy. Lão Mười Họa cầm bình lên, thế rồi lão ta nện mạnh xuống sàn nhà. Chiếc bình rơi xuống nền vỡ tung tóe, từ trong mới trào ra một lớp cát trắng và đen nhìn rất bắt mắt. Mười Họa nhìn ông Hùng cười và nói:
- Ông vốn rất đam mê lịch sử, để tôi nói cho ông biết. Chiếc bình lục giác cổ đời nhà Nguyễn này bên trong có chứa một thứ cát cổ xưa, cát màu đen phải đào tới tận lòng trái đất mới tìm thấy, còn thứ cát trắng phải lên trên đỉnh ngọn núi cao nhất quả đất này mới tìm được. Khi hai thứ cát này trộn chung với nhau, nó sẽ tạo nên một cánh cổng dẫn sang một thế giới khác, một thế giới của những chiên binh bóng tối, thế giới của những con quỷ khát máu.
Nói xong đến đây, lão Mười Họa lôi từ trong người ra một quyển kinh sách khác. Ông Hùng đứng đó đọc qua cái tiêu đề, thì rùng mình, "Vạn Binh Kinh", thì ra "Thoại Thú Kinh" không phải là cuốn kinh duy nhất, vậy còn bao nhiêu cuốn sách tà ma yêu đạo nữa tồn tại trên đời? Ông Hùng ngồi đó trong đau đớn nhìn lão Mười Họa đọc thần chú, thế rồi lão ta cất cuốn kinh lại vô túi áo trong. Thế rồi ông ta lấy ra một con dao, rồi tự cắt tay, vẩy máu lên chỗ cát đó. Chỉ thấy ngoài trời sấm chớp ầm ầm, thế rồi khắp căn buồng tự nhiên nổi gió lạnh thấu xương. Thế rồi cái đống cát đen trắng đó như lan rộng ra, chúng xoáy lại. Thế rồi từ trong đám cát đó chui ra ba tên quỷ, người mặc áo giáp đen có nhiều chữ cổ trắng trên giáp. Điều lạ là tên nào tên nấy cũng chỉ có áo giáp, tuyệt đối không mang một chút vũ khí nào. Khi ba tên đó đã đứng lên khỏi đống cát. Ông Hùng mới hét lớn:
- Các người điên rồi, tại sao lại lôi quỷ dữ về với thế giới này? Không lẽ các người không sợ rằng sẽ có nhiều người chết sao? Bộ các người không sợ trời đầy sao?!
Lâm nhìn ông Hùng cười và nói:
- Trời đày? bọn tôi còn đang muốn lật đổ cả trời đây!
Thế rồi cả Mười Họa và Lâm cười lớn, rồi lâm ra lệnh cho một tên quỷ binh, chỉ tay về phía ông Hùng. Tên quỷ binh đó tiến lại, trên tay hắn dần hiện ra một lưỡi kiếm đen có khắc chữ cổ mầu trắng. Ông Hùng thì vẫn luôn miệng quát mắng:
- Rồi các người coi! Ông trời có mắt! Các người sẽ phải trả giá! Sẽ phải đền tội...!
Chưa kịp nói dứt câu, tên quỷ binh đã vung kiếm chặt đứt đầu ông Hùng, máu văng lên tường tung tóe. Lâm quay qua Mười Họa nói:
- Ông ở đây với mấy tên quỷ binh này lo việc triệu tập đi, tôi sẽ về báo cáo với Tuấn.
Mười Họa gật đầu, thế rồi khi Lâm quay đi, thì ông Mười Họa đang đứng đó đọc thần chú, nhiều và nhiều tên quỷ binh khác chui ra từ vũng cát đen trắng, từ mười, rồi đến một trăm, đến một ngàn...