Luyện Hồn

Phần 2 - Chương 3

Trong lúc đó, tại ngoại thành Hải Hưng...

- Tỉ xem, tiểu thư này xuất thân thế nào?

Thu Oanh cầm miếng ngọc bội tìm thấy trong bọc đồ của Khả Uyên, ngắm nghía một chút liền quay ra hỏi Hà Anh. Vật này vô cùng tinh xảo, chất liệu cũng rất là trân quý, hơn nữa trên mặt còn khắc một chữ "vương". Để mà đánh giá được dòng dõi thì tiểu cô nương đây phải thuộc hàng trâm anh thế phiệt, không chừng còn là con cháu vua chúa, nếu quả thật là như vậy thì chuyến này hai người sẽ kiếm được một khoản béo bở.

- Chậc, mở miệng là đòi tìm hoàng tổ phụ, hoàng tổ phụ, cái đó có phải là thứ để xưng hô bừa bãi đâu, tuy trẻ con không biết gì, nhưng cách gọi là do người lớn chỉ dạy, không nhầm được, tiểu thư này chắc chắn xuất thân từ hoàng tộc -Thu Oanh buông miếng ngọc bội xuống, xuýt xoa nhìn Khả Uyên đang ngủ trên giường, đường nét khả ái, tuy chưa trổ mã nhưng sau này chắc chắn sẽ trở thành một mỹ nhân sắc nước hương trời.

Bỗng thấy Hà Anh bên cạnh thở dài, nãy giờ nàng thao thao bất tuyệt mà không để ý tỉ tỉ một chút cũng không đáp lại, chỉ chăm chú đọc cuốn trục, Thu Oanh hỏi:

- Trong đó viết gì vậy?

- Muội đọc thử đi -Hà Anh đưa cuốn trục cho Thu Oanh, khuôn mặt tràn đầy suy tư.

- Tỉ đùa ta à? Ta đâu có biết chữ -Thu Oanh gạt đi.

- Thì thế, ta cũng đâu có biết chữ, trong này viết gì ta không hiểu.

Hà Anh vò đầu bứt tai đáp, dứt lời thì cả hai cùng thở dài. Sinh ra là phận nữ nhi, lại là con nhà võ, từ sớm hai người đã lăn lộn giang hồ, không nói sách thánh hiền, tới mặt chữ như thế nào cũng chính là làm khó bọn họ. Ngoài một vài nét ngang nét sổ đơn giản như chữ "vương", thì tất cả đều như kiến bò trên giấy.

- Nhưng mà tỉ có thấy gì khác lạ trong đó không? -Thu Oanh nghi hoặc hỏi, ngoài miếng ngọc bội và cuốn trục thì tiểu thư kia không có gì đáng giá trên người – là vật mà mẫu thân nàng ấy đặc biệt giao cho trong lúc sinh tử cận kề, không lý nào chỉ là một cuộn giấy bình thường được.

- Có một dấu triện ở đây – Hà Anh chỉ vào dấu vuông đỏ chót, nói – ngoài ra còn một cái bản đồ đánh dấu tùm lum, ta thấy có chút quen mắt, muội xem đây là ý gì?

Vốn dĩ Đình Thiên có ghi chú bản đồ những phủ thân vương xung quanh kinh thành, đây là những kẻ cấu kết với quân bạo loạn, âm mưu nổi dậy tiếp ứng khi quân địch đánh vào kinh thành. Thu Oanh nhìn một lát, hai mắt nàng ấy sáng lên, gật gù nói:

- Đây rất có thể là trúc thư, đánh dấu những nhà vay nợ chưa trả, đầu năm nay chiến tranh liên miên, sống chết không biết đằng nào mà lần, có cái này thì không sợ con cháu thiệt thòi.

- Có lý, nhưng những chỗ đánh dấu đều rất gần kinh thành, ta thấy giống với tài sản tư gia hơn, biệt phủ hoặc cửa tiệm buôn bán vân vân – Hà Anh đắc ý nói.

- Đúng là tỉ tỉ của ta, nhìn qua liền đoán được, đã là người trong hoàng tộc thì chắc chắn phải có tư gia, biệt phủ,... nhưng mà nhiều như vậy thì chẳng phải giàu quá rồi sao? -Thu Oanh nhẩm tính, phải tới sáu bảy nóc nhà, nàng ta chép miệng, tiếp – lẽ nào là tham quan, nếu thế chết cũng đáng lắm.

- Không hẳn, muội cũng thấy hung thủ là Tu Ma Nhân, sai khiến được đám người xấu xa đó thì không thể là thường dân, nói thẳng ra thì đó cũng phải là người trong tà phái, đuổi cùng gϊếŧ tận như vậy, chỉ có thể là thâm thù đại hận với chính phái – Hà Anh trầm ngâm đáp.

- Vẫn là tỉ tỉ sâu sắc hơn ta, mà thôi, người chết thì cũng chết rồi, chúng ta cứu người sống, tỉ nghĩ xem nếu được trả công một trong những tư gia này, tỉ muốn chúng ta làm gì? – Thu Oanh cười tít mắt hỏi.

- Ta chưa nghĩ đến, còn muội?

- Ta sẽ mở một kỹ viện thật lớn, lớn nhất kinh thành, tuyển thật nhiều ả đào về ca hát.

- Ta chưa từng thấy muội nói về chuyện muốn mở kỹ viện – Hà Anh ngạc nhiên nói.

- Ây da, ta cũng là người thực tế mà, trước đây chúng ta đâu kiếm được nhiều bạc như vậy, không có tiền sao nghĩ tới mở kỹ viện, giờ cơ hội đến rồi, ta mới nghĩ ra đấy. Nếu mở kỹ viện, chúng ta ngày ngày nghe ả đào đàn hát, đêm đêm uống rượu thưởng trăng, cuộc sống khi đó thật là vui vẻ -Thu Oanh cao hứng đáp.

- Biết đâu khi đó ta được gặp lại chàng – Hà Anh nghe mà hai mắt lấp lánh lệ, bất giác lấy trong áo ra một chiếc khăn tay, cũng đã nhiều năm trôi qua, nhưng hình bóng vị công tử anh tuấn tiêu sái năm đó vẫn rõ nét trong thâm tâm nàng, mỗi khi nhìn vào chiếc khăn nàng lại thấy lòng mình ấm áp.

- Tỉ à, người ta chỉ tùy tiện cứu giúp tỉ một chút, mà tỉ làm như người ta chiếu cố tỉ cả đời vậy. Lão nương của ta, mười mấy năm rồi, cũng nên tỉnh mộng đi thôi – Thu Oanh mỗi lần nhìn thấy vẻ mặt đó của Hà Anh thường tỏ ra chán chường, biết bao nam nhân gặp qua mà vị tỉ tỉ này chỉ lưu luyến mỗi một người, nhiều lúc đã toan đi tìm cố nhân, nhưng đều bị nàng ngăn lại, nói:

- Hay là tỉ quên mất thân phận của chúng ta? Chúng ta là Quỷ Khách, số mệnh của chúng ta là gϊếŧ hoặc bị gϊếŧ bởi Tu Ma Nhân. Ta không nói thì tỉ cũng biết, người đi cùng với công tử đó là đồng môn của chúng, không, thân phận của kẻ đó thậm chí còn đặc biệt hơn nữa, là một trong tam thức Nhục Long Mẫu, Hỏa Long Thiên Thủ.

Vốn tưởng đó chỉ là truyền thuyết, Nhục Long Mẫu hay còn gọi là Mẹ Rồng, tương truyền bà ta là người khai sinh ra tà phái, có nhiều phép thần thông, hô phong hoán vũ, xoay chuyển càn khôn. Nhân chi sơ tính bản thiện, Mẹ Rồng cũng xuất phát từ chính phái, nhưng qua quá trình tu tập, nhận thấy bể khổ vô lối, trầm luân mãn kiếp, không thể phí hoài sức mạnh vì nhân sinh phàm tục, Mẹ Rồng đã phá vỡ thiên mệnh, tự xưng là thần, chưa kể còn khinh sư diệt tổ, tội lỗi tày đình.

Sau đó Mẹ Rồng tự lập ra môn phái, gây nhiều chuyện thương thiên hại lý, khiến cho chính phái không thể tiếp tục dung thứ, cuối cùng phải đại khai sát giới, tiêu diệt Mẹ Rồng. Vì tu vi quá cao thâm, nên chính phái sau khi khai tử bà ta, đã phải tách phân rã thân xác bà ta làm ba phần để tránh hậu họa về sau, đây cũng chính là khởi nguyên của tam thức Nhục Long Mẫu.

Nhục Long Mẫu là xác Mẹ Rồng, ám chỉ truyền nhân của Mẹ Rồng, hoặc là nói Mẹ Rồng trong thân xác mới. Tam thức Nhục Long Mẫu là ba phần bị tách rời của bà ta sau khi chết, bao gồm Hỏa Long Thiên Thủ, tức là phần đầu rồng phun ra lửa thì ở trên trời, Thủy Long Tàng Hải, tức là thân rồng hô phong hoán vũ thì trầm xuống biển, Địa Long Vãn Sơn, tức là đuôi rồng gây địa chấn thì chôn trong núi. Nếu ba phần này quy tụ thì Mẹ Rồng sẽ được hồi sinh, đồng nghĩa với mạt thế của chính phái, nhưng thực tế thì đây chỉ là truyền thuyết thôi, không ai từng thấy tam thức Nhục Long Mẫu tồn tại.

Lại nói chính phái ngày ấy chỉ diệt được một Mẹ Rồng, còn đám môn đồ tà ma yêu đạo thì trốn chạy hết, bọn chúng âm thầm lớn mạnh, gây ra biết bao cuộc chiến chính tà, giằng co dai dẳng tới ngày nay. Thời thế tạo anh hùng, theo thời gian chính phái dần mất đi vị thế trong thiên hạ, thay vào đó tà phái nổi lên như một dịch bệnh lây lan trong dân chúng mà không có thuốc thang nào chữa khỏi. Gần đây còn nghe nói tà phải quy về một mối, chính là bởi Tu Ma Nhân đã luyện thành Nhục Long Mẫu, truyền thuyết sắp tái hiện một lần nữa.

- Không biết chừng kẻ đứng đầu đám Tu Ma Nhân lại chính là vị bằng hữu của công tử kia, Hỏa Long Thiên Thủ mà chúng ta thấy uy lực như vậy thì không thể là giả được.

Thu Oanh nhớ lại, đêm hôm đó trong kỹ viện, cả căn phòng bỗng sáng bừng lên, con rồng lửa đỏ rực dũng mãnh lao tới nuốt chửng xà tinh, sức nóng mà nó tỏa ra dù đứng cách xa cũng vẫn thấy bỏng rát. Thậm chí l*иg ngực còn bị áp lực làm cho đau tức khó thở, cảm giác giống như trong lò bát quái vậy.

Vốn hai người cũng được kể về truyền thuyết này khi còn bé, nhưng con rồng lửa mà các nàng tưởng tượng không khủng khϊếp bằng con rồng thực tế. Phải biết là vảy rắn của xà tinh là một trong những bảo giáp lợi hại bậc nhất, vậy mà lại cháy thành tro sau khi trúng một chiêu Hỏa Long Thiên Thủ. Đấy là người kia chưa vận toàn bộ sức lực, nếu không chắc hai người không thể toàn mạng mà ngồi đây hôm nay. Vị công tử anh tuấn đối với người này rất coi trọng, không tránh khỏi liên lụy sâu xa, để mà nghĩ là trong sạch thì rất khó. Coi như ông trời có mắt, không để hai người bị bại lộ thân phận, rủi mà khi đó bị phát hiện, sợ rằng Hà Anh có chết cũng sẽ ôm tương tư với vị công tử kia mà chết.

- Ta biết, muội không cần phải nhiều lời nữa.

Hà Anh đối với tam thức Nhục Long Mẫu thì rõ hơn ai hết, Quỷ Khách còn chịu lời nguyền nô bộc cho Tu Ma Nhân, nên mỗi lần đối đầu luôn gặp bất lợi. Nàng và Thu Oanh phiêu bạt khắp nơi cũng vì tránh né truy sát của tà phái, gia tộc hai nàng do đó mà diệt vong, chung quy Tu Ma Nhân và Quỷ Khách vĩnh viễn không đội trời chung, chỉ có thể gϊếŧ hoặc bị gϊếŧ mà thôi.

- Nếu tỉ muốn gả đi, vậy ta sẽ tìm bà mối tốt nhất cho tỉ, chọn lấy một đức lang quân văn võ song toàn, sắc vóc hơn hẳn vị công tử kia – Thu Oanh giễu cợt.

- Nói năng hàm hồ, muội mau đi ngủ đi, còn nói nữa coi chừng ta dùng gia pháp với muội đấy – Hà Anh cất chiếc khăn tay đi, nghĩ cũng đã muộn, nàng gói ghém lại đồ đạc trả cho Khả Uyên, sau đó giục Thu Oanh đi ngủ.

Sáng hôm sau, ba người rời khỏi khách điếm, đi về mạn phía tây, men theo những làng mạc đông đúc, dân chạy nạn chủ yếu dồn về khu vực này nên có thể thấy so với những nơi khác thì mạn phía tây là phát triển hơn cả. Dọc đường câu Khả Uyên nói nhiều nhất là hỏi mẫu thân nàng ấy giờ đang ở đâu? Nhớ lại đêm hôm trước, trong phủ có người lạ xuất hiện, mẫu thân ngay lập tức đẩy nàng ra khỏi phủ, chỉ nói là đi tìm hoàng tổ phụ, sau đó cũng không biết mẫu thân đi đâu, nàng quay lại phủ thì không thấy người đâu nữa. Thay vào đó Khả Uyên gặp hai vị tỉ tỉ đây, nàng trước giờ chưa từng thấy qua bọn họ, nhưng cả hai cùng nói biết mẫu thân nàng ở đâu, một người sau đó còn đưa cho nàng xem một vật, nói là:

- Cây trâm này có phải là của mẫu thân em không? Bọn ta thừa lệnh phu nhân ở đây chờ em, giờ bọn ta sẽ đưa em đi tìm hoàng tổ phụ.

Cây trâm mà Thu Oanh đem ra làm tín vật chính là được lấy từ một cái xác đã nát bấy trong phủ, nàng không biết người này là ai, nhưng tư trang trên người rất lộng lẫy, trong vũng máu vẫn thấy nó ánh lên ngân quang. Nàng vốn không ham hố đồ của người chết, nhưng thoạt nhìn cũng phải động lòng, nếu đúng là của mẫu thân tiêu thư đây thì tốt rồi.

Khả Uyên nhận được cây trâm thì rất đỗi vui mừng, không nghi ngờ gì mà lập tức đi theo hai người bọn họ, ban đầu nàng rất nhớ mẫu thân, vị tỉ tỉ lớn hơn đã nói với nàng rằng:

- Mẫu thân của tiểu thư đi trước rồi, vì bận công chuyện nên không thể gặp tiểu thư sớm được, nhưng không phải vì thế mà phu nhân không thương nhớ tiểu thư, biết được tiểu thư an toàn chắc chắn phu nhân sẽ rất yên lòng. Tiểu thư nghe lời mẫu thân phải sống thật vui vẻ, đợi tìm được hoàng tổ phụ rồi tiểu thư sẽ không phải sợ gì nữa.

Dù mới gặp không lâu nhưng Khả Uyên lại cảm thấy hai người bọn họ rất thân thiết, không chỉ bởi bọn họ đối với nàng ôn nhu dịu dàng, mà còn là bởi họ cho nàng ăn rất nhiều của ngon vật lạ mà ở trong phủ nàng chưa từng được nếm qua. Vị tỉ tỉ nhỏ hơn còn hết sức chiều chuộng Khả Uyên, không nói quá nhưng tỉ ấy phải chiều nàng hơn cả mẫu thân, bất kể nàng đòi cái gì tỉ ấy cũng đều đáp ứng, nên chỉ một qua thời gian ngắn Khả Uyên liền hết nhớ mẫu thân. Dẫu mang thân phận nào thì nàng ấy vẫn chỉ là một tiểu nữ tử vô tội, chưa từng biết đến sự đời đen bạc bên ngoài, bỗng đột nhiên phải xa rời phụ mẫu, lại có người ân cần chăm sóc như vậy, nàng tin tưởng là điều hiển nhiên.

Ba người đi nửa ngày, tới một trấn tên là Trâu Đa thì dừng lại, trấn này nằm tách biệt với các làng mạc khác, từ đường lớn rẽ vào trong lòng núi, trấn Trâu Đa là ở ngõ ra bên kia. Đáng ra cứ đi đường lớn thì mới tới được kinh thành, bất quá Thu Oanh có công chuyện cần vào trấn nên tiện thể ba người nghỉ lại đây luôn. Vừa ngồi uống chén trà, nàng liền quay sang Khả Uyên hỏi:

- Ta có chút thắc mắc, không rõ phụ thân của tiểu thư là người như thế nào? - Là vì miếng ngọc bội của tiểu thư mà Thu Oanh đã phải suy nghĩ từ sáng tới giờ, kỳ lạ hơn nữa là chưa từng thấy tiểu thư đây nói về phụ thân nàng ấy, nhịn không được rốt cuộc cũng phải hỏi.

- Phụ thân ta là An thân vương, ta trước kia ở Bạc phủ chứ không phải ở đây – Khả Uyên ngây thơ đáp.

-An thân vương? Bạc phủ? – Thu Oanh nhướn lông mày hỏi lại, sau đó liếc mắt cho Hà Anh, ý nói tỉ xem, đây chính là lệnh ái của thân vương, là hoàng nữ đấy, lại còn Bạc phủ, nghe thôi đã thấy toàn tiền là tiền rồi, ta nhìn người thì cấm có sai bao giờ!

Nàng nhanh nhảu tiếp:

- Bạc phủ chắc phải rộng lắm, hay là chúng ta không đi tìm hoàng tổ phụ nữa, chúng ta tới phủ Bạc tìm phụ thân tiểu thư, được không?

- Không được – Khả Uyên lập tức lắc đầu, rầu rĩ nói – mẫu thân bảo ta, phủ Bạc đang có chiến tranh, phụ thân rất nhiều công chuyện, em không được tới quấy rầy phụ thân.

Hóa ra phụ thân của tiểu thư đang ở chiến trường, nàng và mẫu thân di tản sang nơi khác lánh nạn, tiếc là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, là số trời bắt phải chết nên không thoát được. Thu Oanh thấy nhắc tới phụ mẫu khiến Khả Uyên buồn bã, nàng liền nói lảng đi:

- Bánh tới rồi, mau ăn thôi. Ăn nhanh rồi chúng ta tới kinh thành, nào, tiểu thư ăn thử cái này đi, cẩn thận nóng.

Ăn xong Thu Oanh nói với Hà Anh đưa tiểu thư đi thăm thú trong trấn, còn nàng qua tiệm Ninh gia bàn công chuyện. Nhìn bên ngoài tiệm Ninh gia là một cửa hàng bán thuốc bắc, nhưng bên trong lại là nơi trao đổi những món chân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, giống như một tiệm sưu tập đồ quý vậy. Thu Oanh và Hà Anh chạy đông chạy tây gϊếŧ được vô số quái thú, món gì dùng được thì sẽ giữ lại, không thì thường đem bán cho các tiệm như Ninh gia.

Ngày nay thứ dịch vụ này mọc lên không ít, rải rác khắp các huyện quận lớn nhỏ, nhưng thường hoạt động trá hình, để tránh tai mắt quan binh. Chủ quán ban đầu thu mua vì hiếu kỳ, thích chơi trội, về sau thì là để bán sang tay cho các nhà giàu lắm tiền rửng mỡ, hàng hóa vì thể cũng được nâng lên tầm bàu vật, nếu để quan binh phát hiện sẽ bị tịch thu, nặng hơn là bị dẹp tiệm. Đây cũng không phải lần đầu Thu Oanh đến tiệm Ninh gia, vừa vào cửa ông chủ Ninh đã nhận ra nàng, Thu Oanh nói:

- Ta có thứ này đảm bảo ông chủ Ninh chắc chắn chưa từng thấy qua, là thứ vô tiền khoán hậu mà cả đời ông cũng chỉ thấy một lần, có cho ông đi khắp các tiệm từ đây tới kinh thành cũng không thể tìm được con thứ hai như vậy.

- Đừng nói nhảm, có hàng mau giao đi – ông chủ Ninh cầm ngang tẩu chỉ xuống bàn nói.

Thu Oanh quăng bọc đồ tới, vừa mở lớp vải ra liền ngửi thấy một mùi hôi tanh nồng nặc, dù đã cẩn thận rắc vôi bột lên nhưng không tránh khỏi lâu ngày phân hủy, tuy vẫn nhìn ra hình dạng song đã méo mó đến ghê người. Thu Oanh chỉ vào thứ trong bọc, nói:

- Đây là con Niễn, một giống cự đà trong truyền thuyết, người thường có mười cái mạng cũng đừng hòng bắt được nó, giống quái này so về sức mạnh thì hùm beo không thể địch được, so về khéo léo thì rắn rết còn phải thua xa, so về...

- Còn non quá – ông chủ Ninh gẩy gẩy một chút, nói – da mỏng, vuốt chưa khô màng, không có giá trị nhiều lắm, miễn cưỡng hong khô thì chỉ làm thảm nền được thôi.

- Đây là ông không biết thôi, ta đã phải vất vả vô cùng mới gϊếŧ được nó đem về đây, đúng là nó còn non, nhưng cũng kịp ăn vài người rồi, không tin ông cứ mổ bụng nó ra là thấy – Thu Oanh vẫn cố vớt vát.

- Ba tảng thịt trâu hay hai mươi quan tiền – ông chủ Ninh xem chán thì quay ra ghế ngồi uống trà, lại ngậm tẩu hút một hơi, vừa thong thả nhả khói vừa nói.

- Ờ kìa, ông chủ Ninh vốn tinh mắt bậc nhất thiên hạ, sao hôm nay lại nói ra mấy lời vô lý thế, kia là con Niễn đấy, ông cũng biết nó rất quý hiếm mà – Thu Oanh mon men tới gần, ngọt nhạt thuyết phục.

- Thời buổi chiến tranh loạn lạc, kiếm cái ăn còn khó, đừng nói tới bỏ tiền mua mấy món đồ vô dụng này, ta mua giúp cô nương vậy cũng là hết nhẽ rồi – ông chủ Ninh mặt lạnh tanh, gõ đầu tẩu vào ống nhổ, nheo mắt nhìn con Niễn, đáp.

- Nhưng giá đó thì không được, chẳng bằng công ta bỏ ra vác nó tới đây, chúng ta là chỗ đi lại, không lý nào ông lại để ta thiệt thòi thế chứ -Thu Oanh một mực cò kè.

- Hai tảng thịt trâu – ông chủ Ninh đổi ý, chép miệng nói.

- Ông! Được, vậy ta đem đi nơi khác, nên nhớ là không chỉ có một tiệm nhà ông, dù nó có thối thì cũng được giá hơn ở đây. Mà thà rằng ta vứt đi chứ không thèm bán cho ông, chúng ta từ đây không còn làm ăn gì hết!

Hà Anh cùng Khả Uyên đang ngồi xem người ta nặn tò he, bỗng thấy Thu Oanh thất thểu đi tới, nhìn sắc mặt có thể thấy chuyện buôn bán thất bại rồi. Hà Anh hỏi:

- Thế nào?

- Ba tảng thịt trâu – Thu Oanh mở bọc lấy ra ba tảng thịt khô màu đỏ quạch, đoạn nộ khí xung thiên mắng – lão ôn dịch, chẳng qua ta đang gấp nên không thể cho lão một trận, mất bao nhiêu công sức mới bắt được nó mà trả có ba miếng thịt khô, đúng là không có đạo lý gì nữa.

- Nếu đó là một con Niễn trưởng thành thì chúng ta chỉ cần lột da nó để dùng, không phải đem theo một quãng đường xa như vậy làm gì cho mất công – Hà Anh nghĩ có chút tiếc rẻ.

- Bỏ qua đi, chúng ta sắp giàu rồi, mấy đồng bạc lẻ này về sau không cần phải tính toán, có tiền rồi ta sẽ mua đứt Ninh gia quán của lão ôn dịch đó, xong đuổi lão ra đường với ba tảng thịt khô, xem lão làm cách nào để sống.

Thu Oanh hậm hực nói, dứt lời không thấy Hà Anh đáp lại, quay ra mới biết tỉ ấy đang mải nhìn sang bên kia, dường như ở đó có náo nhiệt, dân tình dồn đến xúm đen xúm đỏ vào một chỗ. Hai người dặn Khả Uyên đang mải mê xem nặn tò he, tiểu thư ngồi đây đợi bọn họ qua bên kia xem là chuyện gì, không được đi đâu tới khi bọn họ quay lại. Đến gần mới thấy là quân binh dán cáo thị, Thu Oanh chỉ tờ giấy hỏi:

- Đại thúc, trên đó viết gì vậy?

- Phủ Bạc ở Nghệ An xảy ra dịch bệnh, An thân vương không may nhiễm bệnh, đã chết rồi – nam nhân trung niên đáp.

-An thân vương lâm trọng bệnh qua đời rồi? – hai người kinh ngạc nói, sao lại có chuyện trùng hợp như vậy?

- Không chỉ An thân vương, mà toàn thể gia quyến và người làm trong phủ đều bị bệnh chết hết, cáo thị thông báo nếu phát hiện người từ phủ Bạc tới thì phải báo ngay cho quan phụ mẫu địa phương, tránh để dịch bệnh lây lan. Chiến tranh rồi dịch bệnh, mỗi lúc một khó sống mà – nam nhân trung niên than thở xong liền rời đi.

Hà Anh và Thu Oanh sa sầm nét mặt, không hẹn mà cùng nhìn nhau, thế này thì hoang đường thật! Thực tế là chẳng có dịch bệnh nào hết, gia quyết của An thân vương cũng không chết ở phủ Bạc, họ là bị sát hại tại phủ Tây Môn. Dịch bệnh gì mà một đêm có thể gϊếŧ hết cả một biệt phủ, bịa đặt trắng trợn như vậy, rõ ràng là người đứng sau vai vế không phải tầm thường. Khả năng cao là An thân vương cũng bị sát hại, nhưng để lấp liếʍ điều tra thì việc ban bố dịch bệnh sẽ giảm thiểu tối đa các nghi vấn, hoặc là nói chết không rõ nguyên nhân thì cũng đổ cho dịch bệnh là hợp lý nhất.

Còn một khả năng nữa, chính là kế lùa chuột khỏi hang, chắc chắn hung thủ sát hại toàn gia An thân vương là có chủ đích, hiện tại kẻ đó vẫn chưa thành công, bởi vì phát hiện ra chưa gϊếŧ được tới người cuối cùng. Một khi cáo thị được ban bố, đồng nghĩa với việc mọi nơi ẩn náu đều không còn an toàn, thậm chí kẻ đứng sau còn biết rõ con chuột đang trốn là một tiểu nữ tử, bất kể lúc nào cũng sẵn sàng nói ra thân phận hoàng nữ của An thân vương. Cái bẫy đã giăng ra chỉ đợi con chuột bị lùa khỏi hang chạy vào, tới một đứa nhỏ cũng không tha, thật ác hơn cầm thú. May mà hai người biết tới cáo thị trước khi rời đi, vốn dĩ Thu Oanh còn đang định lấy danh nghĩa của Khả Uyên để thị oai, nhưng xem ra bây giờ phải kín miệng hơn trước rồi.

Vốn là triều đình có điều tra, nhưng An thân vương đã biến mất không một dấu vết, có người nghi là thân vương sợ quân Nguyễn phá thành nên đã bỏ trốn, chỉ có gia quyến là bị sát hại không rõ nguyên nhân. Ai đó mách với hoàng thượng, để trấn an lòng dân thì chớ nên bố cáo chuyện thân vương bỏ trốn, trước mắt cứ gộp chung vào với toàn gia rồi ban bố dịch bệnh trong phủ, kể cả nếu thân vương thật sự bỏ trốn thì bằng cách này cũng dễ dàng tìm ra.

Một mũi tên trúng hai đích, dân trong vùng chiến tranh vẫn sẽ tin tưởng triều đình không bỏ rơi đám con đỏ, dốc sức cùng quan binh giữ thành, lại thêm chúa Trịnh hay tin Nghệ An đang như rắn mất đầu, lập tức điều năm ngàn quân xuống chi viện. Quân Nguyễn bỗng nhiên bị cắt đứt nội ứng liền trở nên lúng túng, mất thế thượng phong, giằng co không lâu thì phải rút khỏi Nghệ An.

Quay lại với trấn Trâu Đa, Hà Anh và Thu Oanh nghĩ một hồi thì quyết định phải nhanh chóng rời đi, đường tới kinh thành còn xa, để tránh đêm dài lắm mộng không nên ở lại một chỗ quá lâu. Nhớ cho kỹ kẻ mà họ đối đầu là Tu Ma Nhân, chỉ một sơ hở nhỏ cũng có thể trở thành đòn chí mạng. Vừa quay lại tìm Khả Uyên, bỗng giật mình không thấy tiểu thư đâu, hai người tá hỏa đi tìm, thấy người bán tò he nói vị tiểu cô nương ấy đã qua bên kia xem rước kiệu hoa rồi.

Hai nàng vội vã chạy về phía người đó chỉ, nghe văng vẳng tiếng kèn đồng í ới, đúng là có một đám rước kiệu đang diễu qua, tới gần liền thấy Khả Uyên đang đứng ở bên đường chăm chú nhìn. Thu Oanh lập tức giữ lấy nàng ấy, Khả Uyên quay sang hỏi:

- Bọn họ đang làm gì vậy?

- Đang đưa tân nương về nhà chồng – Thu Oanh nói.

- Kia là cái gì? – Khả Uyên chỉ vào chữ màu trắng dán trên kiệu.

- Đó là chữ hỷ.

- Trong kiệu là ai vậy? – Khả Uyên toan chạy vào vén rèm lên, nhưng Thu Oanh kịp ngăn lại, nói:

- Chỉ có tân lang mới được vén rèm, lớn lên rồi sẽ tới lúc tiểu thư được ngồi trong kiệu, làm một tân nương xinh đẹp như vậy.

Đoàn rước đi qua rất nhanh, tiếng kèn đồng vẫn đưa lại, điệu hỉ khúc rộn ràng, lẫn trong đó có ai nhẩm theo hát thành lời:

Tân nương, tân nương

Sống một mình cô đơn lắm thay

Đi cùng ta, đi cùng ta

Trần thế ai oán không hẹn ước

Cửu tuyền chín bước chúng ta vui vầy

Chết một mình cô đơn lắm thay

Tân nương, tân nương...

Tới khi đoàn rước đã đi vào lòng núi, sắc phục đỏ thẫm chỉ còn là những cái đốm bay lơ lửng, tiếng hát cùng tiếng kèn đã tắt lịm, Khả Uyên bỗng nhìn Thu Oanh hỏi:

- Tại sao bọn họ lại vừa đi vừa khóc?