Người như Thu Oanh và Hà Anh, trong giang hồ gọi là Quỷ Khách. Danh xưng này thực ra đã xuất hiện từ thời trước, khi các đạo phái truyền bá ồ ạt vào nước ta. Lợi dụng tình cảnh triều chính biến động, lòng dân lung lay, rất nhiều đạo phái đã biến chất, từ chính đạo một bước thành tà đạo, thay vì làm phép trừ họa cho dân, họ lại dùng tà thuật để phục vụ mục đích cá nhân. Dần dần trong giới chia rẽ thành hai phe, một phe là chính phái đứng đầu là Phật giáo, một phe là tà phái đứng đầu là tu quỷ nhân, hai bên mâu thuẫn và triệt tiêu lẫn nhau, tranh đấu công khai hoặc âm thầm tới tận ngày nay.
Quỷ Khách thực ra đây là một nhánh tách ra từ tà phái, bọn họ ban đầu là tu quỷ nhân, nhưng pháp lực không cao, thay vào đó họ lại có kỹ năng chiến đấu cực kỳ điêu luyện. Vốn xuất thân là thủ hạ đắc lực của các tu quỷ nhân cấp cao, Quỷ Khách không chấp nhận đường lối hoạt động tà ác của những người đứng đầu, vì thế mà họ nổi dậy, rất nhiều người sau đó bị gϊếŧ, nhưng bằng mọi giá họ quyết tạo phản tới cùng. Cho tới nay tu quỷ nhân vẫn không ngừng truy sát Quỷ Khách, nhân số Quỷ Khách trong một trăm năm qua đã giảm sút đáng kể, chính vì thế mà họ không thể liều lĩnh công khai hoạt động.
Mặc dù vậy, kỹ thuật cùng khả năng chiến đấu của Quỷ Khách xưa nay vẫn được xếp vào hàng thượng thừa. Công việc mà bọn họ đảm nhiệm là săn quỷ, phần lớn họ thường nhận đơn hàng từ bên ngoài, hoặc trong trường hợp khan hiếm thì sẽ tự mình tìm kiếm con mồi. Những món vũ khí của Quỷ Khách thường được chế tác từ xác quỷ bại trận. Như trong vụ xà tinh lần này, nếu thành công, Thu Oanh và Hà Anh đã có thể đem về một bộ giáp làm từ vảy rắn, thứ mà không có vũ khí nào xuyên thủng được. Tiếc là hai nàng đã quá khinh địch, hoặc đúng hơn là chọn sai thời điểm, ví như trước khi xà chúa lột xác, các nàng tương kế tựu kế đánh bại ả, vậy tỉ lệ thành công sẽ cao hơn.
Nói đến vũ khí, thanh trường đao dài ba thước mà Thu Oanh dùng để chém quỷ thực chất không phải là thứ sắt thép bình thường, nàng được thừa hưởng nó từ bà ngoại mình, một lão Quỷ Khách. Thanh trường đao đó là xương sống của một con quỷ cốt, chuyên ẩn nấp dưới nghĩa địa, ngày đêm ăn thi hài trong mộ huyệt. Nó bị lão Quỷ Khách đánh chết, xương toàn thân lập tức cứng lại thành một khối, để chế thành trường đao, lão Quỷ Khách đã mất mười ba năm mài dũa cho lưỡi đao được sắc cạnh. Tử khí trên trường đao theo thời gian không hề bị mai một, thậm chí càng sử dụng thì nó càng thêm nặng nề, đứng cách trăm trượng vẫn cảm thấy lạnh sống lưng.
Còn như song xích dao của Hà Anh, năm bảy tuổi nàng từng theo ông nội vào rừng săn heo, vô tình đυ.ng trúng con hống thổ, một loài lợn rừng lâu năm cực kỳ hung hãn, thân hình nó to như con trâu mộng, sức lực kinh người, nhắm chừng chục con hổ không địch được nó. Ông nội và mấy người trong đoàn lập tức vậy bắt, hống thổ chống trả kịch liệt, sau một ngày đêm liền bị bọn họ quật chết.
Hai chiếc răng nanh to bằng bàn tay của con hống thổ được ông nội chế thành hai lưỡi dao, món vũ khí đặc biệt này là ông dành riêng cho Hà Anh. Rất khó để điều khiển được song xích dao, nhưng từ bé Hà Anh đã được ông nội dạy dỗ thuần thục, không lâu sau do biến cố gia đình mà nàng phải chuyển đi nơi khác sinh sống. Lớn lên nàng cùng Thu Oanh tự mình ngao du thiên hạ, đem tuyệt nghệ ra tranh bá giang hồ.
Lại nói tới nghề săn quỷ, ngoài việc dùng chiến lợi phẩm để chế thành vũ khí, Quỷ Khách có thể lấy nọc quỷ làm thuốc, hoặc xạ quỷ bán cho nhà giàu làm bùa chú. Không thiếu cách kiếm tiền từ công việc này, chỉ là kẻ tự nhận mình là Quỷ Khách có đủ bản lĩnh đi săn hay không.
Thu Oanh cùng Hà Anh tới kinh thành cách đây không lâu, ngay từ đầu hai nàng đã bị thứ âm khí ngùn ngụt tỏa ra từ Thanh Thủy Viện thu hút, người bình thường khi bước vào kỹ viện này sẽ không ngửi ra, có một mùi hôi tanh lợm giọng vô cùng khả nghi ở đây. Hẳn là phải có ít nhất một hố chôn tập thể trong vùng này, tử khí dày đặc như vậy, dù là khách hay kỹ nữ thì cũng đều giống như bị tử khí làm cho mê muội.
Hai nàng liền lấy cớ mãi nghệ mà xin vào làm trong kỹ viện, dưới danh nghĩa hai cô đầu, muốn biết kia giống quỷ gì mà dám lộng hành ngay dưới chân thiên tử như vậy. Chuyện tiếp theo là bọn họ gặp đám người bên phía Tử Phàm, khám phá ra căn phòng bát quái luôn luôn khép kín sau khuôn viên kỹ viện. Tới đêm qua chính thức mọi chuyện đã ngã ngũ, thân thế của hai nàng cũng không còn giữ kín được, buộc lòng bọn họ phải rời đi.
Vì rằng trong đám nam nhân kia có một kẻ biết dùng tà thuật, triệu hồi ra hỏa long hộ thân, nếu như hắn là tu quỷ nhân, vậy Thu Oanh cùng Hà Anh sẽ gặp nguy hiểm. Quỷ Khách vốn chịu một lời nguyền, họ ban đầu phục tùng cho tu quỷ nhân, bị tu quỷ nhân yểm thuật, dù cho kỹ năng chiến đấu có cao cường, những đυ.ng trúng truyền nhân của tà phái thì vẫn không cách nào thắng được.
Thu Oanh lặng lẽ rời đi trong lúc dân tình đang náo loạn dập lửa, bỏ lại mối duyên thầm vừa chớm nở với vị công tử anh tuấn, nàng biết mình không có phúc phận ở cạnh người đó, càng không thể vì chút cảm tình mà lưu luyến bản thân lại nơi đây. Sau cùng không ai còn thấy bóng dáng hai cô đầu tài sắc ấy trong thành nữa.
Còn về chuyện ổ xà tinh sau kỹ viện thanh thủy, trận hỏa hoạn tối hôm đó lớn tới mức kinh động hoàng cung, binh lính được phái đến cùng người dân suốt đêm dập lửa. Sáng sớm hôm sau, người ta thấy dưới nền căn phòng bị thiêu trụi, có chất đống rất nhiều xương trắng, sâu bên dưới vẫn còn chôn không biết bao nhiêu xương chưa được đào ra, khói bốc lên xám như tro cốt, trong không khí đậm đặc những mùi da thịt cháy khét, xa cả trăm dặm vẫn có thể ngửi thấy.
Thanh Thủy Viện đóng cửa. Kỹ nữ trong đó chẳng còn lại bao nhiêu người, chỉ sau một đêm mà quá nửa số nữ nhân biến đâu hết, ngay cả Tú nương cũng chẳng rõ tăm hơi, số tài sản cùng tiền bạc còn lại được phân cho những kỹ nữ làm trong viện, để họ có vốn đi nơi khác kiếm sống.
Những người biết được chân tướng chuyện này chỉ có Tử Phàm và Đình Thiên. Tú nương năm xưa bị xà tinh chiếm xác, lâu nay vẫn ngấm ngầm hấp thụ linh khí, đợi ngày hóa thành yêu ma, tiếc là đại sự bất thành, thân xác của ả đã bị lửa đốt thành tro, cả bầy rắn con rắn cháu không mống nào chạy thoát, tâm huyết một đời bỗng chốc bị kẻ khác xóa sạch.
Trước khi xà chúa bị hỏa long thiêu chết, Đình Thiên đã kịp lấy lại được mảnh ngọc bội, đồng thời công tử thấy một làn sương trắng thoát ra từ trong người xà chúa, Tử Phàm nói đó là hồn phách của Tú Lê. Nàng đã được thả tự do, sau bao nhiêu năm giam cầm trong chính thân xác của mình, bị giày vò bởi lựa chọn sai lầm năm xưa, vì chút ích kỷ cá nhân mà khiến cho biết bao mạng người vô tội bị hại chết. Gánh nặng nàng mang trên người quá lớn, nợ nhân thế không cho phép nàng được siêu sinh, lúc đó Tú Lê đã chấp nhận bị giam xuống quỷ ngục cùng với xà chúa, vĩnh viễn không có ngày bước chân vào kiếp luân hồi.
Nhưng một luồng linh lực mạnh mẽ từ đâu bỗng bao bọc lấy nàng, Tú Lê không nhớ được bản thân đã bao lâu rồi không được trông thấy thứ ánh sáng mãnh liệt như vậy, sau đó nàng được cứu ra khỏi thân xác xà chúa. Nàng trẫm mình trong biển lửa, mặc cho những người sống chạy xuyên qua hồn phách, mặc cho sức nóng như thiêu như đốt xung quanh, trong mắt Tú Lê chỉ còn thấy tấm thân nửa người nửa rắn quằn quại dưới nền đất. Phải chứng kiến mình đang chết dần, cảm giác đau đớn tưởng đã nguội lạnh trong lòng nàng bỗng bùng lên, Tú Lê ngã quỵ giữa căn phòng.
Cho tới khi đám cháy chỉ còn tàn đỏ, khói xám bốc ra mịt mùng, Đình Thiên thấp thoáng thấy một thân ảnh rũ rượi ngồi giữa căn phòng kia. Chỉ là một cái bóng không hơn không kém, nhưng cảm xúc thống khổ vẫn không hề mất đi, nàng chân thật cảm nhận được mình đang tan dần, cái chết bây giờ mới thực sự diễn ra, chết từ thể xác tới linh hồn. Mưa xuống, khói tan đi, cả cái bóng của nàng cũng biến mất, chuyện xưa tới giờ mới thực sự kết thúc.
Đình Thiên nhìn tới xuất thần, công tử bất giác siết chặt mảnh ngọc bội trong tay, sợ nước mưa sẽ khiến nó tan biến mất. Tử Phàm từ phía sau tiến lên vỗ vai công tử, hắn biết chuyện trước mắt là một sự đả kích rất lớn, khiến nhân sinh quan của người thường đảo lộn, qua một trận sinh tử kịch liệt, không thể nói quên là quên ngay được.
Đó đã là chuyện của hơn hai tháng trước. Hiện tại, Đình Thiên đang ngồi trong một căn nhà hoang, bên cạnh là Tử Phàm cùng hai hộ vệ tướng, nơi này cách kinh thành mười ba ngày đi ngựa, nói một cách dễ hiểu là, bốn người đã gấp rút lên đường tới Bạch Mộc Lương Tử sơn tìm Đắc gia. Dựa theo đồ hình mà kỷ lão tiên sinh đã vẽ lại, bốn người rời kinh ngược lên mạn bắc, có một con đường mà dân thương buôn vẫn mách nhau để tới vùng dân tộc miền núi, Tử Phàm biết con đường đó.
Dưới ánh lửa có thể thấy Đình Thiên đang đăm chiêu nhìn vào mảnh ngọc bội trong lòng bàn tay, hai đầu mày hơi nhíu lại, khuôn mặt không giấu được vẻ phiền muội.
Chuyện là sau khi về phủ, thương thế của công tử cơ bản không đáng ngại, mấy người kia nhiều nhất chỉ mất chục ngày liền có thể hoạt động bình thường. Đình Thiên vốn tưởng không còn gì bận tâm, một tháng sau, bấy giờ công tử mới nhìn đến mảnh ngọc bội, thấy màu lục bảo bỗng sẫm lại, từ giữa xuất hiện một chấm đen, dường như cái chấm đó còn đang lan rộng ra.
Đình Thiên ngay lập tức cho gọi Tử Phàm tới, hỏi hắn đây chuyện gì? Tử Phàm cầm mảnh ngọc lên quan sát, sau đó liền đáp, chấm đen này là tà khí từ xà tinh xâm nhập vào, trong thời gian ngắn nếu không có biện pháp lấy nó ra, có thể tà khí sẽ còn lan rộng. Công tử trong lòng lo lắng, lại hỏi như vậy có ảnh hưởng tới hồn phách của mẫu thân không?
Tử Phàm gật đầu, mặt ra vẻ nghiêm trọng, hắn còn nói tà khí này đã ngấm vào sâu trong ngọc bội, rất có thể linh lực của mẫu thân công tử đã bị tổn thương, ngay cả hắn cũng không biết cách khu trừ tà khí ra ngoài.
Cách duy nhất bây giờ là phải tới tìm người chế tác ngọc luyện hồn, đi đường chính có thể sẽ mất nhiều thời gian, hắn biết một đường tắt, tuy có nguy hiểm một chút, nhưng đổi lại không phải chạy lòng vòng nhiều. Đó chính là đường của dân thương buôn chốn đồn kiểm soát, so với đường chính thì mối nguy lớn nhất ở đây là gặp phải lục lâm thảo khấu, mùa này thương buôn chưa hoạt động nhộn nhịp, khả năng đó không cao, chọn đi đường này vẫn là tốt nhất.
Bốn người cưỡi ngựa ròng rã mười ba ngày, sáng đi tối nghỉ, nhà dân hai bên thưa thớt dần, sau thì không còn thấy nóc nhà nào hiện ra nữa, dọc đường chỉ còn đồi núi trập trùng và rừng cây ngút tầm mắt. Đi đã lâu, tính ra cũng đến một ngày một đêm người và ngựa đều chưa được nghỉ, trời vừa tối thì trước mặt bốn người liền xuất hiện một thôn sơn. Đình Thiên cho ngựa chạy chậm lại, thôn sơn này không có cổng trại, rải rác là vài chục nóc nhà nợp rơm lụp xụp, vách nhà thấp hơn một thân người, không khí im ắng, tới một ánh lửa cũng không có.
- Thôn này có phải đã bỏ hoang rồi không? – Bá Dũng cúi đầu nhìn vào mấy căn nhà, đồ đạc bên trong thô xơ, vật dụng hầu như không có gì, chỉ thấy nhiều nhất là giường và bàn thì nhà nào cũng có.
Kỳ quái là cửa ngoài vẫn được cài then cẩn thận, bốn người thấy thế thì không tùy tiện mở ra, bỏ qua gần hết các nhà trong thôn, tới khi thấy một căn chắc chắn bỏ hoang rồi, cửa mục tới mức rời hẳn ra, bên trong mọi thứ đều gãy nát, họ mới tiến vào nghỉ chân. Củi sẵn nên bốn người nhanh chóng nhóm một đống lửa, đun nước, nướng bánh, vừa ăn vừa trò chuyện.
Nếu tiếp tục cưỡi ngựa đi thẳng đường này, tới vùng dân tộc miền núi thì còn khoảng năm ngày nữa, sau đó bỏ tiền thuê một người dẫn đến hồ nước đối diện với Bạch Mộc Lương Tử sơn, vậy xem như mười ngày đã tới nơi.
Thấy Đình Thiên trầm tư nhìn mảnh ngọc bội, Tử Phàm nói:
- Công tử đừng lo, chúng ta sắp tìm được vị tiên nhân kia rồi, chắc chắn sẽ có cách.
Qua mười ba ngày, chấm đen từ tâm mảnh ngọc đã lan ra to bằng đầu đũa, xung quanh chằng chịt những sợi như tớ máu, có khi mẫu thân công tử đang phải đấu tranh với tà khí bên trong để ngăn cho nó lớn thêm. Đình Thiên thầm thở dài, đem mảnh ngọc cất vào trong áo, thay vì ngày nào cũng nóng lòng nhìn vào chấm đen kia, công tử nên tập trung tìm đường lên núi thì hơn. Cùng lúc lại nghe Bá Dũng hỏi:
- Thôn trại này thoạt nhìn không giống như bỏ hoang, tại sao bên trong lại không có bóng người nào như vậy?
Mọi người gật đầu, nhưng tuyệt nhiên nghĩ không ra lý do vì sao, Quốc Trí cũng nói:
- Đường lối ở đây tương đối sạch sẽ, giống như mới được quét dọn, có thể thôn dân vì một lý do nào đó vừa chuyển đi cách đây không lâu.
Tử Phàm nghe vậy liền à một tiếng, hắn nhớ ra từng thấy ai đó nói về chuyện tương tự, mấy người liền nhìn hắn, Tử Phàm nhướn mày đáp:
- Thực ra bần đạo mới chỉ nghe đoàn thương buôn nói về cách sinh sống nay đây mai đó của người dân tộc, chưa chứng kiến tận mắt bao giờ. Nhưng đúng là người miền núi thường không chọn cách định cư lâu dài, họ phát nương làm rẫy một thời gian, sau khi đất đai hết màu mỡ rồi thì bỏ nơi ở cũ đi tìm mảnh đất mới để trồng cấy tiếp.
- Xây nhà lập ấp kiên cố như vậy chỉ để dùng một thời gian, nếu cứ sau mỗi vụ mùa lại chuyển nơi ở mới, chẳng phải rất phí sức người hay sao? – Đình Thiên đập tay vào vách đất, quả nhiên là tường được đắp rất chắc chắn.
- Cũng có thể là thôn dân chỉ di tản vào rừng do chiến tranh nơi biên giới thôi. Dạo gần đây thương buôn cũng truyền tai nhau nói về việc quân thanh chuẩn bị vũ khí, e rằng chiến tranh sẽ sớm nổ ra – Tử Phàm trầm ngâm đáp.
- Suỵt! – Quốc Trí ra hiệu yên lặng – có tiếng người đang đi đến đây.
Vũ hộ vệ hé cánh liếp cửa sổ ra, liền thấy có ánh sáng từ xa chiếu tới, đằng kia xuất hiện một đám người, đông không đếm xuể, đèn đuốc rùng rùng bước qua. Đình Thiên cũng đến xem là chuyện gì, công tử vừa nhìn, bên cạnh liền có người nói nhỏ, là thôn dân, họ từ đầu làng trở về, mấy người đi trước có công kênh một vật, đám người đi sau rước đuốc đội khăn, tất cả bước qua trong im lặng. Tử Phàm ngồi trong ngó ra, lúc bấy giờ đoàn thôn dân đã đi tới gần hơn, trông rõ hình dạng thứ mấy người đi trước đang ghé vai kênh lên.
Đó là một cỗ quan tài.
Mặt Tử Phàm lập tức sa sầm, bề ngang hai thước, bề dọc năm thước, cao hơn một thước, bốn góc vuông vức, tám người khiêng, người đi sau còn vung thứ gì như giấy vàng dọc đường, không sai, đây chính là một cỗ quan tài. Hóa ra thôn dân ở đây đóng cửa đi dự đám tang hết, có lẽ giờ họ đang đem quan tài đi chôn, nhưng mà, Tử Phàm nhẩm tính, giờ là nửa đêm, không ai lại đào mồ mả giờ này.
Bình thường người ta sẽ kiêng kỵ chôn đêm, họa hoằn lắm nhà nào đẻ con mà mẹ chết con chết thì mới gặp giờ nào chôn giờ ấy, một xác hai mạng là tối kị, còn tất cả đều lựa buổi sáng để mai táng cho sạch sẽ. Chẳng lẽ người trong quan tài kia là trường hợp đặc biệt đó, vậy tốt nhất không nên xem, người lạ xem rước quan sẽ dễ gặp bất trắc trên đường đi. Vì thổ công ở vùng đó không trông chừng cho họ được, gặp vong thiêng có thể bị theo chân suốt dọc đường, nói gở thì còn bị hại chết.
Tử Phàm kéo Đình Thiên cùng Bá Dũng lại, nói:
- Đừng nhìn, mặc cho bọn họ đi qua, chúng ta cũng không động vào nhà nào cả, nếu họ tới hỏi thì chúng ta sẽ nói là khách qua đường nghỉ chân tạm trong thôn một đêm.
Quốc Trí vẫn nghía ra thêm chút nữa, hắn có linh cảm chuyện này rất bất thường, đám rước ma đi tới gần, cánh liếp hạ xuống chỉ đủ một con mắt lọt qua. Chợt thấy tay Quốc Trí ra hiệu, mặt hướng ra ngoài, hắn nói nhỏ:
- Tử Phàm, ngươi xem, người nằm trong quan đang nhìn về phía chúng ta kìa.